You are on page 1of 44

CÂU HỎI:

1. Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ


động, tích cực hội nhập quốc tế”, Anh/chị hiểu hội nhập quốc
tế như thế nào? Theo Anh/Chị là sinh viên, cần phải làm gì để
chủ động hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục
tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh
tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo
đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản
chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt
được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
 Hội nhập quốc tế hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. Hội nhập quốc tế
toàn diện thực chất là mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối
ngoại, mà còn bao gồm an ninh quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa
học-kĩ thuật, y tế, giáo dục…

Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong
hoạt động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có
những chủ trương cứng nhắc và bảo thủ.  

(Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là
nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để
phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường
sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích
cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.)

Cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế

Một là, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây vừa
là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để
nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới
Hai là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững;
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong
tình hình mới và thực thi các cam kết quốc tế.
Bốn là, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách
hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực
cán bộ, trình độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ
động phù hợp.
nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động,
tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia
các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp
tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và
quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.

2. So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi
mới và thời kỳ đổi mới.

- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách
quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã
thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩaMác – Lê-nin. Đồng
thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năngsuất lao động thấp, đời sống
nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…

- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

4.2. Sự khác nhau:


- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Đặc
điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở
hạ tầng chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa
được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá trình
hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách
thức mới.Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa
chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó
là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ
sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực
nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lậptức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với
thời đại).

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khépkín,
hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế quốc
tế.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khaithác
hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinhtế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế
giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
khai thác hiệu quả thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự
nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ
đạo.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện
công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo
kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực
hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài
nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời
kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, để phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo.
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ
cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Khoa học và công nghệ có
vai trò quyết định đế tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế
cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ
là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng
chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã hội.
Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với pháttriển nhanh, hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực
chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để
thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát
triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội... vì
mục tiêu phát triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.

3. Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng


chế độ mới (1945-1954)
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Đảng ta áp dụng
phương châm này không chỉ trong công cuộc kháng chiến chống giặc mà còn trong cả
giai đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa cho Cách mạng. Chính vì vậy mà
giữa đường lối kháng chiến và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ song song và
chặt chẽ.
Đầu tiên, về đường lối kháng chiến chống Pháp, mục đích kháng chiến là kế tục và phát
triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, "Đánh thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất
và độc lập". Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách mạng của
nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Nó là
một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.
Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân.
Người giải thích, toàn dân kháng chiến chính là: "Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một
pháo đài. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, toàn thể nhân dân chính là nguồn lực
chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng nhau góp sức. Bất kì người dân, không
phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi tác…đều có thể đóng góp công sức làm nên
sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu
chuộng tự do, hòa bình. Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch… Về
kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân,
phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.Về ngoại giao: thêm bạn bớt thù , biểu
dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, Đảng ta chủ trương xây dựng
toàn diện, mọi mặt. Đó là sự thay đổi và xây dựng trên mọi bình diện và lĩnh vực đời
sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự tập trung xây dựng toàn
diện, đồng đều mới đưa đất nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển nhanh chóng và
hợp lí.
Việc thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của
Pháp; để chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để củng cố hậu phương
vững chắc. Điều này càng được áp dụng vào trong công cuộc xây dựng chế độ mới. Toàn
dân ra sức xây dựng chế độ dân chủ nhân dân với tâm thế kĩ lưỡng, cẩn thận và đúng đắn
nên không thể hoàn thành trong thời gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối
xây dựng cụ thể.
Phương châm dựa vào sức mình là chính có nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động hết sức người, sức của
để xây dựng cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông nghiệp. Chỉ có lao động mới tạo
ra của cải vật chất. Vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự
lực cánh sinh, kháng chiến dựa vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi nào có điều kiện ta
sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.

4. Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn
1959-1964
Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế
chung của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường lối
đúng đắn, hợp lí. Trải qua nhiều lân nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại Hội
nghị Trung ương lần thứ 15, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng
miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: "Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính
chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ
vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết xác định con đường phát triển của cách
mạng miền Nam là bạo lực cách mạng thay vì chỉ đấu tranh dân chủ và chính trị như
trước đó, chuyển từ giữ gìn lực lượng sáng thế tiến công. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong
những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã
giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà. Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của
nhân dân miền Bắc; mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào
cách mạng của cả nước. Kinh tế, văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời sống nhân
dân miền Bắc ngày càng được cải thiện, lực lượng quốc phòng của miền Bắc ngày càng
được vững mạnh thì sẽ tăng thêm sức mạnh của cách mạng và uy thế chính trị của nhân
dân ta, tăng thêm tin tưởng và tính tích cực cách mạng của đồng bào miền Nam trong
cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến
ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay đang
tiếp tục phát huy ý chí quật cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt Nam.
Phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam càng được giữ vững và phát triển thì một
mặt càng tăng cường lực lượng cách mạng để đánh bại chính sách nô dịch, gây chiến và
chia cắt của Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống trị tàn khốc của chúng, thực hiện hoà
bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố và phát triển lực lượng để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở
miền Nam. Quá trình hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước là quá trình tích cực phát huy tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời cũng là quá trình tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ ở miền Nam
để đấu tranh chống Mỹ - Diệm, tiến lên làm thất bại các chính sách của đế quốc Mỹ, đánh
đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất
nước nhà.

5. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với bảo vệ môi trường.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang
lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh
học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những
hậu quả khôn lường. Đây chính là kết quả của quá trình Công nghiệp hóa nhanh ở nước
ta. Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã
khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển
bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật
bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt
với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm
mới so với Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện
với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua
với môi trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần
lớn đều gây ô nhiễm môi trường. CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép
lớn về môi trường trong quản lý đô thị. Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta
đang phải chịu những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần
được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện
với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại
hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng
năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên
liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài
chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng
lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo,
các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng
các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng
lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm
phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật
liệu cũng như việc chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công
nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy
nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ
đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam
kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình tăng
trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii)
Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được
chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình
CNH-HĐH nước ta.)

Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả
năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong
thời gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu
tăng trưởng kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường.

Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường,
được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng
thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là
các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển
biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo
điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.

6. Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền của
ĐCSĐD (1939 - 1945) liên hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay
của Việt Nam
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân,
phong kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu
tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ
cách mạng.

Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị
thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II,
nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan
chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng
khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã
được phát ra.

Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được
thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân
Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy
ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi
ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima
của Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt
cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị:
“Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng.
Không thể để lỡ cơ hội”.

Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh
chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã,
bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương.
Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân
Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta
không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với
quân Đồng minh.

Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp
nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách
mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại
thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu
mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan
chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.

Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
“Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu
chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù
có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì
vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến
hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân
dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân
Đồng minh.

Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng
Tháng Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân
Anh chưa vào miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp
quân Nhật; cũng là lúc quân Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến
tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn
đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta
được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách
nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã
chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên
tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát
triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ,
giành thắng lợi.

Hiện nay:
Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến khách
quan mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một tâm thế sẵn
sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh tế, rồi dần là văn hóa, thể thao… cho đến chính trị. Việt
Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc… Vị thế,
vai trò và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nhưng
cũng có thể tạo ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương mại
Mỹ - Trung, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy
mô đầu tư, họ đã và đang chọn điểm đến là Việt Nam. Nước ta có thể nắm bắt cơ hội
này để thúc đẩy phát triển đất nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và
hấp dẫn để “lót ổ đón đại bàng” như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy
lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những
nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh
tế ở nước ta.

Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng
được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh
tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường
phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá
trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật
khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.

Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".

Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta
lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường.
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với
6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ
hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:

- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

- Do nhân dân làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị
trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những
quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử.
Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho
mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là
những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả
trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường
XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục
đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau
nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy
lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

7. Vì sao ĐCSVN lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định


hướng XHCN là một tất yếu
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy
lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những
nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh
tế ở nước ta.

Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng
được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh
tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường
phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá
trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật
khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.

Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".

Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta
lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường.
Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với
6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ
hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:

- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

- Do nhân dân làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho
đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị
trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những
quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử.
Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho
mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là
những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả
trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường
XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục
đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau
nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy
lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

8. Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu? phân tích sự sáng
tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên ?
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện
rõ nét và sinh động về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc vận dụng
CNMácLN, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần
nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra và được
thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, thông qua tại Hội nghị
thành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).

Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
đã chỉ ra phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việc xác định
lý luận, đường lối, phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng
chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân VN.

Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần
nhuyễn quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những
luận điểm sau nổi bật. Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng để tiến lên xã hội cộng sản. (Thực chất đó là một cuộc cách mạng
có 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn
thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản.)Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai
nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống phong kiến. (Hai nhiệm vụ này có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít không tách rời nhau
nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.)
Ba là, xác định lực lượng cách mạng, bao gồm : giai cấp công - nông là gốc, những
người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.( Đảng phải vận
động, thu phục giai cấp mình để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên
lạc với trung nông. Lực lượng cách mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông
là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những người yêu nước trong các giai cấp
khác là đồng minh của cách mạng.) Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân
thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm là, về
phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng. Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc
địa trên thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới.

Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo:
vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng
chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và
đoàn kết toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin
vào hoàn cảnh Việt Nam, xác định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cuộc cách mạng này đánh đổ thực
dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân
được các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt các chủ trương đường lối cách mạng Việt Nam
từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là
ở chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều
kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ
quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ
Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng cần xây dựng liên minh
Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng
Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả
các tầng lớp nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc
và phong kiến.
9. Sự quan trọng của văn hóa với sự phát triển bền vững

Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh
thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển
kinh tế - xã hội bền vững.

Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và
phát huy qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá
khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân -
Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.

để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng
ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến
bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc,
tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại
trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.
Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn
lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị
văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở
tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.

Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.

Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một
xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục
tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển
là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay
không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm
nay mà làm tổn hại đến tương lai.

Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa
cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về
môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được
điều đó phải cần đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động
của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò
của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó
là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là
nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con
người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh
phúc.

Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.

Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên,
thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội
tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.

Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn
hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến
bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội
nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới
ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do
các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần
quan trọng nằm trong văn hóa.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi
quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ
dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa
dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố
quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới
không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát
triển, chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.

Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng
tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và
cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao
giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu không có
những con người đủ trí tuệ và năng lực khai khác chúng, thì các nguồn lực đó dù có
phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát
triển.

10. Vì sao trong thời kỳ đổi mới, ĐCSVN phải lựa chọn
phương châm đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa là một tất yếu.

Đảng và Nhà nước luôn xác định Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế
giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới
là điều kiện không thể thiếu để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa
rời với sự vận động chung, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài là những sai lầm
nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã
có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm
quan trọng và tính tất yếu của chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại.

Đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu vì những lý do sau.

Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển
của thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ
nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch
chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh
khiến nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.

Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận
thức và rút kinh nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là
đổi mới chủ trương và chính sách ngoại giao sao cho hợp lí, hiệu quả.

Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt
đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách
đối ngoại, đặc biệt coi trọng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ ngoại giao.

Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương
trên nhiều lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh
xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó
thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa
đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục -
đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục
tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu
cầu của người dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới
trong các lĩnh vực này.

Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở cửa,
gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
11. Phân tích mối quan hệ giữa chính trị - quân sự - ngoại giao
trong kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975)

Ngay từ đầu, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu phối hợp ba mặt trận quân sự-chính
trị-ngoại giao để chống Mỹ, cứu nước. Thông thường trong chiến tranh, ngoại giao
chỉ có mặt khi kết thúc chiến tranh để đi đến ký một hiệp định ghi lại mức thắng bại
của mỗi bên. Trái lại, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao của chúng ta
có mặt từ đầu đến cuối, luôn luôn có vai trò, vị trí, nhiệm vụ nặng nề. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa III), tháng Giêng 1967 về đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta, đã khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây
giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng địch, thế của ta là thế mạnh...”.

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng Tư 1969 ghi rõ: “Ngoại giao đã trở thành một mặt trận
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao tự nó phải tăng cường và xây dựng lực
lượng, vừa phát huy thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường. Trên
chiến trường, ta đánh thắng được keo nào thì ngoại giao phải phát huy, khuếch trương
trên thế giới, đồng thời phải phục vụ và phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị tạo
thành sức mạnh tổng hợp đưa cuộc chiến đấu đến thắng lợi.

Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao có hai nhiệm vụ
lớn. Nhiệm vụ thứ nhất là tăng cường hậu phương quốc tế của ta và làm suy yếu hậu
phương của địch. Đối với hậu phương quốc tế của ta, ngoại giao có nhiệm vụ thực
hiện khẩu hiệu của Đảng đề ra là thêm bạn bớt thù, tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, từ
những đồng minh chiến lược đến những người chỉ đồng tình với ta một điểm nào đó.
Như trên đã nêu, chúng ta chống đế quốc Mỹ là nhằm mục tiêu chung của loài người,
của thời đại, từ mục tiêu cao là chủ nghĩa xã hội, cho đến mục tiêu thấp là hòa bình,
độc lập dân tộc. Ai đồng tình với ta trên cơ sở chiến lược là đi tới chủ nghĩa xã hội
đều là bạn của ta. Ai chỉ đồng tình với ta dù chỉ là trên cơ sở chủ nghĩa nhân đạo, ta
cũng coi là bạn. Ta tranh thủ kết bạn với mọi người từ mức thấp tới mức cao, theo
đúng phương châm thêm bạn bớt thù của Bác Hồ.

Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao là giải quyết vấn đề ta thắng địch thua. Lãnh đạo ta
nhìn vấn đề với đầu óc rất sáng suốt và thực tế. Với một địch thủ lớn mạnh hơn hẳn
như Mỹ, cuộc đấu tranh của ta chống Mỹ không thể chỉ khi nào ta buộc đối phương
phải quy hàng mới kết thúc. Phải có khái niệm thật rõ thế nào là ta thắng, thế nào là
địch thua thì mới xác định được giải pháp. Ta thắng tức là khi nào ta bảo vệ được độc
lập tự do, giải phóng được đất nước của ta. Mỹ thua tức là Mỹ phải rút hết quân, chấm
dứt xâm lược, phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam.

Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nếu Mỹ
mà chịu nhận rút thì chúng tôi trải thảm đỏ cho mà rút. Ngoại giao phải làm sao đạt
được thực chất vấn đề như vậy. Để thắng một kẻ thù cỡ lớn như thế mà ta lại là một
nước nhỏ thì phải có ngoại giao đóng góp vào đó, thực hiện phương châm thắng từng
bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Phải có ngoại giao để giải quyết vấn đề ta
thắng địch thua.

Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng vững chắc về
chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta

Trước một kẻ thù giàu mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ biến trên
thế giới như vậy, điều tối cần thiết đối với ta là phải tạo lập được một mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư luận và cô lập Mỹ về chính trị
và tinh thần.

Nhằm mục đích đó, việc tuyên truyền vận động quốc tế của ta trong thời gian đầu
hướng vào bốn nội dung: thứ nhất là nêu cao chính nghĩa của Việt Nam, thứ hai là nêu
cao quyết tâm giành độc lập của Việt Nam, thứ ba là nêu cao thiện chí hòa bình của
Việt Nam, thứ tư là tố cáo tội ác chiến tranh và vạch trần tính chất phi nghĩa của xâm
lược Mỹ.

Trong thời gian Mỹ leo thang chiến tranh, chiến sự còn ở thế giằng co quyết liệt,
nhiệm vụ ngoại giao chủ yếu vẫn là tăng cường hậu phương quốc tế của ta, làm suy
yếu rối loạn hậu phương quốc tế của địch.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng Mười hai
1965) của Đảng nhận định lúc đó “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp về Việt
Nam”, song đã tính đến lúc nào đó sẽ đi vào vừa đánh vừa nói chuyện, lấy đàm để hỗ
trợ cho đánh, lấy đánh để ép địch đàm phán nhằm chuyển biến so sánh lực lượng.
Ngay từ những năm 1965-1967, ta chưa tính đến đàm phán nhưng đã chuẩn bị việc
này. Rút kinh nghiệm của Hiệp định Genève 1954, ta làm cho các nước hiểu và đồng
tình với ta: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam giải quyết trực tiếp với Mỹ.

Thời gian này, hoạt động dùng trung gian “tiến công hòa bình” của Mỹ rất sôi nổi.
Trong một cuộc họp ở Nhà Trắng, Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một
trận đấu ăn giải. Tay phải của ta nắm lực lượng quân sự, song tay trái cần có các đề
nghị hòa bình. Mỗi khi đưa quân đội lên phía trước thì cũng phải đưa các nhà ngoại
giao lên phía trước. Các tướng lĩnh muốn tôi đưa ra nhiều nhiều hơn nữa. Họ muốn
tiến xa hơn. Song Bộ Ngoại giao cũng phải cung cấp cho tôi thêm cái gì nữa.” Có tới
hàng chục nước đủ các loại: các nước Không liên kết, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh,
rồi Nhật Bản, Bắc Mỹ, đến các nhân vật như Tổng thư ký Liên hợp quốc U Thant,
Giáo hoàng, các trí thức, nhà báo có tên tuổi,... làm trung gian cho Mỹ. Thông thường,
dùng trung gian chỉ là một phương thức có tính chất quá độ để mở đường cho đàm
phán trực tiếp giữa hai bên đối địch trong một cuộc tranh chấp. Nhưng với Mỹ, việc
dùng trung gian đã được xem như một thủ đoạn nhằm những mục đích khác như: thu
thập tin tức về ý đồ chiến lược hoặc về lập trường đàm phán cụ thể đối phương, tung
ra những tin thất thiệt làm cho đối phương chập chững, mơ hồ về ý đồ của Mỹ; bắn tin
tức thúc ép, đe dọa hoặc ve vãn dụ dỗ; xoa dịu phản ứng quốc tế đối với Mỹ và
chuyển sức ép sang đối phương; gây hiểu lầm chia rẽ giữa đối phương với bạn bè của
họ.

