You are on page 1of 25

BÀI 1:PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG

1. Giới thiệu nhân vật khách và tâm trạng của khách khi đến với sông Bạch
Đằng lịch sử.
a. Giới thiệu về khách
“Khách có kẻ:/Giương buồm giong gió chơi vơi/Lướt bể trăng mải miết...”
Hiện lên chân dung một con người với tư thế ung dung đang mở rộng tâm
hồn khoáng đạt để thu vào mình tất cả bao la của đất trời. Đó là con người say
đắm với thú ngao du sơn thủy, muốn làm bạn với gió trăng.
Nhịp điệu tự do linh hoạt, câu ngắn câu dài đan xen, giống như nhịp con
thuyền đi trên sông, lúc dừng lại để thưởng ngoạn, lúc thì lướt băng băng trên
sóng Bạch Đằng.
Không gian mở ra thoáng đạt với gió, trăng, bể.
Hình ảnh kì vĩ của thiên nhiên vũ trụ đã cho thấy tâm hồn tự do khoáng đạt
cũng như niềm tự do mãnh liệt của khách khi đến với thiên nhiên.
Khách chủ động hòa mình vào thiên nhiên chứ không là một chấm nhỏ gữa
không gian kì vĩ.
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương/Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt/Cửu
Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,/
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết...”
Khách là người đi nhiều biết nhiều, đã đi qua nhiều miền sông nước. Đây
đều là những thắng cảnh nổi tiếng gắn với không gian sông nước=> cách nói có
phần ước lệ
Các địa danh Nguyên Tương, Vũ Hiệp ở rất xa nhau nhưng khách có thể đến
trong một sớm một chiều. Cách nói ước lệ ấy cho ta hiểu những địa danh ấy có
thể khách đã đến trong sách vở.
Cùng với các địa danh Trung Quốc là các địa danh nước Việt: Đông Triều,
sông Bạch Đằng=> gắn với không gian sông nước rộng lớn.
Liệt kê các địa danh và so sánh => khách muốn đi khắp mọi nơi. Tất cả mọi
phản ứng của nhân vật khách về cuộc viễn du chính là sự chuẩn bị cho người
đọc tâm thế thích hợp khi tiếp xúc với dòng sông Bạch Đằng.
b. Cảnh sông Bạch Đằng và tâm trạng của khách
Cảnh sông Bạch Đằng hiện lên cụ thể và chi tiết
“Sóng hình” là những con sóng lớp lớp nối đuôi nhau mở ra không gian rộng
lớn của vùng sông nước.
“Thướt tha đuôi trĩ một màu” : không gian nên thơ, bồng bềnh, thiết tha
như đuôi chim trĩ
“Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu”=> Cảnh cuối thu trời xanh biếc,
đất và trời như nối liền một dải
Đến với sông Bạch Đằng, tâm trạng của khách đan xen nhiều cung bậc, có
niềm vui, có sự tự hào xung quanh trời đất. Buồn vì cảnh trước mặt hoang
vắng, đìu hiu, thương nhớ những anh hùng đã khuất, tiếc nuối vì chiến trường
xưa một thời oanh liệt giờ đã vắng bóng phai nhạt dần dấu vết thời gian.
Giọng điệu lời thơ linh hoạt, giọng thơ khi thì hào sảng, khi thì trĩu nặng tâm
tư.
Khách chính là sự phân thân của tác giả cho nên qua nhân vật khách ta cũng
hiểu được lòng tác giả. Đó là con người có tâm hồn phóng khoáng, nhạy cảm,
đặc biệt là người nặng lòng với lịch sử dân tộc.
2. Lời kể về những chiến công trên sông Bạch Đằng
“Bên sông, các bô lão hỏi ý ta sở cầu?”. “Bô lão” là những bậc cao niên, là
những chứng nhân lịch sử. Có thể những nhân vật bô lão chỉ là do tưởng tượng
làm cho lời kể khách quan, đáng tin cậy.
Thái độ của các bô lão đối với khách khi đến sông Bạch Đằng là thái độ nhiệt
tình, trân trọng.
Từ đó có thể thấy khách là người đáng kính trọng, có nhân cách lớn.
Qua lời kể của các bô lão, sông Bạch Đằng hiện lên là nơi ghi dấu chiến công
chói lọi từ bao đời. Đó là chiến công hào hùng của thế hệ trước: Ngô chúa phá
Hoằng Thao, là buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã...
Cảnh thủy chiến trên sông Bạch Đằng với lực lượng đông đảo hùng hậu, giặc
mạnh, lắm mưu nhiều kế, sự gian xảo, quỷ quyệt, ngạo nạn. Còn ta là đội quân
chính nghĩa thuận ý trời. Đó không chỉ là cuộc đối đầu về lực lượng mà còn là
sự đối đầu về ý chí.
Cách miêu tả chiến sự rất dữ dội, ác liệt qua hình ảnh giàu tính biểu cảm.
Sử dụng tích xưa cùng việc so sánh những cuộc đánh lớn ở Trung Hoa với
“Hốt Tất Liệt”. “trận Xích Bích”=> nói lên sự thất bại của kẻ thù, khẳng định
chiến công oanh liệt của ta.
Cách kể khi thì dồn dập gấp gáp với những câu ngắn, khi thì chậm rãi với
những câu văn dài, khi thì xúc tích với điển cố=> lời kể ngắn gọn nhưng lại tái
hiện sinh động diễn biến cuộc chiến: có tên trận đánh, có tên người chỉ huy, có
sự chuẩn bị về tinh thần và lực lượng...khiến ta có cảm giác hồi hộp về diễn
biến kết quả trận đánh.
