Professional Documents
Culture Documents
Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Của Nhân Dân
Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Của Nhân Dân
Khái quát nhận thức lý luận của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội VII của
Đảng, trong đó nêu rõ: “Quốc hội cần hướng vào việc thực hiện hai yêu cầu cơ bản: Một là, xây dựng Nhà nước
pháp quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát
triển kinh tế - xã hội và quản lý mọi mặt xã hội văn minh, tiến bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở bảo đảm cho
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi có hiệu quả, là một nhân tố trọng yếu làm
cho các quan hệ xã hội của chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, bảo đảm quyền lực và hiệu lực trên thực tế của
Quốc hội, do Hiến pháp quy định”(1).
Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền đã có bước phát
triển. Nếu như ở Đại hội VII, Đảng ta mới chỉ xác định yêu cầu phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ
định hình được rằng, đó là nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ để quản lý mọi mặt đời
sống xã hội, thì đến Đại hội VIII, Đảng ta lại xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước pháp quyền, tức
là chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta thấy bước phát triển tư duy lý luận
của Đảng về nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp chế, coi đó là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh đạo đức như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xác định bản chất
của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết của
Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân chủ - là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Còn về cơ sở kinh tế - chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên bản chất
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta khẳng định lại ở Đại
hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi
của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp
trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(2). Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy
rằng, tính pháp chế là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà nước, bởi vì ở
các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng cơ
chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền
lực nhà nước là thống nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và pháp luật.
Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những đặc trưng đã nêu ở
trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng
lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ
cương”(3).
Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể
thấy:
Một là, Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức tổ chức dân chủ quyền lực nhà nước mà
theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể
trong xã hội.
Ba là, nhất quán chỉ rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Bốn là, nhận rõ đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế, khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật
trong quản lý nhà nước và xã hội, tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội.
Năm là, xác định được cơ chế vận hành của các cơ quan quyền lực nhà nước: quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sáu là, thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương, giáo dục đạo đức trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bảy là, khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng
định từ lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình và giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa
của nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong những năm đổi mới đã bộc lộ không ít những vấn đề cần phải giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Một là, cần xác định rõ những đặc trưng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng.
Một số ý kiến cho rằng, nếu chỉ dựa trên cơ sở tính pháp chế và dân chủ thì bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng
như vậy. Còn nói đến cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền của chúng ta là ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường thì vẫn chưa rõ và có phần khiên cưỡng, thiếu sức thuyết phục. Trong khi chính tính định
hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng chưa được được làm rõ về mặt lý luận, thì có nên chăng lấy
điều đó để lý giải cho một vấn đề chưa rõ khác? Hơn nữa, khi nền kinh tế - tức cơ sở hạ tầng mới chỉ là định hướng
xã hội chủ nghĩa, thì nhà nước - tức kiến trúc thượng tầng có thể gọi là xã hội chủ nghĩa được không hay cũng chỉ
mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa? Đó là vấn đề đặt ra cần được lý giải một cách khoa học. Chính vì trong
lịch sử chưa từng có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đích thực, cho nên trong lý luận về nhà nước pháp
quyền vẫn còn một mảng trống mà chúng ta cần bổ sung và phát triển.
Hai là, cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cần làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, sự chế ước lẫn
nhau giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào
để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ba là, làm sáng tỏ hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là chỉ ra được phạm vi tác động của
Đảng cầm quyền đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, chỉ rõ sự tối cao của pháp luật, tránh sự can thiệp tùy tiện
của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, tránh sự bao biện, ôm đồm, không tôn trọng luật
pháp.
Bốn là, làm rõ cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, của Mặt trận, của các đoàn thể chính trị -
xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. Sở dĩ vấn đề này được đặt ra là vì, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân
khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội,
của hội đồng nhân dân và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan
nhà nước và công chức nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm
của mình đối với các đại biểu mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức
trách nhiệm của người đại diện nhân dân.