Để thực hiện những mục đích khác nhau này, Mỹ đã dùng đủ các loại trung gian.
Trước năm 1967, Mỹ dùng thủ đoạn này khá nhiều. Làm trung gian cho Mỹ không
những là các nước đồng minh của Mỹ và các nước thế giới thứ ba mà còn cả nước xã
hội chủ nghĩa nữa; không những là nhân vật trong chính giới các nước mà cả những
nhân sĩ, trí thức, v.v.. Mỹ không những dùng trung gian rất mạnh trong thời gian chưa
có cuộc đàm phán Paris, mà cả khi đã tiếp xúc với ta rồi họ vẫn tiếp tục dùng trung
gian. Thủ đoạn này thâm độc ở chỗ các nước trung gian khi nhận đề nghị của Mỹ đã
phải đồng tình hoặc đồng tình một nửa với ý kiến của Mỹ. Nếu họ truyền đạt ý kiến
đó cho ta mà ta bác đi, như vậy có nghĩa là ta bác cả Mỹ lẫn nước trung gian, và mặc
nhiên Mỹ tranh thủ được nước đó, chia rẽ được họ với ta.

Thời gian 1965-1966 và dai dẳng tới cuối năm 1967 đầu 1968, Mỹ chủ yếu dùng loại
“trung gian thân tín” – các nước châu u và đồng minh của Mỹ - vừa để gây sức ép
bên ngoài với ta vừa để thu thập tình báo chính trị, đánh giá tình hình tại chỗ, giúp
cho Mỹ tài liệu nhận tin tổng hợp về khả năng và ý chí của ta. Mỹ còn thông qua Liên
Xô dùng “mồi kinh tế” lôi kéo được bốn nước Đông u làm trung gian. Khác với việc
dùng các nước phương Tây làm trung gian, Mỹ dùng các nước xã hội chủ nghĩa làm
trung gian với mục đích phân hóa mặt trận đoàn kết xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt
Nam, gây sức ép từ bên trong phe xã hội chủ nghĩa đối với ta hòng tác động đến ý chí
của ta và giảm viện trợ cho ta.

Còn ta kiên trì giải thích cho những nước định làm trung gian hiểu âm mưu, ý đồ, tội
ác của Mỹ, tại sao ta chưa đàm phán. Ta cảm ơn họ ủng hộ Việt Nam, và cho họ biết
đến lúc chín muồi ta sẽ trực tiếp đàm phán với Mỹ. Bằng cách đó, ta không còn phải
lo vừa đối phó với Mỹ, vừa phải giải thích cho bạn mà bạn vẫn hiểu ta, tránh được âm
mưu chia rẽ, lừa bịp của Mỹ, tăng cường hậu phương ta và chuẩn bị cho đàm phán sau
này.

Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ mới (1945-1954)

Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Đảng ta áp dụng
phương châm này không chỉ trong công cuộc kháng chiến chống giặc mà còn trong cả
giai đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa cho Cách mạng. Chính vì vậy
mà giữa đường lối kháng chiến và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ song
song và chặt chẽ.

Đầu tiên, về đường lối kháng chiến chống Pháp, mục đích kháng chiến là kế tục và
phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, "Đánh thực dân Pháp xâm lược; giành
thống nhất và độc lập". Cuộc kháng chiến của dân tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và
lâu dài. Nó là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.

Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân
dân. Người giải thích, toàn dân kháng chiến chính là: "Bất kỳ đàn ông đàn bà không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi
làng xóm là một pháo đài. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, toàn thể nhân dân
chính là nguồn lực chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng nhau góp sức.
Bất kì người dân, không phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi tác…đều có thể
đóng góp công sức làm nên sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây
dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân
tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt
địch… Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.Về văn hóa: Xóa bỏ văn
hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.Về ngoại giao: thêm
bạn bớt thù , biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, Đảng ta
chủ trương xây dựng toàn diện, mọi mặt. Đó là sự thay đổi và xây dựng trên mọi bình
diện và lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự
tập trung xây dựng toàn diện, đồng đều mới đưa đất nước tiến lên chế độ mới với sự
phát triển nhanh chóng và hợp lí.

Việc thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh
của Pháp; để chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để củng cố hậu
phương vững chắc. Điều này càng được áp dụng vào trong công cuộc xây dựng chế
độ mới. Toàn dân ra sức xây dựng chế độ dân chủ nhân dân với tâm thế kĩ lưỡng, cẩn
thận và đúng đắn nên không thể hoàn thành trong thời gian ngắn mà phải tiến hành
lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.