“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở/Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”
Khẳng định nguyên nhân làm nên chiến thắng là nhờ địa linh và nhân kiệt,
đề cao vai trò của
Trần Hưng Đạo với những chiến côn ghi vào sử sách, đề cao vai trò của Trần
Quốc Tuấn.
Cho thấy sự tôn trọng của vua Trần đối với những bề tôi, đó là sự đoàn kết
m ột lòng của vua tôi.
3. Lời ca của các bô lão và khách
Bằng cách mượn quy luật tự nhiên trường tồn bất biến tác giả khẳng định
quy luật của lịch sử.Trong lời ca của khách, ta thấy lời hát của các bô lão, đó là
sự tiếp nối, mở rộng về mặt tư tưởng, niềm tin về nền thái bình của đất nước.
III/ Kết bài
BÀI 2 :ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba
và lỗi lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong
cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với
những công trạng vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê.
Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư
tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư
tưởng nhân dân, tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ
thống tư tưởng này ta có thể nhận thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2
của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.
Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích
làm cơ sở, căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
…..
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
…..
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Đầu tiên Nguyễn Trãi nêu ra tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu
thương con người, được bộc lộ thông qua các hành động cụ thể bao gồm “Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nghĩa là người đứng đầu một đất nước phải có
trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Kéo theo việc bảo
vệ cuộc sống bình yên đó thì “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, vốn là một tích
xuất phát từ điển cố trong Kinh thư, ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ
tham tàn bạo ngược, những thế lực đã phá vỡ sự bình yên của nhân dân.
Từ đó thấy được quan điểm mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trãi:
Nhân nghĩa tức là gắn với việc yêu dân, chuộng hòa bình, và gắn với lòng yêu
nước sâu sắc.
Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền
của nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định như một chân lý
khách quan thông qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận đề trên của
mình. Bao gồm nền văn hiến độc lập đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn
hiến đã lâu”, bao gồm cương vực lãnh thổ riêng “núi sông bờ cõi đã chia”, rồi
về văn hóa chúng ta cũng có phong tục tập quán riêng khi “phong tục Bắc Nam
cũng khác”.
Xét về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên
thì nước Đại Việt ta cũng chẳng kém cạnh khi có Triệu, Đinh, Lý, Trần những
triều đại đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử riêng này còn được
cụ thể hóa trong những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt
thời nào cũng có”, khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những
anh hùng vang danh sử sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền
độc lập dân tộc của chúng ta, khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn.
Vậy nên mới có những chuyện như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu
Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng
giết tươi Ô Mã”, đó đã là những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể
chối cãi, in hằn trong từng trang sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay.
Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời khẳng định chủ quyền độc lập
riêng của dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong
thái tự tin, mạnh mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi trong việc khẳng
định nền độc lập, bờ cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng “đế”, chứ
không xưng “vương” theo cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương
Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu, phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng.S
Mà ta có thể thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái
quan điểm ngạo mạn ấy, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên
tất cả các lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ
quyền lãnh thổ tạo nên một hệ thống lý luận, căn cứ vững chắc để triển khai
tiếp các luận đề phía sau.
Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về
quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn
thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao
gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận và tầm tư
duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại.
Thêm vào đó ngoài nội dung chính của luận đề, sự thuyết phục của quan
điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như:
từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại thuộc cùng
một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã
nêu ra.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa,
biên giới, lịch sử, Nguyễn Trãi trình bày cho toàn dân thiên hạ biết về âm mưu
xâm chiếm nước ta một lần nữa của bọn giặc Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Nhà văn chỉ rõ nguyên nhân do chính sự nhà Hồ gặp rắc rối cho nên giặc
Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để hòng xâm chiếm nước Đại Việt. Không chỉ
quân giặc ngoại xâm mưu mô xảo trá mà bọn nội phản trong nước cũng ngóc
đầu dậy bán nước cầu vinh. Chúng nghe theo lời của giặc ngoại xâm, chấp nhận
làm tay sai cho chúng.
Tội ác của chúng gây ra cho nhân dân Đại Việt không hề nhỏ, chúng tán tận
lương tâm đẩy con dân ta vào những tình cảnh khổ tận cam lại, khốn nạn thay
chúng vét sạch cả núi sông và cả sức người Đại Việt:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Chúng “nướng dân đen” rồi vùi “con đỏ” xuống hầm để khai thác tài nguyên
thiên nhiên cho chúng. Chúng lừa dối trời lừa dối dân bằng muôn ngàn kế sách
nhằm vơ vét tài nguyên nước ta. Tội ác của chúng bại cả nhân nghĩa, tan nát cả
đất trời, lòng dân oán hận biết bao nhiêu năm nhưng không thể làm gì được
chúng. Chúng không chỉ vơ vét tài nguyên mà còn đặt ra hàng trăm thứ thuế
đẩy người nông dân đến hoàn cảnh khốn cùng. Người thì bị chúng ép xuống
biển mò ngọc dù nơi đó cá mập vây quanh, con dân có thể bị xé xác bất cứ lúc
nào. Kẻ thì bị lên núi đãi cát tìm vàng dù rừng thiêng nước độc. Hiện trạng đất
nước được phô ra trước mắt với những hình ảnh đau thương, khắp nơi khắp
chốn cạm bẫy, lưới giăng đến cây cỏ còn bị sát hại huống chi đến con người. Từ
những sản vật cho đến động vật, thực vật đều không sống nổi với sự tàn ác của
giặc Minh. Khốn thay cho những người phụ nữ góa chồng.
