You are on page 1of 6

Câu 4: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vai trò của thực tiễn đối

với nhận
thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận cho hoạt động học tập và nghiên cứu của bản thân.
THỰC TIỄN
- Quan niệm trước Mác:
+CNDT: hoạt động của tinh thân nói chung là hoạt động thực tiễn
+ Triết học tôn giáo: thì cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của thượng đế là hoạt động
thực tiễn
+ CNDVSH: sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức
khách thể hay hình thức trực quan
- Quan niệm của Mác: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Đặc trưng của hoạt động thực tiễn:
+ Là hoạt động vật chất - cảm tính

Như lời của Karl Marx (1818-1883) : “ Đó là những hoạt động vật chất của con người
cảm giác được. Nghĩa là con người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật
chất này. Hoạt động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử
dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm
biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được thế giới khách quan
phục vụ cho mình.”

+ Là phương thức tồn tại cơ bản, phổ biến của con người và xã hội

Nghĩa là thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo
người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, con người truyền lại cho nhau những
kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác, cũng vì vậy hoạt động thực tiễn luôn bị
giới hạn bởi những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có trải qua
các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.

+ Là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội

Khác với hoạt động có tính bản năng, tự phát của động vật nhằm thích nghi thụ động
với thế giới. Con người bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác động cải
tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi 1 cách chủ động, tích cực với
thế giới. Như vậy nói với thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con
người khác với hoạt động bản năng, thụ động, thích nghi của động vật.

- Các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản:


Thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức, nhưng tựu chung lại sẽ có 3 hình thức cơ
bản, đó là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất : là hình thức hoạt động có sớm nhất, căn bản nhất, quan
trọng nhất của thực tiễn giúp con người hoàn thiện cả bản tính sinh học và xã hội. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động ở các trình độ xã hội
khác nhau để tác động vào một bộ phận của giới tự nhiên tạo của cải vật chất, các điều
kiện cần thiết nhằm phục vụ cho con người, xã hội loài người; duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình.
Đây cũng là hoạt động căn cản nhất để phân biệt giữa con người với các loài động vật
khác.
VD: Hoạt động thu hoạch lúa của nông dân, hoạt động lao động của các công nhân trong
các nhà máy là các hoạt động sản xuất vật chất.
+ Hoạt động chính trị - xã hội : là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của các
cộng đồng người, của các tổ chức khác nhau trong xã hội; nhằm cải biến, phát triển các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,... mà đỉnh cao nhất là biến đổi các hình thái kinh tế -
xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
VD: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh niên.
+ Thực nghiệm khoa học : là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đây là hoạt
động thực nghiệm khoa học được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra,
gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định được quy
luật biến đổi, phát triển của các đối tượng nghiên cứu.
Là quá trình mô phỏng hiện thực khách quan trong phòng thí nghiệm để hình thành chân
lý.
VD: Hoạt động làm nghiên cứu làm thí nghiệm với các nhà khoa học để tìm ra vật liệu
mới, nguồn năng lượng mới, vacxin phòng ngừa dịch bệnh.
- Các hình thức của thực tiễn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, nhưng hình
thức có vai trò quan trọng nhất là hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định
đối với các hoạt động thực tiễn khác.
NHẬN THỨC
- Nhận thức là một quá trình phản ứng tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan
vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới
khách quan.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình có nhiều giai đoạn,
trình độ và hình thức khác nhau. Nhưng cơ bản có : nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính.
+ Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, được thể hiện
dưới 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
 Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của
mội hiểu biết của con người.
VD: Khi trời mưa con người ta sẽ có cảm giác lạnh.
 Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về
sự vật.
VD: Khi muối ăn tác động vào các cơ quan cảm giác, thị giác sẽ cho ta biết
muối có màu trắng, dạng rắn; xúc giác sẽ cho ta biết muối cứng; vị giác sẽ cho
ta biết muối có vị mặn.
 Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ và nó thường hiện
ra khi có những tác động đến trí nhớ con người.
VD: Ngôi nhà bạn gắn bó từ nhỏ đến lớn, khi chuyển đi nơi khác khi nhắc đến
ngôi nhà trong trí nhớ của bạn vẫn có hình ảnh của ngôi nhà đó.
+ Nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức,
nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.
( Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế bởi con
người không thể dựa vào cảm giác mà hiểu được tốc độ ánh sáng, giá trị hàng hóa,
quan hệ giai cấp,hình thái KT-XH,... và để hiểu được những cái đó phải dựa vào nhận
thức lý tính )
+ Nhận thức lý tính được thể hiện ở các hình thức : Khái niệm, phán đoán, suy lý. Bên
cạnh đó còn có trình độ nhận thức kinh nghiệm – trình độ nhận thức lý luận, trình độ
nhận thức thông thường – trình độ nhận thức khoa học.
-------------------------------------------------------------------------------------------
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
- Thực tiễn có 2 vai trò cơ bản:
+ Cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức.
 Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải
bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Vì vậy thực tiễn là cơ sở trực tiếp nhất để hình thành nên quá trình nhận thức.