Phương châm dựa vào sức mình là chính có nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về mọi
mặt". Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động hết sức người,
sức của để xây dựng cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông nghiệp. Chỉ có lao
động mới tạo ra của cải vật chất. Vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp
đỡ nên phải tự lực cánh sinh, kháng chiến dựa vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi
nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không
được ỷ lại.
12. Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn
1959-1964

Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu
thế chung của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường
lối đúng đắn, hợp lí. Trải qua nhiều lân nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại
Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách
mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: "Hiện nay, cách mạng Việt Nam do
Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến
lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương
hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện
thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết xác định
con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng thay vì chỉ đấu
tranh dân chủ và chính trị như trước đó, chuyển từ giữ gìn lực lượng sáng thế tiến
công. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng
những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh
độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và phát huy thắng lợi đã
giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà. Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của
nhân dân miền Bắc; mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong
trào cách mạng của cả nước. Kinh tế, văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời
sống nhân dân miền Bắc ngày càng được cải thiện, lực lượng quốc phòng của miền
Bắc ngày càng được vững mạnh thì sẽ tăng thêm sức mạnh của cách mạng và uy thế
chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng và tính tích cực cách mạng của đồng
bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong
kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay
đang tiếp tục phát huy ý chí quật cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt
Nam. Phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam càng được giữ vững và phát triển
thì một mặt càng tăng cường lực lượng cách mạng để đánh bại chính sách nô dịch,
gây chiến và chia cắt của Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống trị tàn khốc của chúng,
thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.

Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố và phát triển lực lượng để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách
mạng ở miền Nam. Quá trình hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước là quá trình tích cực phát huy tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đồng thời cũng là quá trình tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu
nước, tiến bộ ở miền Nam để đấu tranh chống Mỹ - Diệm, tiến lên làm thất bại các
chính sách của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tạo điều kiện
thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà.

12. Vì sao ĐCSVN coi văn hóa tinh thần là nền tảng tinh
thần của XH?

Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng
định bản sắc riêng của mình.

Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua
các thế hệ , được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng
dân tộc; dồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi
thành viên xã hội bằng môi trường xã hội – văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp
cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển.

Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người
mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã
hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là
cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng gia đình văn hóa,...

Câu 10: Thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển kinh tế

Câu 11: Vì sao phải thực hiện đường lối đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa
phương hóa

Hoàn cảnh ra đời

1. Tình hình thế giới

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắcđến nền
kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòahoãn giữa
các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối ngoại, thực
hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế đểtranh thủ sự hỗ trợ
về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa vàkhu vực hóa cũng có
những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao củacác nước, trong đó có các
nước Đông Nam Á.

Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâusắc.
Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông u sụp đổhoàn
toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc hình
thành trật tự thế giới đa cực.

Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc gia
không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, quân sự, chính trị mà phải là tổng thể của sự phát
triển tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trongđó, kinh tế
phải được đặt lên vị trí hàng đầu.

Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trongnhững
năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưaloài người
từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvàongưỡng cửa của
xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽnày, về khách quan
đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầmmức mới,bằng những phương cách
mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ra toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ,
thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thànhmạng lưới kinh tế đa chiều.

13. So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ
trước đổi mới và thời kỳ đổi mới.

4.1. Sự giống nhau:

- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yêu, khách
quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã
thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc
hậu…

- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ
sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp,
đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó
khăn…

- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

4.2. Sự khác nhau:

- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường.Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất
lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp
hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động
sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao động
bằng máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá
trình hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và
thách thức mới.Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là
chúng ta lựa chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp
hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử
dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa),
quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lậptức, phải
đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khépkín,
hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vàhội nhập kinh tế
quốc tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp
khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinhtế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị trường thế giới. Hội nhập
quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở
thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà
nước là chủ đạo.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực
hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung

của Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ
đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán
kinh tế.- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao
động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công
nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là
động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú
trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa
đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng
tạo công nghệ mới.Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở
nướcta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển
công nghệ nội sinh.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn,
chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quảkinh tế xã
hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với pháttriển nhanh,
hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.Xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an
sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát triển con người, mọi người đều
hưởng thành quả của sự phát triển.

13. Nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân (1968)
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là một trong ba đòn Tiến công
chiến lược của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã
gây cú “sốc đột ngột”, làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến của Mỹ; làm
rung chuyển không chỉ toàn bộ chiến trường miền Nam, mà còn gây chấn động Nhà
trắng, Lầu năm góc và làm lay chuyển ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Tổng thống
Mỹ Giôn-xơn phải cách chức Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy quân viễn
chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam; đồng thời, xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi
vào bàn đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam tại Pa-ri. Về cá nhân, Giôn-xơn tuyên bố không
tham gia ứng cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ 2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân (1968) về cơ bản đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ,
mở ra khả năng và cục diện mới cho quân và dân ta thực hiện quyết chiến chiến lược
“đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc vào mùa Xuân 1975. Thắng lợi đó có nhiều nguyên nhân và để lại nhiều bài
học quý. Xét về lĩnh vực quân sự, đó là bài học nghệ thuật tạo bất ngờ trên cả ba
phương diện: chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.