Đối lập với nỗi khốn khổ của nhân dân Đại Việt, lũ giặc Minh giống như một
lũ quỷ răng nanh máu me kinh khủng:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Chúng hiện lên như những con quỷ béo mỡ, đáng sợ. Với cái miệng rộng và
hàm răng quỷ dữ ấy chúng bắt nhân dân ta nay xây nhà mai đắp đất. Rồi ai
phục dịch chúng cho vừa, nặng nề và tan tác cả nghề canh cửi. Tác giả sử dụng
biện pháp nghệ thuật đảo cấu trúc câu “độc ác thay…” “Dơ bẩn thay…” nhằm
nhấn mạnh vào sự khinh bỉ và căm phẫn tội ác của giặc Minh. Tội ác của chúng
dẫu có bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội, nước Đông Hải có nhiều
cũng không rửa sạch mùi. Tội ác tày trời đất chẳng lẽ nào dung tha cho chúng,
lòng dân sẽ nổi dậy.
Như vậy, phần một và phần hai của bài cáo đã khẳng định chủ quyền của
nhân dân Đại Việt. Đồng thời vạch rõ âm mưu xâm chiếm của giặc Minh. Tội ác
của chúng được phơi bày ra cho toàn dân thiên hạ được biết. Tội ác của chúng
không thể nào dung tha. Bài cáo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như đối
lập, miêu tả, so sánh kết hợp với lối văn biền ngầu tự do đã thể hiện rõ được
nội dung mà tác giả muốn trình bày.
Ở đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là
chủ tướng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ
nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình
tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao
nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi
băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm
mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh
hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn
yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt
của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn
lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình
thắng lợi? Đó chẳng phải là:
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.
Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng
tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn
cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít
địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh,
lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành
thắng lợi vẻ vang.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình,
Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc
rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những
trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là
trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi
thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công
Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động
binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng
những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những
trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà
xông lên, cứ thuận đà mà:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
– Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
– Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không
khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh
thật phi thường.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca
ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự
thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy
đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu
ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế. Chúng cứ liên tục gỡ thế nguy,
cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng lẫn
quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở
cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn… Thất
bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.
Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu
vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào
thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường
sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa
để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng
nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi
giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin
cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập
chân run.
Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương
phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào
hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến
công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng
vẻ vang.
Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui
phấn khởi khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái
bình.
Xã tắc từ đây vững bền

Ai nấy đều hay
Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những
tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như
vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con
dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn
khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới
một ngày mai tươi sáng, một kỉ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo
bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang
tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc,
cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm
chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu
nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.
 Kết thúc bài cáo, thay lời của chủ tướng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã trịnh trọng
truyền đi khắp muôn nơi tin vui về sự độc lập của đất nước và niềm tin về một
tương lai tương sáng dành cho dân tộc Đại Việt.
“Xã tắc từ nay vững bền
Giang sơn từ nay đổi mới
Kiền khôn bĩ thái rồi lai
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chãi”
Chỉ với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã làm cho lời tuyên ngôn độc lập
trở nên đanh thép hơn bao giờ hết. Trong những câu thơ ấy, không chỉ toát lên
cái không khí vui tươi, phấn khởi trước chiến thắng mà còn bày tỏ cả cảm hứng
độc lập rất sâu sắc nữa.
Cảm hứng độc lập ấy toát lên từ trong những lời thơ khẳng định của Nguyễn
Trãi, ông khẳng định rằng:
“Đất nước từ nay vững bền
Giang sơn từ nay đổi mới”
Nền độc lập được gây dựng nên từ xương máu của nhân dân thế nên nền
độc lập chắc chắn sẽ là một nền độc lập lâu bền. Một đất nước mới đã được
thành lập, một triều đại mới của chính dân tộc Đại Việt sau bao tháng năm nội
chiến, ngoại chiến đã được mở ra. Mặc dù để có được nền độc lập ấy, chúng ta
đã phải đổ máu, nước mắt, cùng với sự hi sinh, thế nhưng tất cả sau cơn “bĩ
cực” – khó khăn, vất vả sẽ lại tới hồi “thái lai”, tươi sáng.
Cảm hứng về nền độc lập dân tộc không chỉ được Nguyễn Trãi thể hiện ở
cuối Bình Ngô Đại Cáo mà ngay từ đầu khi bước vào bài cáo, ông đã thể hiện nó
rất rõ ràng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Đây cũng là một lời khẳng định chủ quyền rất đanh thép của Nguyễn Trãi
trước kẻ thù. Ông cho rằng, chủ quyền đất nước được định sẵn rõ ràng, “núi
sông bờ cõi đã chia”, không thể mặc nhiên mà xâm phạm được. Tư tưởng độc
lập chủ quyền này không chỉ Nguyễn Trãi mà ngay từ thời Lý Thường Kiệt, ông
đã luôn khẳng định:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”
Có thể nói, cái tư tưởng, cảm hứng về nền độc lập dân tộc đã khởi nguồn từ
rất lâu đời và đến Bình Ngô đại cáo, nó lại được khẳng định chắc chắn một lần
nữa thông qua bản Tuyên ngôn về chủ quyền của Nguyễn Trãi.