Năm là, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta. Mặc dầu trong gần
30 năm đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã có nhiều đổi mới trong lĩnh vực lập pháp, song hệ thống luật
pháp của chúng ta cho đến nay vẫn tỏ ra chưa theo kịp thực tiễn và còn nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn, nhằm xây
dựng hệ thống luật pháp của Việt Nam một cách hoàn chỉnh và ổn định hơn, làm cơ sở cho Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới tư duy pháp lý cần hướng đến giải quyết những nhiệm vụ như xác định mô hình luật pháp của nước ta;
nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý, để
tiếp thu có chọn lọc các giá trị và kinh nghiệm trong lĩnh vực này; đổi mới công tác kế hoạch lập pháp; thay đổi
quan niệm về quy mô các đạo luật, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp.
Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp
luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ
được thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống
nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.
Về phương diện thực tiễn, cần giải quyết một số vấn đề như:
Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng
và phát triển kinh tế bền vững.
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám chữa bệnh cho người nghèo…
Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi
bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận
thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về
cơ chế chính sách, về quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, về công tác cán bộ,…
Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng pháp luật, việc thực hiện pháp luật cũng có vai trò
hết sức quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng
việc thực hiện không nghiêm thì cũng không thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp quyền.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Thực tiễn cho thấy
rằng, một trong những nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt,
nhiều người dân chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp hành luật, hoặc do không nắm
được luật nên vi phạm mà không biết. Chính vì vậy, để tăng cường việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự tham gia của các phương tiện
thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết
chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để mệnh lệnh hành chính luôn được chấp hành một cách nghiêm túc và thông
suốt từ trung ương đến cơ sở.
Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng đại biểu hội đồng nhân
dân, nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan có thẩm quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị quyết của hội
đồng nhân dân.
Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề được đặt ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn
và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng,… trong các cơ quan nhà nước. Thực tiễn
cho thấy, dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế, quy tắc ứng xử của cơ
quan quản lý nhà nước có đạt đến độ hoàn mỹ thì cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như trong
quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy chế,
quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là một vấn đề mới vì nó được đặt ra một cách thường xuyên, liên tục,
theo yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực trạng yếu kém và bất cập của các tổ chức Đảng, sự thoái hóa, tụt
hậu và biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên như hiện nay, thì vấn đề đổi mới và chỉnh đốn Đảng
lại được đặt ra một cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng gồm nhiều nội dung như: Đổi
mới công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới công
tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị; công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; công tác quần
chúng,… Chỉ có tiến hành đồng bộ những nội dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hơn, đủ năng lực
lãnh đạo công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cũng
cần xác định rằng, đây là sự nghiệp dài lâu của toàn Đảng, toàn dân, bởi vì trong việc này còn ngổn ngang nhiều
vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Những vấn đề đó không phải dễ gì
một sớm một chiều mà giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của
nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội./.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong những năm đổi mới
15/8/2016 14:44'Gửi bài nàyIn bài này
TCCSĐT - Từ những quan niệm được đưa ra trong văn kiện tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng (năm 1994), đến Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã được bổ sung, phát triển và định hình khá rõ nét. Đây là định hướng quan trọng để đánh
giá những mặt làm được, chưa làm được, đồng thời đề ra giải pháp để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thực tiễn.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Hiến pháp năm 2013
Về bản chất, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (Điều 2, Hiến pháp năm 2013). Từ bản chất
đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2, Hiến pháp năm 2013).
Đặc điểm này yêu cầu xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm
soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
Thứ hai, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định những điều luật nền tảng cho toàn bộ nền luật
pháp của chế độ xã hội; và những điều luật này vừa được thực hiện một cách trực tiếp, vừa có thể được cụ thể hóa
thành bộ luật hoặc luật để thực hiện tùy theo sự đòi hỏi của thực tế xã hội. Cần nhấn mạnh rằng, nếu Hiến pháp
không được thực hiện trực tiếp trong xã hội, và nếu Hiến pháp không được liên thông với các bộ luật và luật của đất
nước thì nền tảng pháp luật của đất nước sẽ bị hạn chế căn bản.