Trước hết là sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng và vũ khí trang bị. Đây là điều kiện tiên
quyết để ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân với quy mô lớn trên
toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các thành phố, đô thị. Vì thế, yêu cầu đặt ra là
phải có lực lượng quân sự tinh nhuệ, lực lượng đấu tranh chính trị hùng hậu, rộng
khắp và khối lượng lớn vũ khí, trang thiết bị quân sự... Thực hiện quyết tâm của Bộ
Chính trị, các sư đoàn chủ lực dự bị cơ động chiến lược (308, 304, 320, 312) được gấp
rút kiện toàn về tổ chức, biên chế, trang bị, đẩy mạnh huấn luyện để sẵn sàng vào
chiến trường khi có lệnh. Các trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng
từ nhiều nơi trên chiến trường miền Nam bí mật hành quân “ém sẵn” ở các địa bàn
ven đô. Riêng khu vực Sài Gòn, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu 7 và
Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập “Khu trọng điểm” gồm nhiều phân khu (Tiểu
đoàn mũi nhọn) được tổ chức và trang bị gọn nhẹ; trong đó, biên chế nhiều tổ, đội biệt
động, đặc công, bảo đảm cho các lực lượng vừa có mũi nhọn, vừa có chiều sâu tiến
công đồng loạt từ nhiều hướng vào Sài Gòn... Bên cạnh đó, việc đảm bảo lương thực,
thực phẩm, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (từ miền Bắc
chuyển vào) được chuẩn bị hết sức chu đáo. Trong nội đô, nhiều tổ chức - cơ sở cách
mạng của ta đã sử dụng các phương tiện vận tải (ô tô, xuồng máy) hợp pháp, đêm
ngày bí mật chuyển lương thực, thuốc men ra vùng giải phóng và nhận súng đạn đưa
về nội đô... Với chiến thuật “thiên biến vạn hóa” đó, chúng ta đã đưa một lực lượng
bộ đội chủ lực cùng với khối lượng lớn vũ khí, trang bị quân sự vượt qua hệ thống
trạm kiểm soát và mạng lưới mật vụ, biệt kích, thám báo chìm, nổi dày đặc của địch,
vào “lót sẵn” trong nội đô. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, táo bạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân (thậm chí có cả vợ, con của sĩ quan ngụy) trong các
thành phố, thị xã đã nhiệt tình ủng hộ, che chở, đùm bọc lực lượng cách mạng. Họ bí
mật đào những căn hầm chứa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ngay dưới nền nhà của
mình; nhiều bà má, chị, em không quản gian khổ, hiểm nguy, hy sinh để vận chuyển
vũ khí vào thành phố... Nhờ đó, các lực lượng của ta với đầy đủ vũ khí, trang bị đã
“nằm sẵn” trong lòng thành phố, thị xã, quận lỵ sẵn sàng chờ lệnh nổ súng tiến công
tiêu diệt địch. Những việc làm trên được khắc ghi trong sử sách là minh chứng sống
động về nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, mà
biểu hiện cụ thể của nó là tạo bất ngờ cả về thế và lực đối với địch.

Tạo bất ngờ về thời điểm tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Chọn dịp Tết
Nguyên Đán và thời khắc giao thừa1 đồng loạt nổ súng mở màn là nét đặc sắc của
nghệ thuật tạo bất ngờ; bởi đây là lúc địch sơ hở và chủ quan nhất. Cân nhắc, nghiên
cứu và tính toán rất kỹ, cụ thể từng chi tiết, phong tục tập quán Tết cổ truyền của dân
tộc trên đất phương Nam; việc “điều binh, khiển tướng” của Quân lực Việt Nam cộng
hòa từ nhiều năm trước đó, sau khi có sự thống nhất giữa cơ quan chỉ đạo tối cao và
chỉ huy các chiến trường, Bộ thống soái quyết định chọn thời điểm Giao thừa là “giờ
G” làm hiệu lệnh nổ súng mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Với sự tính toán mưu lược chu tất như vậy, nên khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất
ngờ, không kịp đối phó. Ngay sau khi sự kiện Tết Mậu Thân diễn ra, giới chỉ huy
quân sự và học giả Mỹ cũng như phương Tây đã xác nhận: Vào những ngày Tết Mậu
Thân, các đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ có một nửa quân số, khiến cho
Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn vô cùng lúng túng trong việc ứng phó. Từ thực tế
đó, càng khẳng định: việc chọn thời điểm Tết Nguyên Đán mở cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược, góp phần tạo bất ngờ về thời gian -
yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân. Vì thời gian là lực lượng.