Không chỉ viết về cảm hứng độc lập dân tộc, thông qua sáu câu cuối, Nguyễn
Trãi còn bày tỏ niềm tin về tương lai tươi sáng của đất nước. Xã tắc của dân
nước Nam từ nay được vững bền, đất nước, non sông của dân tộc Đại Việt từ
nay có chủ mới, tươi sáng, đẹp đẽ hơn. Chỉ sáu câu thơ mà có tới hai từ “vững
bền, vững chãi” được nhắc tới để chỉ về tương lai của nước Nam.
Nguyễn Trãi muốn thông qua đó khẳng định đanh thép rằng: Tương lai của
người dân nước Nam từ nay sẽ được “đổi mới”, vững bền tới muôn đời. Mặc
dù phải trải qua những khó khăn “kiền khôn bĩ”, “nhật nguyệt hối” nhưng rồi
tất cả sẽ “thái rồi lai”, “hối rồi minh” tức là tất cả đều sẽ lại tươi đẹp. Ở đây,
Nguyễn Trãi đã dùng những từ ngữ chỉ quy luật vận hành của thiên nhiên, vũ
trụ để khẳng định ý nghĩa chiến thắng của quân và dân nước Nam là hợp với ý
trời, đúng với quy luật của vũ trụ, đồng thời ông cũng muốn bày tỏ sự tin
tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Sự đổi thay, đổi mới giang sơn là điều kiện cần và đủ để thiết lập một sự
vững bền mới cho xã tắc, muôn dân. Sự đổi mới này là trên nền tảng phục
hưng một dân tộc nên nó chắc chắn sẽ mãi mãi trường tồn muôn thuở:
“Muôn thuở nền thái bình vững chãi”
Bởi vì tương lai ấy được làm nên từ những trận đánh anh hùng, vang dội,
nối tiếp những truyền thống của cha ông với ba lần đánh quân Nguyên – Mông.
Và nối tiếp là hai câu thơ cuối:
“Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”
Như muốn bày tỏ khép lại một thời kì chiến đấu oanh liệt để mở ra một thời
kì mới, kỉ nguyên mới xây dựng đất nước huy hoàng hơn, thịnh vượng hơn.
Thông qua lời tuyên bố hùng hồn của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy cảm hứng
dân tộc và tương lai của đất nước như được hòa quyện vào trong quy luật xoay
chuyển của vũ trụ. Tức là vượt qua cơn hoạn nạn, khó khăn, chúng ta hướng
tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn bội phần. Nguyễn Trãi đã thể hiện
niềm trân trọng với quá khứ hào hùng của dân tộc để từ đó càng tin tưởng hơn
vào một mùa xuân mới của đất nước được dựng xây từ chính bàn tay những
người dân Đại Việt.
“Bình Ngô Đại Cáo” đã thể hiện niềm cảm hứng độc lập dân tộc hết sức sâu
sắc. Thông qua đó, chúng ta cũng thấy được niềm tin của tác giả vào một tương
lai vững bền, thịnh vượng của dân tộc Đại Việt sau cơn bĩ cực, khốn khó.
Nguyễn Trãi đã mang vào bài cáo của mình một cảm hứng thời đại hừng hực
khí thế của chiến thắng đại phá quân Minh. Hòa cùng với niềm tin ấy của
Nguyễn Trãi, mong rằng dân tộc ta sẽ luôn luôn góp sức, cùng nhau gây dựng
đất nước ngày càng giàu đẹp hơn, thịnh vượng hơn.
BÀI 3:HIỀN TÀI LÀ NGUYÊN KHÍ CỦA QUỐC GIA
Thân Nhân Trung là một vị quan đại triều có uy tín về đức độ, tài năng và là
một nhà giáo mẫu mực của thời đại. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ,
trong số đó “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là một tác phẩm tiêu biểu. Nó
không chỉ dừng lại trong xã hội thời Lê mà tác phẩm ấy đối với chúng ta vẫn còn
nguyên giá trị khi mà trong xã hội hiện nay giáo dục trở thành quốc sách hàng
đầu.
Tác phẩm đã nêu lên ý nghĩa và mục đích của việc dựng bia tiến sĩ. Muốn đất
nước yên bình thì việc đầu tiên là phải tôn vinh những hiền tài có công lớn với
đất nước, ghi công để khích lệ động viên họ.
 Vậy Hiền tài là gì? Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ và đầy sức thuyết
phục:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh,
rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”.
Còn nguyên khí là gì? Nguyên khí là khí chất ban đầu làm nên sự sống và quá
trình phát triển của sự vật. Hiểu rộng ra, nguyên khí là nền tảng làm nên sự
sống còn và phát triển của xã hội và đất nước.
Tư tưởng của Thân Nhân Trung không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của
hiền tài đối với quốc gia mà còn nêu cao sự cần thiết của việc quan tâm, đào
tạo và tạo nhiều cơ hội phát triển cho hiền tài. Đất nước nào, xã hội nào cũng
có những người hiền tài, tuy nhiên những người hiền tài đó có được phát huy
hết những gì mà họ có hay không còn phụ thuộc vào việc có trọng dụng hay
không và trọng dụng của xã hội, đất nước đó. Một đất nước, một xã hội muốn
phát triển cần thiết phải chăm lo bồi dưỡng, trọng dụng hiền tài, cần trân trọng,
tôn vinh những cống hiến, những đóng góp của họ, cần bảo vệ, phát huy những
giá trị quý giá mà họ đã đem lại cho xã hội, cần tạo một môi trường trong sạch,
lành mạnh để người hiền tài được phát huy hết tiềm năng, Cần có sự quan tâm
đãi ngộ kịp thời, đúng đắn với người hiện tại. Có như vậy thì hiền tài mới ngày
càng dồi dào và đất nước mới thực sự hưng thịnh. Ngược lại, có hiền tài mà
không trọng dụng, thậm chí còn tìm cách hủy hoại thì hiền tài cạn kiệt, không
còn những người tài đức để kiến tạo đất nước, xã hội lâm vào suy thoái.,trì trệ,
quốc gia tất sẽ đi đến chỗ suy yếu.