Hiến pháp quy định cấu trúc (khuôn mẫu) cho nền pháp luật của chế độ xã hội. Với vị trí, vai trò như vậy của Hiến
pháp, nên quyền lập hiến phải trực tiếp thuộc về toàn thể nhân dân, để thể hiện một cách căn bản tư tưởng “tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Chỉ với tính chất như vậy, Hiến pháp mới giữ vị trí tối cao trong hệ thống
pháp luật.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân (Điều 8, Hiến pháp năm 2013). Và mọi chủ thể trong xã hội (Nhà nước, các tổ chức chính trị
và xã hội, tập thể và cả nhân) đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, sự bình đẳng của mọi người (hay không phân biệt đối xử) trong thụ hưởng và phát triển quyền, trước tiên
và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và các tập thể, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Tức
là nhà nước pháp quyền phải xác lập được thể chế bảo đảm cho mọi chủ thể như nhà nước, tập thể và cá nhân
không (và không thể) đòi hỏi cái ở ngoài hoặc ở trên những điều được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Các
thể chế, nhất là thể chế hành pháp, tồn tại, hoạt động không rời rạc, mà là một thể thống nhất, chế ước lẫn nhau. Bởi
vì, tính hiệu lực, hiệu quả của mỗi thể chế chỉ có được khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc
đẩy tính hiệu lực, hiệu quả của thể chế liền sát bên trên và bên dưới cũng như tất cả các thể chế khác. Trong điều
kiện, môi trường thể chế như vậy, chỉ tòa án mới có quyền phán xử việc tuân thủ pháp luật. Việc thực hiện pháp
luật được bảo đảm bằng một hệ thống tòa án độc lập. Hệ thống tòa án độc lập đảm bảo cho công dân có đủ khả
năng và điều kiện chống lại sự tùy tiện của nhà nước; và từ đó, hình thành, phát triển một cơ chế chặt chẽ để kiểm
tra tính hợp hiến, hợp pháp của pháp luật và các hoạt động, kể cả hành vi, của bộ máy lập pháp và hành pháp, ở cả 3
khía cạnh: tổ chức; văn bản pháp luật (Hiến pháp, pháp luật, văn bản quản lý hành chính các cấp); đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức.
Thứ tư, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 chế định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân
về những quyết định của mình. Các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Thứ năm, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người, mọi công dân
và của mỗi người, mỗi công dân, được pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt Nhà nước, thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy.
Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Trong những năm đổi mới, việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã đạt được
những kết quả nhất định, cụ thể: (1) Quyền lực nhà nước đã được xác lập, thực hiện trên cơ sở ý chí của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân. Nhà nước tôn trọng những quyết định của nhân dân, sự lựa chọn chính trị của
nhân dân trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tiếp thu ý kiến của nhân
dân trong các đợt lấy ý kiến của nhân dân đóng góp vào xây dựng Hiến pháp, pháp luật. (2) Các cơ quan nhà nước
đã xây dựng nhiều cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền giám sát của mình đối với hoạt động của
cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc - tổ chức chính
trị - xã hội rộng rãi của nhân dân, đã được ban hành và đang triển khai thực hiện. (3) Các hình thức dân chủ trực
tiếp, quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện cũng được thực hiện một cách thực chất và hiệu quả hơn. Quốc
hội, Hội đồng nhân dân thực quyền hơn, ngày càng thể hiện là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, thực hiện quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước khác. (4) Cùng với việc mở rộng dân chủ, Nhà nước ta đã kiên quyết đấu tranh chống lại tình trạng dân
chủ cực đoan, vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để kích động, gây rối, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ
làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân cũng còn những
hạn chế không nhỏ: (1) Việc thực hiện các hình thức dân chủ còn nhiều hạn chế, nhất là trong tổ chức thực hiện,
kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. (2) Trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội, còn có tình trạng vừa thiếu dân chủ
vừa thiếu kỷ cương. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ; còn hiện tượng mất dân
chủ, dân chủ mang tính hình thức.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nội dung cơ bản của xây dựng nhà nước pháp quyền và trong
lĩnh vực này, Việt Nam đã triển khai tích cực, đạt được kết quả khả quan. Cụ thể: (1) Hệ thống pháp luật được hoàn
thiện cả về nội dung và hình thức, cả về số lượng và chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. (2) Việc ban hành và
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần tác động tích cực đến sự phát triển mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ kịp thời yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới của đất nước.