Tạo bất ngờ về hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu. Vào thời điểm trước cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, địch còn rất mạnh cả về thế và lực, nên chúng ta
không thể sử dụng toàn bộ lực lượng chủ lực để đánh vào các thành phố lớn. Do vậy,
chủ trương của Đảng ta là căng, kéo, lừa địch trải lực lượng ra khắp chiến trường
miền Nam, nhất là đến địa bàn có lợi để dùng những quả đấm mạnh đánh những đòn
tiêu diệt lớn, bẻ gãy các cuộc hành quân “tìm diệt” của chúng. Thực hiện chủ trương
đó, cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công Đường 9
- Khe Sanh2, nhằm dụ quân Mỹ lên để giam chân và tiêu diệt chúng tại đó, tạo ra kẽ
hở, điểm yếu ở các đô thị. Trong khi đó, giới chức chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gòn
cho rằng bộ đội chủ lực ta có rất ít kinh nghiệm tác chiến trong thành phố, lực chưa đủ
mạnh để tiến công vào các cơ quan đầu não của chúng; bởi, đây là những mục tiêu
được canh phòng cẩn mật, với hệ thống thiết bị cảnh giới tinh vi, hỏa lực ngăn chặn
mạnh và dày đặc nhiều tầng, nhiều lớp. Từ đánh giá sai về ta, lại “tuyệt đối hóa” sức
mạnh của vũ khí, thiết bị chiến trường, nên từ chỉ huy đến binh sĩ của quân đội Mỹ
cũng như quân đội ngụy chủ quan, mất cảnh giác. Do vậy, chọn đô thị là hướng tiến
công chủ yếu là ta đã chọn đánh vào điểm yết hầu, hiểm yếu của kẻ thù. Đòn hiểm đó
đã phơi bày sự thất bại về quân sự và sự yếu kém của Mỹ và chính quyền ngụy. Lần
đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã đưa được chiến
tranh vào đô thị, thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau vào “trung tâm đầu não” của
địch; đồng thời, khẳng định: với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo
của Đảng thì mọi điều đều có thể xảy ra, dù khó khăn, phức tạp đến mấy. Đó chính là
tư duy chiến lược, chiến thuật của những bộ não chỉ huy và trực tiếp điều hành chiến
tranh thời đại Hồ Chí Minh; sự sáng tạo, độc đáo, vượt trước của Đảng ta trong cuộc
đấu mưu, đấu trí sinh tử với kẻ thù. Sau thảm bại trong Tết Mậu Thân, với tâm trạng
hoang mang, dao động, nhiều giới chức quân sự và chính khách Mỹ đã tự hỏi: Tại sao
nửa triệu lính Mỹ và hơn 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn
trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí
hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn
công! Chính nội dung câu hỏi đã lộ rõ và thừa nhận về sự bị động và bất ngờ của quân
Mỹ - lực lượng đóng vai trò chủ chốt trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”.

Ngoài ra, nét độc đáo về nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân còn được thể hiện ở cách thức phát hiệu lệnh tiến công. Để bảo đảm bí
mật, bất ngờ tuyệt đối, hiệu lệnh khởi phát cuộc Tổng tiến công Tết của ta được ấn
định vào thời điểm giao thừa, lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc thơ chúc mừng năm mới
trên Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, một phương tiện thông tin đại chúng, có độ
lan tỏa rộng, nhanh và ít bị địch chế áp, theo dõi. Vì thế, Lời chúc Tết Mậu Thân của
Bác trở thành một sự kiện gây bất ngờ đối với quân thù. Như vậy, hiệu lệnh của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân cũng thực sự là một hiện tượng thật đặc sắc,
góp thêm một bất ngờ nữa đối với Mỹ và Quân đội Sài Gòn.

Tóm lại, nghệ thuật tạo bất ngờ đối với Mỹ và Quân đội Việt Nam cộng hòa thực sự là
một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân. Đây là “sản phẩm đặc biệt” của tầm cao trí tuệ và bản lĩnh
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; nét đặc sắc đáng ghi nhớ nhất, hấp dẫn nhất của sự
kiện Tết Mậu Thân đã diễn ra cách đây 45 năm, trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Bài
học kinh nghiệm về nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân (1968) nói riêng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung,
vẫn mãi giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

You might also like