Những người được coi là “hiền tài” có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
hưng vong của một triều đại nói riêng và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất
nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Giang Văn Minh, Tô Hiến
Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… ở những thế kỷ trước và nhân
vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – người đã lãnh đạo
thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của
thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do cho đất nước và khẳng
định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí
thức được đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ
Chí Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực
tiếp đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa,
người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ… đã bỏ ra bao công sức
nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu
chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường. Nhà nông học Lương Định Của
suốt đời trăn trở, nghiên cứu lai tạo ra những giống lúa mới có khả năng chống
sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng nguồn
lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ… Đó là gương sáng
của những bậc “hiền tài” một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân dân và
Tổ quốc.
ác giả còn nêu ý nghĩa to lớn của việc khắc bia để tên các tiến sĩ đối với
đương thời và hậu thế. Thứ nhất, là dù có trọng dụng hiền tài như thế nào đi
chăng nữa thì mỗi người đều mong muốn được khắc tên mình trên bia đá để
họ coi đó là niềm tự hào của bản thân khi đã góp được công sức, tuổi trẻ của
mình cho đất nước, để mọi người có thể biết đến tên tuổi của những người
hiền tài và lưu truyền muôn đời sau. Thứ hai, Tác giả khẳng định việc dựng bia
là một việc cần thiết và đúng đắn. Ngoài ý nghĩa tôn vinh tên tuổi của các bậc
hiền tài, ghi nhớ công lao của những người có đóng góp to lớn cho đất nước,
dân tộc thì mục đích của việc dựng bia là để răn dạy lẽ phải, ngăn ngừa sự tha
hoá biến chất của những người có tài, có chức quyền trong thiên hạ. Để những
người tài trở thành hiền tài, thành nguyên khí quốc gia thì triều đình cần phải
có chính sách đào tạo và sử dụng hiệu quả, phải có những điều răn dạy nghiêm
khắc trước mắt và lâu dài. Bia đá sẽ là lời nhắc nhở hiền tài có ý thức rõ ràng
hơn về trách nhiệm của mình đối với sự hưng vong của đất nước và dân tộc.
Trách nhiệm, nghĩa vụ của “kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh” phải như thế nào?
Phải “tự trọng tấm thân” rèn đức rèn tài, phải “ra sức báo đáp’ ân đức minh
quân thánh đế.
Với lối liệt kê trùng điệp,đối lập kết hợp giọng văn trang trọng cùng lối nói
mạch lạc rõ ràng,dễ hiểu đã khiến cho chúng ta thấy được tác dụng to lớn của
việc khắc bia mộ và những ý nghĩa to lớn của việc làm này. Nhân tài của nước
ta không nhiều nhưng cũng không quá hiếm hoi nhưng để họ trở thành nhân
tài thì triều đình,đất nước cần có những chính sách hiệu quả.Tấm bia đá sẽ là
lời nhắc nhở các bậc hiền tài có ý thức trách nhiệm của mình đối với sự hưng
vong của đất nước.
Bằng phương pháp lập luận chặt chẽ và nghệ thuật sử dụng từ ngữ chính
xác, tác giả Thân Nhân Trung đã để lại cho người đời sau bài học thiết thực về
cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng nhân tài đúng đắn và hợp lý. Biết phát hiện,
đầu tư đào tạo và tôn trọng nhân tài – đặc biệt là hiền tài thì sự nghiệp dân
giàu nước mạnh mới mau chóng trở thành hiện thực.

BÀI VIẾT PHÂN TÍCH “CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐẾN TẢN VIÊN “
1.Mở bài
Sống vào thế kỉ XVI, Nguyễn Dữ được biết đến là một trong số những tác giả
tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông là người đã có nhiều đóng
góp cho thể loại truyền kì ở nước ta và tập truyện “Truyền kì mạn lục” là một
trong số những tác phẩm xuất sắc của ông. Trong số 20 truyện của “Truyền kì
mạn lục”, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một tác phẩm đặc sắc viết về
đề tài người tri thức trong xã hội xưa. 
2. Thân bài
Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là câu chuyện kể xoay
quanh nhân vật Ngô Tử Văn – một người tri thức trong xã hội xưa. Mở đầu tác
phẩm chính là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy khái quát của tác giả về nhân
vật này. Theo lời giới thiệu của tác giả “Ngô Tử Văn tên thật là Soạn”, quê quán
của Văn chính là ở “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Đồng thời, trong lời giới
thiệu của mình, tác giả cũng đã cho người đọc thấy được tính cách của nhân
vật, đó là một con người cương trực, “khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì
không thể chịu được”. Như vậy, có thể thấy, trong phần mở đầu của tác phẩm,
tác giả đã giới thiệu rất ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng tên tuổi, quê quán và tính
cách của nhân vật Ngô Tử Văn.