Tuy vậy, những hạn chế vẫn đang nổi lên là: (1) Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, chất lượng
chưa cao, chưa ổn định; tính toàn diện, thống nhất, khả thi còn nhiều hạn chế; chưa bảo đảm tính công khai, minh
bạch; cơ chế xây dựng, sửa đổi bổ sung pháp luật vẫn còn một số bất cập. (2) Các thiết chế bảo đảm thi hành pháp
luật còn thiếu và yếu; năng lực phân tích chính sách, đánh giá tác động của văn bản pháp luật tới đời sống xã hội,
xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức còn yếu; ý thức pháp luật chưa cao,
việc thi hành pháp luật chưa nghiêm.
Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Trong những năm đổi mới, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã đạt được những kết quả chủ yếu sau: (1)
Các quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã có những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh
bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước. Chính phủ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Bên cạnh đó, những hạn chế chủ yếu là: (1) Một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc, chưa làm rõ nội hàm của nguyên tắc dẫn đến vẫn còn sự lúng túng
trong tổ chức và thực hiện. (2) Tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế. Ví
dụ, số lượng các Ủy ban của Quốc hội còn ít, chưa đủ để bảo đảm tính chuyên môn hóa trong hoạt động xây dựng
pháp luật, giám sát; còn sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa một số bộ, cơ quan ngang bộ… (3) Cải cách hành
chính, cải cách tư pháp còn chậm. Trong cải cách hành chính chưa đảm bảo đồng bộ giữa cải cách thể chế, bộ máy
hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và chế độ tài chính công. (4) Hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà
nước chưa cao; tính chủ động, năng động, trách nhiệm của địa phương chưa được phát huy đầy đủ. (5) Thiếu thiết
chế chuyên trách bảo vệ Hiến pháp, chưa có cơ chế phán quyết về vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Quy định và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân
Những kết quả đạt được ở nội dung này của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện
trên các khía cạnh: (1) Hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người đã được hoàn thiện một bước; được triển
khai đồng bộ và xuyên suốt trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội và các chính sách, cơ chế nhằm
triển khai thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước sử dụng Hiến pháp như là một trong những công cụ quan trọng
hàng đầu để bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. (2) Tăng cường và mở rộng chương trình giáo
dục, đào tạo về quyền con người cho cán bộ của các cơ quan nhà nước. Các nội dung giáo dục về quyền con người
đã và đang từng bước được đưa vào chương trình ở các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn học chuyên
sâu trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành luật. (3) Đã thực thi có hiệu quả hơn các nghĩa vụ quốc tế về
quyền con người. Về cơ bản, Việt Nam hoàn thành tốt nghĩa vụ báo cáo đối với các công ước mà Việt Nam là thành
viên; tiến hành rà soát các quy định của luật pháp quốc gia về các quyền dân sự, chính trị. (4) Tôn trọng, bảo vệ và
thúc đẩy các quyền con người trên thực tế. Các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam đã
được bảo đảm ngày càng tốt hơn nhờ sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung.
Những hạn chế chủ yếu của nội dung này biểu hiện ở 2 điểm: (1) Hệ thống pháp luật về quyền con người ở Việt
Nam chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự thay đổi của cuộc sống, chậm được sửa đổi, bổ sung. (2)
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật và việc tuyên truyền pháp luật về quyền
con người đến các ngành, các cấp, các địa phương vẫn còn hạn chế, khiến cho việc triển khai còn khó khăn, bất
cập.
Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Vai trò lãnh đạo của của Đảng đối với nhà nước là vấn đề rất cơ bản bảo đảm chính quyền của nhân dân. Trong
những năm đổi mới vừa qua, Đảng đã đề ra những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng,
hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đề ra định hướng
chính trị đúng đắn cho hoạt động của Nhà nước; lãnh đạo hoạt động bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
bảo đảm thật sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan
này./.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Được đăng: 30 Tháng 11 -0001
Với những giá trị khoa học to lớn, ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta xác định là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay.
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống văn hóa và những kinh nghiệm xây dựng,
quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết quả của sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà nước
điển hình ở các nước như Mỹ, Pháp, Liên Xô..., đồng thời với sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người sáng lập, vừa là người trực tiếp
chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới. Trong quá trình đó, mặc dù Người
không dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về
pháp quyền đã được đề cao từ rất sớm, thể hiện rõ nét trong tư tưởng của Người về dân chủ, nhà nước, pháp luật và quyền
con người. Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở những nội dung chính sau:
Một là, nhà nước pháp quyền xuất phát từ yêu cầu dân chủ.
Điều đó có nghĩa là, nguồn gốc sâu xa của quyền lực nhà nước là ở nhân dân, nhà nước là cơ quan đại diện được
nhân dân trao quyền, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân trao quyền lực cho Nhà nước qua bầu cử theo
nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, cả
trong dân chủ đại diện cũng như dân chủ trực tiếp đều phải phát huy dân chủ đến cao độ mới tạo nên sức mạnh, sự bền
vững cho Nhà nước. Đó là nền dân chủ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể, Người nhấn mạnh: “quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân” (1) và “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” (2) và “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự” (3).
Để bảo vệ quyền dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến chuyên chính, coi thực hiện chuyên chính
để phát huy dân chủ, để giữ vững quyền làm chủ của nhân dân. Người khẳng định: “Chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn
đề là ai chuyên chính với ai?... Như cái hòm đựng của cải thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa. Khóa và cửa cốt đề phòng
kẻ gian ăn trộm. Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu
hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ
cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” (4).
Hai là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước dân chủ, đồng thời phải là nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhận thức rõ về sự cần
thiết phải sớm xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp, ngày 03-9-1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đề ra hai nhiệm vụ trực tiếp có liên quan đến nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhanh chóng tổ chức
tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp nhằm xác lập nền tảng dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp
sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.
Ba là, hệ thống pháp luật ở Việt Nam là hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật của Nhà nước ta phải là pháp luật thật sự dân chủ, bảo vệ quyền dân chủ tự do
rộng rãi cho nhân dân lao động. Người chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do,
độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” (5). Bản chất dân
chủ của pháp luật kiểu mới là hệ thống pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, bảo vệ quyền lợi
cho hàng chục triệu người lao động.
Bốn là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ và phát huy quyền con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề và tiếp cận vấn đề quyền con người không chỉ là quyền tự do cá nhân mà còn là
quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, độc lập dân tộc và giải phóng con người. Theo người, muốn đem lại hạnh
phúc cho con người, chỉ có thể đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì chỉ có xã hội chủ nghĩa mới “đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người
và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” (6).
Những nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ và đề cao yêu cầu dân chủ triệt
để trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là tư tưởng rất quan trọng, khẳng định bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
là đỉnh cao của nền dân chủ, vì nó thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể quyền
lực. Vì vậy, để củng cố, mở rộng dân chủ, có dân chủ triệt để cần phải xây dựng, củng cố, hoàn thiện, đổi mới nội dung
phương thức hoạt động của Nhà nước. Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là điều kiện bảo đảm và
mở rộng quyền dân chủ thực sự, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Mặt khác, để xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp
quyền phải coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật đó phải thể hiện quyền làm chủ của
nhân dân và thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước,
cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Đồng thời, chính xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, chặt chẽ sẽ là cơ sở pháp lý xác lập nền tảng dân chủ, là điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát huy quyền con người.
Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ về nhà nước pháp quyền của nhân loại, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng và phát triển tư tưởng đó trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Từ thực tiễn cho thấy, cho đến trước những năm đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, mặc
dù trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật và tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước. Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994), Đảng ta đã dùng khái niệm nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong nội dung phần hai về những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới đã nêu nhiệm vụ thứ
7: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Cùng với quá trình đẩy mạnh đổi mới, mở cửa, hội nhập, nhất
là từ năm 2006 đến nay, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được bổ sung và có
những bước phát triển quan trọng. Từ thực tiễn đổi mới, Đại hội VIII đến Đại hội XII của Đảng đã tiếp tục làm rõ và khẳng
định quan điểm này. Đại hội X (năm 2006) của Đảng ta xác định: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân” do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một trong 8 thành tố, 8 đặc trưng chủ yếu của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng. Tư tưởng này được tiếp tục khẳng định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011 do Đại hội XI của Đảng thông qua và được thể hiện trong Hiến pháp 2013. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII tiếp tục nêu rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (7). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vừa tiếp thu thành
tựu của nhân loại về nhà nước pháp quyền, vừa thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng của Việt Nam. Điều này đã “khắc phục
được quan niệm đơn giản, ấu trĩ khi “đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản” (8). Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật.
Tiếp tục hoàn thiện trong thực tiễn
Trước yêu cầu thực tiễn của đất nước kết hợp quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, những tư tưởng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
từng bước được xác định thể hiện trên những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng nhân dân, là nguồn gốc, là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, Hiến pháp và pháp luật có vị trí và hiệu lực tối thượng không chỉ đối với xã hội mà còn đối với cả Nhà nước.
Pháp luật là cơ sở tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước, pháp luật phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận
và phải được áp dụng công bằng, nhất quán.
Thứ ba, quyền lực Nhà nước được tổ chức, thực hiện theo nguyên tắc thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (9); Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải
độc lập, nghiêm cấm mọi sự can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án (10).
Thứ tư, Nhà nước ta tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ năm, Nhà nước tôn trọng và tuân thủ các cam kết quốc tế trong các tổ chức quốc tế, thể chế đa phương mà Việt
Nam là thành viên.
Thứ sáu, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và quá trình xây dựng - hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định mục tiêu của xây dựng Nhà nước
pháp quyền là nhằm xây dựng một quốc hội thực quyền, một chính phủ hiệu quả, một nền tư pháp độc lập, công minh; bảo
đảm mối quan hệ thống nhất, hiệu lực, hiệu quả, năng động - sáng tạo giữa chính quyền trung ương và địa phương… Đồng
thời, xác định rõ hơn nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập. Hiến pháp năm 2013 khẳng định, Đảng là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” và “các tổ chức
đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều này có nghĩa, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ hơn sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân
thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội; Nhà nước pháp quyền giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị.
Trải qua 71 năm xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân với nhiều thành tựu to lớn, quyền làm chủ của
người dân ngày càng được bảo đảm và tăng cường. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, đặc biệt là việc còn coi
nhẹ dư luận, không nghĩ đến dân của một số cán bộ, đảng viên. Chính “cơn khát” quyền lực của một bộ phận không nhỏ cán
bộ có chức, có quyền đã đẻ ra biết bao đau lòng mà Bác Hồ đã từng cảnh báo: “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ
theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với
phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” (11). Một số khác thì trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo, nói một đằng, làm một nẻo. Người coi đó là những “lầm lỗi rất nặng nề” và đưa đến một kết quả là hỏng việc. Điều
này Đảng ta đã chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay và
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng.