VD: Con người thời nguyên thủy để sống trước hết cần phải săn bắt, hái lượm
để có lương thực ăn, chứ không đọc sách xem coi làm thế nào để có lương
thực ăn. Từ những hoạt động thực tiễn như săn bắt, hái lượm  con người dần
hiểu biết hơn  con người biết đến nuôi trồng, cải tiến công cụ lao động của
họ.
 Thực tiễn là động lực của nhận thức
Hiện thực khách quan luôn vận động, để nhận thức kịp với tiến trình hiện thực
phải thông qua thực tiễn. Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con
người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu
sắc về thế giới.

VD: Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, con người cần phải đo đạc diện tích và đo
lường sức chứa của bình nước, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí,...
mà toán học đã ra đời và phát triển

Bên cạnh đó , hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương
tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức , chẳng hạn như
kính hiển vi, kính thiên văn, máy vi tính,... qua đó mở rộng khả năng của các
khí quan nhận thức của con người.

 Thực tiễn là mục đích của nhận thức


Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn.
VD: Từ mục đích chữa trị những căn bệnh nan y, các nhà nghiên cứu khám
phá và giải mã bản đồ gen người.
Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với
môi trường, tái chế nhựa.

+ Tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình nhận thức.

Theo như Triết học Mác-Lênin: “Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm
tra chân lý, bác bỏ sai lầm. Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện
thực hóa được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặ phủ định một sai
lầm nào đó.”

Karl Marx đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
tính chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lýluận mà là một
vấn đề thực tiễn.”

(Điều này có nghĩa) Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức. Chỉ có đem
những tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra,
kiểm nghiệm mới khẳng định được tính đúng đắn của nó. Thực tiễn chính là tiêu
chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý.

VD: Trước khoảng thời gian cuối những năm 1500, quan niệm của nhà triết học
Aristotle khiến mọi người tin rằng “vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ” . Nhưng “cha đẻ
của khoa học hiện đại” – Galileo Galilei lại nghĩ rằng “vật thể khác nhau về trong
lượng nhưng sẽ cùng tốc độ khi rơi xuống” . Đến năm 1960, trong 1 thí nghiệm tại
Tháp nghiêng Pisa ông Galilei đã thả 2 vật có khối lượng khác nhau từ tháp xuống,
kết quả là vật nặng chạm đất trước nhưng chỉ sớm hơn 1 chút mà thôi. Ngoại trừ khác
biệt nhỏ gây ra bởi sức cản của không khí, cả 2 quả cầu gần như đạt tốc độ như nhau.

Từ đó ta thấy những chân lý, tri thức đúng đắn phải được kiểm tra qua thực tiễn chứ
không phải bằng niềm tin.

Tính chất của chân lý :

Gồm 3 tính chất :

Tính khách quan Chân lý là tri thức không phải bản thân hiện thực khách
quan, nhưng tri thức đó phải phản ảnh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm là đúng.

Chân lý là khách quan vì nội dung phản ánh của nó là


khách quan.
Thực tiễn có nhiều hình thức nên khi kiểm tra chân lý có thể bằng thực nghiệm khoa
học hoặc vận dụng lý luận xã hội vào quá trình cải biến xã hội.
Tuy nhiên thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương
đối.
Tính tương đối và tính tuyệt đối Tính tương đối của thực tiễn với tư cách
tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ thực tiễn có quá trình vận động, biến đổi, phát
triển. Những tri thức của chân lý đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, mới phản ánh
đúng một mặt, một bộ phận của hiện thực khách quan. Do đó không bao giờ có thể
xác nhận hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người.
Tính tuyệt đối của thực tiễn với tư cách
tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể sẽ chứng
minh được chân lý, bác bỏ được sai lầm.
Sự phân biệt giữa tính tương đối và tuyệt
đối của chân lý cũng chỉ là tương đối.

Vì vậy nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng dài,
trong chỉnh thể thì độ tin cậy của tiêu chuẩn càng cao, càng rõ đâu là chân lý, đâu là
sai lầm.

Tính cụ thể của chân lý Không có chân lý trừu tượng chung chung, chân
lý luôn là cụ thể.
Vì vậy nên phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và hành động. Và
chủ thể phải sáng tạo trong hoạt động nhận thức.

Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động để khắc phục
bện giáo điều .

( Note : Về bản chất, bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối
hóa lý luận, coi thường hạ thấp thực tiễn, không đánh giá đúng vai trò của thực tiễn
trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý luận, hoặc áp dụng lý luận và kinh
nghiệm không tính tới điều kiện thực tiễn lịch sử cụ thể)

Tóm lại: Thực tiễn vừa là điểm xuất phát vừa là yếu tố đóng vai trò quyết dịnh đối với
sự hình thành và phát triển của nhận thức và là nơi để nhận thức kiểm nghiệm tính
đúng đắn của nó.
Thực tiễn trong nhận thức và hoạt động, yêu cầu xem xét sự vật luôn phải
gắn với nhu cầu thực tiễn. Coi trọng tổng kết thực tiễn, để bổ sung, hoàn thiện, phát
triển nhận thức, lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách.
Ghi chú : ____ không đưa vào slide y đúc mà dùng hình ảnh minh họa or người thuyết trình
trình bày.

You might also like