Trong phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả đã tập trung làm bật nổi tính
cách của nhân vật và trước hơn hết thể hiện qua hành động đốt đền tà. Sở dĩ,
Ngô Tử Văn quyết định đốt đền vì đó là đền thờ ma quỷ, làm yêu làm quái
trong nhân dân, làm cho cuộc sống của nhân dân cơ cực. Hành động đốt đền
của chàng đã diễn ra thật trang trọng và đầy quyết liệt “chàng tắm gội, khẩn
trời rồi châm lửa đốt đền”. Có thể thấy, hành động đốt đền của Ngô Tử Văn
không phải là hành động mang tính chất tự phát mà đó là hành động làm theo
lẽ phải, phù hợp với suy nghĩ, với thế giới tâm linh của người Việt. Ngọn lửa
được Ngô Tử Văn châm lên để đốt đền chính là ngọn lửa lí tưởng cao đẹp của
người trí thức, ngọn lửa của chính nghĩa, của lòng căm hờn và chính ngọn lửa
ấy đã thiêu rụi, đã đốt cháy cái ác, cái xấu xa, thắp lên tinh thần đấu tranh để
bảo vệ lẽ phải. Ngô Tử Văn đã đốt đền, diệt đi cái ác, cái xấu, làm hại đến nhân
dân, đó là một hành động cương trực, nghĩa khí và qua đó cho thấy Ngô Tử Văn
là người cương trực, yêu chính nghĩa.
Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn trở về nhà và chàng thấy trong người khó chịu
“đầu lảo đảo và bụng run run”, “nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Để rồi, trong
chính cơn nóng rét ấy, chàng đã được gặp hồn ma tên tướng giặc và vị Thổ
thần đất Việt. Khi đối mặt với hồn ma tướng giặc – “một người khôi ngô, cao
lớn, đầu đội mũ trụ”, “nói năng và quần áo rất giống người phương Bắc”, mặc
cho hồn ma của tên tướng giặc nói rất nhiều, đưa ra lời dọa dẫm và yêu cầu trả
lại cho hắn ngôi đền như cũ thì Ngô Tử Văn vẫn “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất
ngưởng tự nhiên”. Tác giả đã để cho nhân vật im lặng như một cách để nhân
vật tự kiểm chứng lại hành động của mình nhưng đồng thời qua đó cũng để cho
hồn ma tướng giặc tự diễn biến, thể hiện được bộ mặt, bản chất của chính
mình. Khi gặp Thổ thần đất Việt, trái ngược hoàn toàn với lúc đối mặt với hồn
ma tướng giặc, Ngô Tử Văn nói năng linh hoạt và rất cởi mở. Ngô Tử Văn đã hỏi
Thổ thần rất nhiều điều và chính trong cuộc trò chuyện ấy với Thổ thần, Thổ
thần đã kể cho Ngô Tử Văn toàn bộ câu chuyện mình đã bị hại, sự xảo trá của
hồn ma tướng giặc và đồng thời cũng chỉ cho Tử Văn cách để đối phó lại với
hồn ma. Như vậy, có thể thấy, Ngô Tử Văn trong màn đối chất đã thể hiện
được bản lĩnh, tinh thần chủ động, sự tự tin của mình.
Sau lần gặp gỡ với hồn ma và Thổ thần trong cơn sốt, về đêm, bệnh tình của
Tử Văn ngày càng nặng thêm và rồi chàng bị hai con quỷ dẫn xuống âm phủ. Tại
nơi đây đã diễn ra màn xử kiện đầy gay go giữa Ngô Tử Văn với hồn ma tướng
giặc dưới sự phán xét của Diêm vương. Cảnh âm phủ đã được nhà văn Nguyễn
Dữ miêu tả bằng những chi tiết cụ thể, chân thực “quỷ sứ lôi đi”, “nhà có thanh
sắt cao mấy chục trượng”, “sông lớn, gió tanh sóng xám”, “vạn quỷ Dạ Xoa mắt
xanh tóc đỏ, nanh ác”. Cảnh âm phủ đã được miêu tả từ xa tới gần, từ trên
xuống dưới, tất cả hiện lên thật man rợn. Khung cảnh này cùng với cảnh áp giải
Ngô Tử Văn dường như đã cho thấy tình thế bất lợi của chàng thế nhưng với
bản lĩnh của mình, chàng đã khảng khái đấu tranh để đòi lại công bằng. Ngô Tử
Văn đã cương trực kêu oan “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian,
có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”, đồng thời
chàng cũng đã giữ thái độ bình tĩnh, tâu lại đầu đuôi câu chuyện như lời Thổ
công đã căn dặn chàng. Có thể thấy, màn xử kiện đã diễn ra vô cùng gay go,
quyết liệt, “hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái”. Đến cuối cùng,
Ngô Tử Văn đã đưa ra bằng chứng “tư giấy ở đền Tản Viên” và chàng cũng cam
kết nếu những lời mình nói không đúng với sự thật thì sẽ chịu thêm tội nói càn.
Trước những lí lẽ, bằng chứng mà Ngô Tử Văn đã đưa ra, cuối cùng, phần thắng
của buổi xử kiện đã thuộc về chàng. 
Sau khi chiến thắng, Diêm Vương truyền lệnh cho quân lính đưa Ngô Tử Văn
về làng và từ đó được nhận một nửa lễ cúng của dân làng ở ngôi đền kia. Đồng
thời, Thổ thần cũng tiến của Ngô Tử Văn giữ chức phán sự ở đền Tản Viên và
chàng đã vui vẻ nhận lời. Chiến thắng của Ngô Tử Văn cùng việc chàng lên giữ
chức phán sự ở đền Tản Viên chính là phần thưởng lớn nhất cho sự cương
trực, chính nghĩa của chàng. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện ước mơ của nhân
dân về một cuộc sống, một xã hội công bằng và có được một vị quan thanh
liêm, chính trực, hết mực lo cho cuộc sống của nhân dân. 