Những năm gần đây, nhất là Đại hội XI, XII của Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã thẳng thắn chỉ ra thực
tế dân chủ chưa được phát huy đầy đủ, còn mang nặng hình thức. Có nơi dân chủ chỉ để trang trí, trình diễn. Quyền làm chủ
của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo
kịp yêu cầu phát triển, quản lý đất nước. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành
chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh,
minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chậm đổi mới; hiệu quả, hiệu lực ở
nhiều nơi chưa cao. Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng. Việc triển khai một số nhiệm
vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức
tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc trong xã hội. Cách làm việc quan liêu đang dẫn tới một thực tế của nền hành
chính như báo chí đã nói tới nhiều: “hành dân là chính”. Vì vậy, để có một nhà nước pháp quyền thật sự trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả, thật sự của dân, do dân, vì dân, hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật và ý nguyện của dân, cần phải phát
huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; cải cách bộ máy hành chính, xây dựng một nền hành chính dân chủ.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình
đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” (12). Trên thực tế, qua diễn đàn Quốc hội, nhiều lời
hứa trước dân khá tâm huyết. Điều đó là cần thiết nhưng chỉ mới là bước đầu. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là hiệu quả của
hành động và nêu gương trước đồng bào. Nhân dân kỳ vọng và chờ đợi. Chính phủ mới phải học Bác Hồ về lời hứa đi đôi với
hành động. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự cho dân, nâng cao địa vị, quyền hành và năng lực làm chủ của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước dân, trọng dân, học dân, hiểu dân, hỏi dân, bàn bạc và giải thích cho dân thì Chính phủ mới được dân tin,
dân phục, dân yêu. Nếu không thế mà cứ hành động theo kiểu làm bằng được, bất chấp lòng dân, ý dân thì dân oán. Mà
“dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại” (13). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Nước
lấy dân làm gốc”. Theo đó, Chính phủ phải: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” (14). Chính phủ phải thật sự là
công bộc của dân, dựa vào trí tuệ và lực lượng của dân, giữ chặt mối liên hệ với dân và luôn luôn lắng nghe ý kiến của dân,
đó là nền tảng lực lượng của Chính phủ. “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng
giữa trời, nhất định thất bại” (15).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục
soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới./.
Quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đối lập với quan điểm
của các học giả tư sản ở mặt bản chất giai cấp. Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công
nhân, phù hợp với lịch sử, truyền thống dân tộc cũng như thực trạng, đặc điểm đất nước ta hiện nay. Tinh thần ấy biểu
hiện tập trung ở quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước; nền tảng xã hội
của Nhà nước là nhân dân, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức. Điều đó được Nghị quyết Đại hội XII
khẳng định: “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Còn nhà nước pháp quyền tư sản
mang bản chất giai cấp tư sản, quyền lực tập trung vào tay giai cấp tư sản. Ở phương diện đặc trưng quyền lực nhà nước
thì trong nhà nước pháp quyền tư sản thực hiện quyền lực thống nhất trong tay giai cấp tư sản và hoạt động theo cơ chế
“tam quyền phân lập”. "Tam quyền phân lập" chỉ là thực hiện chức năng kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thuộc nhà
nước để tập trung quyền lực vào tay giai cấp tư sản một cách hiệu quả nhất. Vì thế, "tam quyền phân lập" không có giá
trị đối với nhà nước thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ như ở nước ta. Quan điểm trong Nghị
quyết Đại hội XII cũng thể hiện ở hai mặt, quyền lực và cơ chế hoạt động giữa các cơ quan thể hiện quyền lực, nhưng
đối lập hoàn toàn về bản chất giai cấp với "tam quyền phân lập" trong nhà nước pháp quyền tư sản. Nghị quyết Đại hội
XII chỉ rõ: “… quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quyền lực thống nhất và sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn
nhau trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cùng chung mục đích thực hiện: Quyền lực thuộc về nhân dân. Sự
phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là tạo điều kiện nhằm phát huy
vai trò, chức năng của mỗi cơ quan để thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải phân chia quyền lực. Còn
"tam quyền phân lập" trong nhà nước tư sản chỉ là kiểm soát sự phân chia quyền lực giữa các phe nhóm, đảng phái có
địa vị, lợi ích gắn với nhà nước của giai cấp tư sản. Tinh thần về: Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân…; quyền lực nhà
nước là thống nhất... là những đặc trưng cơ bản thuộc bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quan điểm này
được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Với sự hiến định trong Hiến pháp, cho thấy quan điểm về bản chất Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam vừa thể hiện được sự bổ sung, phát triển mới, vừa nâng tầm cao về tính pháp lý của quan
điểm này.