 
3.Kết bài
 
Tóm lại, với nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo, nghệ thuật kể chuyện
hấp dẫn, độc đáo cùng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo hấp dẫn, tác phẩm
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ đã đề cao tinh thần
cương trực, yêu chính nghĩa, luôn sẵn sàng đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu
của người trí thức đất Việt – Ngô Tử Văn. Đồng thời, qua đó cũng gửi gắm ước
mơ, niềm tin công lí của nhân dân.

BÀI 4 :HỒI TRỐNG CỔ THÀNH


Hồi trống Cổ Thành là tác phẩm tiểu thuyết viết theo lối chương hồi, "Tam
quốc diễn nghĩa" - một tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử, xã hội Trung
Quốc thời kì cát cứ phân tranh, chiến tranh liên miên, người dân trải qua nhiều
đau khổ, mọi diễn biến của thời kì biến loạn đó được tác giả La Quán Trung tái
hiện lại rõ nét qua tác phẩm giàu giá trị hiện thực. "Hồi trống cổ thành" là một
trích đoạn tiêu biểu của tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa", đoạn trích tái hiện lại
rõ nét chân dung của những con người nhân nghĩa Trương Phi, Vân Trường, đó
chính là những con người đại diện cho lòng "trung", cho chữ "nghĩa" trong
quan hệ vua tôi, huynh đệ.
   Nếu trong nền văn học Việt Nam có tác phẩm chương hồi giàu giá trị lịch
sử, giá trị thời đại là "Hoàng Lê nhất thống chí" của các tác giả Ngô Gia Văn Phái
thì ở một nền văn học lớn như Trung Hoa cũng không thiếu những tác phẩm
lớn của các tác giả tài ba, trong số các tác phẩm lịch sử đó, nổi bật lên hẳng
chính là tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, cả một giai đoạn
dài nhiều thăng trầm, với sự đổi thay của biết bao nhiêu thời đại đều được tái
giả khắc họa lại trong tác phẩm của mình. Trở lại với trích đoạn "Hồi trống cổ
thành", như đã nói, tác phẩm này đề cập đến lòng chung nghĩa, tình cảm huynh
đệ giữa hai nhân vật chính là Trương Phi và Quan Vân Trường, và đặc biệt, tình
cảm ấy còn được đặt trong một tình huống éo le, gây cho các nhân vật nhiều sự
đấu tranh, giằng xé để có được quyết định cuối cùng giữa chữ trung và chữ
nghĩa.
   Theo dõi "Tam quốc diễn nghĩa" nói chung, trích đoạn "Hồi trống cổ thành"
nói riêng ta có thể thấy cả Quan Vân Trường và Trương Phi đều là những vị
tướng tài giỏi, những người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Là những con
người tiêu biểu đại diện cho chữ "dũng". Nói qua như vậy để ta hiểu hơn về
tính cách, con người của những nhân vật này, họ là những người thà chết chứ
không chịu nhục, thà mất đi mạng sống chứ không chịu phản bội lại chủ. Nhưng
ở đây, để thửu thách tấm lòng trung nghĩa của hai nhân vật này, tác giả La
Quán Trung đã đặt họ vào một tình huống ngặt nghèo, mà ở đó những phẩm
chất, con người thật của mỗi người được bộc lộ một cách rõ nét.
   Ba anh em Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi ẩn náu dưới trướng của Tào
Tháo, biết được Tào Tháo là một con người gian hùng nên họ đã tìm cách bỏ đi.
Trên đường trốn chạy, tránh sự truy sát của Tào Tháo thì ba huynh đệ đã mỗi
người một ngả. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mọi hiểu lầm sau này của hai
huynh đệ Quan Công và Trương Phi. Vì phải dẫn theo hai chị dâu, vốn là hai bà
vợ của Lưu Bị nên Quan Công không thể rút chạy an toàn mà bị Tào Tháo vây
bắt. Vì biết Quan Công là một người tài hiếm có nên Tào Tháo không những
không giết mà còn tìm mọi cách để Quan Công quy phục mình.
   Nếu có một mình, thì dù phải hi sinh tính mạng thì Quan Công cũng không
chịu hang Tào Tháo, nhưng vì đảm bảo sự an nguy cho hai người chị dâu, cực
chẳng đã Quan Công đã phải tạm hang Tào Tháo, dù là tạm hang nhưng Quan
Công cũng khẳng định mạnh mẽ, tuyên bố rõ rang việc mình hang ở đây không
phải hang Tào Tháo mà là hang vua Hán, vì lúc này vua Hán đang bị Tào Tháo
không chế. Quan Công đợi thời cơ, một khi có tin tức của anh mình, tức Lưu Bị
thì sẽ lập tức đi ngay. Ta có thể thấy, Quan Công là một con người ngay thẳng,
tuyệt đối trung thành với Lưu Bị, vì dù được Tào Tháo tìm mọi cách lấy lòng,
"ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lại ban thưởng chức tước, vàng
bạc, mĩ nữ…" nhưng Quan Công cũng không hề đái hoài, không bị tác động dù
chỉ một chút "Thân tại Tào doanh, tâm tại Hán".
   Nhân vật Quan Công còn hiện lên là một vị tướng kiêu hùng, dũng mãnh
hơn người, vì khi đã nghe ngóng tin tức, xác định được vị trí của huynh đệ thì
Quan Công lập tức lên đường, khi ấy các tướng dưới trướng của Tào Tháo ngăn
cản thì Quan Công đã vung đao chém luôn sáu tướng, vượt được năm cửa
quan để đến Cổ Thành gặp người huynh đệ Trương Phi. Hành động oai dũng ấy
tuy đươc miêu tả qua một vài chi tiết ngắn gọn, nhưng ta cũng phải thấy được
mức độ hiểm nguy, khó khăn của tình huống này, bởi Quan Công chỉ có một
thân một mình, lại phải bảo vệ cho sự an nguy của các chị dâu thì việc chiến
thắng tướng của Tào Tháo và qua các cửa quan là một việc hết sức phi thường.
   Khi đến được Cổ Thành, Quan Công đã rất vui mừng khi sắp tới sẽ gặp
được người em thân thiết Trương Phi, bởi Trương Phi không những trốn chạy
thành công mà còn chiếm thành công Cổ Thành, nhưng niềm vui đoàn tụ ấy
chưa kịp xảy ra thì một tình huống bất ngờ mà Quan Công không thể lường
trước đã xảy ra, Trương Phi không những không chào đón mình bằng cái ôm
nồng nhiệt của huynh đệ mà tiếp đón bằng đao, vẻ mặt hung dữ như thể
nghênh chiến kẻ thù "Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò
hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công". Vì không thể lường trước
được tình huống này sẽ xảy ra nên Quan Công rất bất ngờ, vội tránh mũi mâu
"Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa đào ru?"
   Quan Công đã nhắc lại tình nghĩa huynh đệ với Trương Phi và hoài nghi về
sự manh động của Trương Phi, ta có thể nhận thấy Quan Công là một con
người điềm tĩnh, luôn bình tĩnh giải quyết mọi thứ, dù trong tình cảnh khó
khăn, ngặt nghèo nhất. Dù Trương Phi một mực khẳng định Quan Công là kẻ
phản bội thì sự điềm đạm trong khí chất đã giữ cho Quan Công sự bình tĩnh
trước mọi việc mà rành rọi giải thích đầu đuôi mọi sự hiểu lầm. Và khi Trương
Phi vẫn nhất quyết không chịu tin và muốn Quan Công chứng tỏ sự trong sạch
bằng cách lấy đầu của tướng giặc qua ba hồi trống, dù khó khăn nhưng vì phẩm
tiết ản thân, vì tình huynh đệ thì Quan Công vẫn chấp nhận. Và cuối cùng, sau
khi chém chết tướng giặc thì Quan Công đã làm tỏ rạng mối hàm oan của
Trương Phi đối với mình, tình huynh đệ gắn kết trở lại.
   Nếu Quan Công là một con người điềm tĩnh, biết suy xét, nhận biết tình
hình thì Trương Phi lại ngược lại, tuy là một người tướng giỏi nhưng Trương
Phi tính tình lại nóng nảy, không nghe những lời giải thích, dù có lí, thuyết phục
đến đâu. Vì vậy mà chỉ khi Quan Công giết chết được tên tướng giặc thì Trương
Phi mới chấp nhận sự trong sạch của Quan Công, dù trước đó Quan Công có giải
thích đến đâu, dù người chị dâu có làm chứng thì Trương Phi cũng một mực
không nghe. Tuy nhiên, sự cố chấp này của Trương Phi cũng xuất phát từ chính
tấm lòng trung thành với Lưu Bị, vì quá trọng chữ "trung" nên không cho phép
sự phản bội, hai lòng làm hoen ố, ảnh hưởng. Ta cũng không thể phủ nhận
được sự dũng mãnh, tài ba hơn người của Trương Phi, vì chỉ có dưới trướng
khoảng hơn trăm người nhưng Trương Phi đã đoạt được Cổ Thành về tay và
làm chủ nơi đây.
   Đây không hề là việc đơn giản nếu như không muốn nói đây là một hành
động quá sức phi thường. Là người trọng sự trung thành nên dù tình cảm
huynh đệ có gắn bó nhưng một khi đã phản bội thì Trương Phi cũng kiên quyết
chống lại đến cùng. Hành động ấy, suy nghĩ ấy rất đúng nếu như Quan Công là
con người hai mặt thực sự. Nhưng ở đây sự thật không như những phán đoán
mơ hồ của Trương Phi nên sự nông nổi, cứng nhắc của anh ta khiến cho hành
động nhân vật này trở nên mù quáng. Tuy nhiên, Trương phi cũng là người biết
hối lối khi nhận ra những sai lầm của mình, khi iết Quan Công không hề phản
bội thì Trương Phi đã tạ lỗi, khóc lóc, quỳ lạy Quan Công để hối lỗi "..nhỏ nước
mắt khóc, thụp lạy Vân Trường…"
   Như vậy, đoạn trích "Hồi trống cổ thành" đã khắc họa thành công và chân
thực hình ảnh của hai người anh hùng trong Tam Quốc chí, là Trương Phi và
Quan Công. Tuy có những đối lập về tính cách, một người điềm tĩnh, một người
nóng nảy, bộc trực nhưng cả hai đều có điểm chung đó chính là một lòng chung
thành, coi trọng tình nghĩa huynh đệ, đều là những tướng lĩnh tài giỏi, dũng
mãnh. Và hơn hết, cả hai người anh hùng này đều là đại diện cho chữ "dũng",
là những nhân tố tạo nên sức mạnh cho Lưu Bị.

You might also like