Nội dung Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có tính toàn diện, đồng bộ trên tất cả các mặt, các phương diện, bảo
đảm tính hệ thống và cho phép hoạt động đúng nguyên tắc pháp quyền; trong đó tập trung nhất ở vấn đề lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Về thể chế, chức năng, nhiệm vụ… của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội XII chỉ rõ: “… hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức… theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền XHCN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Tinh thần trên được
cụ thể hóa trở thành chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan thuộc bộ máy Nhà nước, như: Đối với Quốc hội, Nghị quyết
Đại hội XII xác định: “… thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất…”.
Về Chính phủ là: “… cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội”. Về tư pháp là: “… nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại”. Với các
nội dung ấy đã thể hiện đầy đủ quan điểm về một Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nội dung về: “Nhà nước
pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" được nêu
trong Nghị quyết Đại hội XII là một điểm mới, một đặc trưng cơ bản được khái quát mang tính đặc thù hiện nay. Với sự
bổ sung mới, hoàn thiện ấy đã phản ánh đúng điều kiện, hoàn cảnh hiện nay, đồng thời cũng cho thấy yêu cầu cao về
trình độ phát triển ở tất cả các mặt, các nội dung thuộc nhà nước pháp quyền; trong đó nổi bật nhất là tư tưởng về
“nguyên tắc pháp quyền”. Đây là lần đầu tiên trong nghị quyết “nguyên tắc pháp quyền” được khái quát. Nó như một
điểm nhấn, nội dung mới, sự khái quát hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, thể hiện sự phát triển tư duy đổi mới của Đảng
về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ở trình độ cao. Ở đó, không chỉ thể hiện rõ quan điểm về các cơ quan trong
bộ máy, mà bao hàm cả sự hoàn thiện cơ chế vận hành, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước. Nghị quyết Đại hội
XII khẳng định: “Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp
quyền…”, “… coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”, cho nên càng làm rõ hơn bản chất giai cấp, đặc trưng dân
tộc và sự ưu việt, trình độ văn minh của Nhà nước ta trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Những vấn đề cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong Nghị quyết Đại hội XII có tính toàn
diện, trong tính chỉnh thể thống nhất rất cao. Trong đó, những nội dung quan trọng nhất nổi lên là: “Tiếp tục quán triệt
và xử lý tốt các quan hệ lớn… giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ…”; “Tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”; “Tổ chức
và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền…”; “Hoàn thiện thể chế, chức
năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành…”; “Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội,
vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm ra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời
coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”... Đây là những nội dung có tính đặc trưng cơ bản; nguyên tắc bao trùm
nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, quan điểm về: “tuân thủ các nguyên tắc
pháp quyền”; xây dựng Nhà nước pháp quyền mang đặc trưng, sự phù hợp với: “... điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”; “Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo
đức xã hội”... là những điểm mới và rất quan trọng.
Nhận thức đúng bản chất vấn đề, thấy rõ tính cách mạng, khoa học về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
trong quá trình thực hiện phải luôn quán triệt tinh thần đấu tranh khắc phục những hạn chế và sự chống phá của các thế
lực thù địch. Những hạn chế, khuyết điểm còn tồn tại và sự chống phá của các thế lực thù địch luôn "đồng hành" cùng
nhau trong chuỗi quá trình thực hiện mục tiêu của các thế lực thù địch là từ “diễn biến” đến “tự diễn biến” và đến “tự
chuyển hóa”... Các thế lực thù địch với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, ở nhiều mặt, nổi bật nhất là chống phá quan
điểm về quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; phủ nhận sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước; phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ... hòng làm lạc hướng nhận thức trong xã hội.
Hệ thống quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện rõ tính quy luật phát triển tư duy
của Đảng, đồng thời cũng phản ánh lộ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong nhiệm kỳ Đại hội
XII với những thuận lợi và khó khăn cụ thể. Với bản chất cách mạng và khoa học của các quan điểm trên là cơ sở để
củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, về bản chất tốt đẹp và sự vững mạnh của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
Đại tá, TS NGUYỄN VĂN THANH - Phó chủ nhiệm Khoa Triết học Mác - Lê-nin, Học viện Chính trị.