You are on page 1of 16

Đề bài: So sánh sự khác biệt giữa văn minh Phương

Đông và Phương Tây?


I. Điều kiện hình thành:

A. PHƯƠNG ĐÔNG:

Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉ trước sau
CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốn trung tâm văn minh lớn,
đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn
trung tâm văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là
sông Nile ở Ai Cập, sông Euphrates và sông Tigris ở Tây Á, sông Ấn (Indus) và sông Hằng
(Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của
những dòng sông lớn ấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều
kiện phát triển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước,
do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên những
nền văn minh vô cùng rực rỡ. Xã hội có giai cấp và nhà nước đã xuất hiện đầu tiên ở phương
Đông, trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Phi và châu Á. Ở đây có những điều kiện thiên
nhiên rất thuận lợi cho đời sống của con người. Những nơi này có nhiều đất canh tác, có mưa
đều đặn theo mùa, có khí hậu nóng ẩm (trừ Trung Quốc nhưng cũng không lạnh như ngày
nay), dân cư sống tập trung khá đông theo từng bộ lạc, trên các thềm đất cao gần sông, dễ
trồng vườn, trồng lúa và chăn nuôi. Khoảng 3500 năm đến 2000 năm TCN, cư dân ở Tây Á,
Ai Cập và cư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở ven các con sông.
Họ sống bằng nghê nông là chủ yếu và biết trồng mỗi năm hai vụ. Đồng bằng ven sông đã bù
đắp rất nhiều cho con người. Vào mùa mưa hàng năm, nước sông dâng cao, phủ lên các chân
ruộng thấp một lớp phù sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm, dễ làm với cả những chiếc cày
bằng gỗ. Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ phải lo đến
công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ thống gầu để múc nước ở chân
ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng cao những khi cần. Ngoài ra, họ còn biết đắp đê để
ngăn lũ nhờ thế con người có thể thu hoạch lúa ổn định hằng năm. Công việc trị thuỷ khiến
moi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổ chức công xã.
B. PHƯƠNG TÂY

Hy Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần biển từ đất
liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hy Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay
Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hy Lạp. Đất đai
Hy Lạp cổ đại bao gồm Hy Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và
phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng lục địa Hy Lạp ở phía Nam
Balkans. Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hy Lạp không phì
nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thực chính là
lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập. Địa hình Hy Lạp tương đối trở ngại về giao thông
đường bộ nhưng có sự thuận lợi tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có
nhiều cảng, vịnh, thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hy Lạp dễ dàng tới vùng
Tiểu Á, Bắc Hải để giao thương. Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hy Lạp sớm tiếp thu
những thành tựu của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hy Lạp
cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của văn
minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
Bên cạnh đó, nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp như
chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo Hy Lạp. Phía
Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bán đảo với lục địa châu
Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương
sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Khác với Hy Lạp, điều kiện tự nhiên
của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì
nhiêu: đồng bằng sông Pô (miền Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền Trung), các đồng bằng
trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển
nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ
dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.
Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hy Lạp và La Mã đã hình
thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư dân gốc du mục. Khác với các
quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ yếu được hìnhthành trên những khu vực gần
các con sông lớn, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình
thành và phát triển trên những khu vực điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp
hơn. Điều kiện tự nhiên đó tuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền
văn minh phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con đường giao
thương trên biển, hải cảng, tàu bè không chỉ tạo điều kiện phát triển trong mối quốc gia mà
còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang những thành tựu văn hóa, văn minh
phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là kinh tế
thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ
đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô
thời bấy giờ đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại.
Chính sự phát triển của chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với những
con đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng đã thúc đẩy quá trình bành
trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ đại: Hy Lạp và La Mã. Như vậy, điều
kiện tự nhiên của Hy Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở tạo ra nền văn minh phương
Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tự nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan
trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổ đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con
đường khác nhau: hòa bình hoặc chiến tranh.
II. Kinh tế:
I. Nông nghiệp:
A. PHƯƠNG ĐÔNG:

Nông nghiệp trồng lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu, là cơ sở kinh tế của tất cả các quốc gia
cổ đại phương Đông. Bên cạnh việc lấy nghề nông làm gốc, cư dân phương Đông thời cổ đã
biết chăn nuôi gia súc như: bò, cừu, lợn…, và biết trồng các loại ngũ cốc khác nhau như:
ngô, lúa mạch, kê, vừng và các loại cây ăn quả khác. Chính vì các nghành nông nghiệp phát
triển theo hướng tự túc, tự cấp như vậy nên kinh tế hàng hoá không phát triển, nhu cầu trao
đổi buôn bán hàng hoá ít. Lối sản xuất này của họ đã gần như bóp nghẹt kinh tế công thương
nghiệp và tạo ra sự trì trệ tương đối nhưng vì 3 trong 4 quốc gia cổ đại phương Đông nằm
biệt lập với thế giới bên ngoài nên nền kinh tế tự túc, tự cấp là phù hợp với điều kiện phát
triển của họ. Chỉ có Lưỡng Hà nằm ở nơi địa hình bằng phẳng nên phát triển hơi khác về
kinh tế họ phát triển công thương nghiệp và là một trung tâm thương nghiệp lớn trong thế
giới cổ đại họ có nhiều nét giống các quốc gia cổ đại phương Tây nhưng về bản chất họ vẫn
lấy nghề nông làm gốc điều này thể hiện rất rõ qua bộ luật Hammurabi bộ luật thành văn đầu
tiên của thế giới bộ luật này chủ yếu bảo vệ nông nghiệp và quan hệ sản xuất nông nghiệp.
B. PHƯƠNG TÂY:

Nền kinh tế nông nghiệp không phát triển như các quốc gia cổ đaị phương Đông. Nền nông
nghiệp của họ chủ yếu gắn với thị trường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Cây trồng chính
của họ không phải là cây lúa nước họ chủ yếu trồng lúa mì và các cây công nghiệp lâu năm
như nho, ô liu… Như vậy ta có thể thấy nền nông nghiệp của họ không chỉ để phục vụ nhu
cầu cá nhân mà còn phục vụ nhu cầu của thị trường. Từ đó ta có thể thấy rõ sự phát triển của
yếu tố thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là sự khác nhau cơ bản của sản xuất
nông nghiệp phương Đông và phương Tây.
II. Thủ công nghiệp:
A. PHƯƠNG ĐÔNG:

Họ đã biết làm nhiều nghề thủ công với những dấu ấn riêng ở mỗi quốc gia như: đồ gốm sứ ở
Trung Quốc, Lưỡng Hà, dệt ở Trung Quốc, làm giấy ở Ai Cập… nhưng kinh tế thủ công
nghiệp ở đây vẫn bị cho là nền kinh tế bổ trợ cho nông nghiệp. Vì vậy độ chuyên môn hoá
trong sản xuất thủ công nghiệp chưa cao. Ở nhiều nơi nghề thủ công chỉ được coi như “nghề
phụ” là việc làm thêm trong lúc nông nhàn. Điều này càng cho thấy rõ tính chất tự cấp, tự túc
trong nền nông nghiệp của các quốc gia cổ đại phương Đông.
B. PHƯƠNG TÂY:

Nền sản xuất thủ công nghiệp hoàn toàn khác các mặt hàng thủ công nổi tiếng của họ là rượu
nho dầu ô liu và các sản phẩm như vũ khí và đồ gỗ. Nền thủ công nghiệp của họ cũng gắn
liền với nhu cầu của thị trường. Nhưng cái khác biệt lớn nhất của họ so với các quốc gia
phương Đông là thủ công nghiệp của họ đã tách rời khỏi nông nghiệp để trở thành một nền
sản xuất độc lập. Đây là bước tiến lớn của họ, nhờ vậy mà năng xuất lao động tăng lên không
ngừng và cũng thể hiện nền thủ công nghiệp đã được chuyên môn hoá, đem lại năng xuất cao
hơn.
III. Thương nghiệp:
A. PHƯƠNG ĐÔNG:

Nền kinh tế của họ mang tính tự cấp, tự túc là chủ yếu nên nền thương nghiệp chưa phát
triển, buôn bán trao đổi chủ yếu dưới hình thức vật đổi lấy vật, tiền tệ đã xuất hiện nhưng
chưa phổ biến. Nước có nền kinh tế thương nghiệp phát triển nhất phương Đông là Lưỡng Hà
cổ đại.
B. PHƯƠNG TÂY:

Trong khi nền kinh tế thủ công nghiệp ở phương Đông không phát triển được do nền kinh tế
mang chất tự cấp, tự túc thì nền thương nghiệp ở phương Tây đã có sự phát triển mạnh mẽ
đặc biệt là giao thương bằng đường biển. Các thuyền buôn của họ đã nối liền 3 châu lục Á,
Phi, Âu và đem về vô số tài sản cho lái buôn.
III. Chính trị:

Sự khác nhau đầu tiên và rất rõ ràng giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia
cổ đại phương Tây là ở thể chế nhà nước, trong khi các quốc gia cổ đại phương Đông theo
chế độ tập quyền chuyên chế thì ở phương Tây thể chế nhà nước của họ là chế độ dân chủ
chủ nô. Đây là 2 hình thức nhà nước cơ bản mà dựa vào nó các quốc gia phong kiến, hiện đại
dùng để tổ chức bộ máy nhà nước. Ở các quốc gia phương Đông “vua có quyền lực tuyệt đối.
Tên của các ông vua được gọi theo cá cách khác nhau ở Ai Cập gọi vua là Pharaông, ở
Lưỡng Hà gọi là Patêxi hay Enxi… Vua được coi là con của thần hay thượng đế” nói chung
vua các quốc gia phương Đông có quyền lực vô hạn. Trái với các quốc gia phương Đông các
quốc gia phương Tây cổ đại theo chế độ dân chủ chủ nô. Hội đồng nhân dân giữ vai trò quyết
định, vua được chọn chỉ nhằm tổ chức nhà nước quyền lực của vua bị giới hạn bởi các cơ
quan như “viện nguyên lão”, “đại hội công dân”… hay thậm chí bởi một ông vua khác(chế
độ của thành bang Xpác). Sự khác nhau giữa các quốc gia phương Đông và phương Tây còn
ở thời điểm ra đời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương Đông là những nhà nước
đầu tiên của nhân loại theo một số tài liệu như “Lịch sử thế giới cổ trung đại” do Nghiêm
Đình Vỳ chủ biên hay “Lịch sử thế giới cổ đại” của Chiêm Tế thì các quốc gia cổ đại phương
Đông hình thành từ khoảng thiên niên kỉ IV – III TCN, tức là khi nhà nước của họ thành lập
thì con người còn đang ở thời kì đá- đồng và dĩ nhiên chưa có sự xuất hiện của công cụ bằng
sắt. “Thậm chí người Ai Cập mới chỉ biết đến công cụ bằng đá và gỗ”(Lịch sử thế giới cổ
trung đại). Trong khi đó các quốc gia cổ đại phương Tây bước vào quá trình hình thành nhà
nước muộn hơn nhiều theo một số tài liệu thì đó là vào khoảng thế kỉ VIII- VII TCN. Đây
cũng là sự khác nhau về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây.
Điểm khác nhau tiếp theo về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây
là: các quốc gia cổ đại phương Đông tồn tại một cách khá cách biệt với thế giới bên ngoài
nên họ tồn tại và phát triển một cách khá độc lập liên tục mà không chịu ảnh hưởng của nền
văn minh nào khác từ bên ngoài nếu bị xâm lược thì thường giành lại độc lập sau đó. Trong
khi đó chính trị, xã hội của các quốc gia cổ đại phương Tây chịu ảnh hưởng khá lớn từ các
lực lượng bên ngoài. Họ thường phải chịu những cuộc xâm lược của các bộ tộc khác tiêu
biểu là cuộc xâm lược của người German cuộc xâm lược này đã làm sụp đổ đế chế La Mã
đồng thời cũng chấm dứt lịch sử cổ đại châu Âu mở ra thời kì phong kiến.
Về mặt tổ chức nhà nước thì các quốc gia cổ đại phương Đông lãnh thổ của họ thường khá
rộng lớn và là một nhà nước thống nhất ví dụ như Ai Cập, Trung Quốc, Lưỡng Hà. Lịch sử
Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc cũng có một số thời kì bị chia cắt nhưng các vùng chia cắt
thường không khác nhau lắm về chính trị, xã hội, hơn nữa thì chúng thường được nhanh
chóng thống nhất trở lại. Nhưng ở các quốc gia cổ đại phương Tây đặc biệt là ở Hy Lạp cổ
đại, nhà nước của họ tồn tại dưới hình thức thành bang tức là trên lãnh thổ đó tồn tại nhiều
tiểu quốc nhỏ với chế độ tổ chức nhà nước khác nhau giữa các thành bang không có sự giống
nhau ví dụ: thành bang Athens là thành bang có hình thức hội đồng 500 và hội đồng công
dân đứng đầu là 10 nhà chiến lược kiệt xuất được bầu chọn, ở Xpác cũng có hội đồng nhân
dân nhưng chủ chốt lại là ở 2 vua và 5 quan giám sát. Ở Roma thời kì đế chế tuy lãnh thổ mở
rộng nhưng về bản chất vẫn không có sự quản lý chặt chẽ thành một khối như ở các quốc gia
cổ đại phương Đông.
IV. Xã hội:

Theo quy luật khách quan của lịch sử thì tiếp theo xã hội cổ đại sẽ là xã hội chiếm nô nhưng
do một số nguyên nhân về điều kiện tự nhiên và xã hội nên ở phương Đông tồn tại một cách
dai dẳng chế độ công xã nông thôn 1 hình thức tổ chức xã hội mà trong đó duy trì nền kinh tế
tự nhiên và nhiều tàn dư của công xã nguyên thuỷ. Vì vậy nên xã hội chiếm nô ở phương
Đông không phát triển đến mức thành thục, điển hình như ở các quốc gia phương Tây nơi số
lượng nô lệ đông gấp hàng chục lần chủ nô và bình dân.
Điều khác nhau tiếp theo giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây là về lực
lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. Ở các quốc gia phương Tây với nền kinh tế
thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, lực lượng chính làm ra của cải vật chất là
những người nô lệ, một thứ “công cụ biết nói”, còn ở các quốc gia cổ đại phương Đông với
nền kinh tế nông nghiệp phát triển thì vai trò này thuộc về những nông dân công xã. Lực
lượng lao động chính khác nhau cũng cho thấy sự khác nhau về bản chất xã hội giữa các
quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây.
Do sự khác biệt trong lực lượng sản xuất chính giữa xã hội cổ đại phương Đông và xã hội cổ
đại phương Tây nên mâu thuẫn xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây
cũng khác nhau. Ở xã hội cổ đại phương Đông dó là mâu thuẫn giữa 2 giai tầng chính là giai
cấp thống trị( vua, quan, quý tộc) và giai cấp bị trị( nông dân công xã, nô và thợ thủ công). Ở
các quốc gia cổ đại phương Tây thì có vẻ phức tạp hơn vì ngoài 2 giai cấp đối kháng là chủ
nô và nô lệ thì lại có thêm một tầng lớp không bóc lột ai nhưng cũng không bị ai bóc lột, họ
là những người dân tự do nghèo, Mác đã gọi họ là tầng lớp “vô sản ăn bám” họ sống nhờ vào
phúc lợi xã hội mà không cần phải lao động gì. Đó cũng là sự khác biệt giữa các quốc gia cổ
đại phương Đông và các quốc gia đại phương Tây.
Trong cơ cấu xã hội của các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây cũng có sự khác
nhau. Trong xã hội cổ đại phương Đông nông dân công xã chiếm phần lớn dân số trong khi
đó số lượng nô lệ của các quốc gia cổ đại phương Tây cao gấp hàng chục lần số lượng chủ nô
và bình dân.
Một đặc điểm khác của xã hội cổ đại phương Đông và phương Tây là: do hình thức thành
bang phát triển nên tỉ lệ dân thành thị của họ rất cao, thành thị là trung tâm của thành bang, là
nơi tập trung của cư dân. Trái lại ở các quốc gia phương Tây tỉ lệ dân nông thôn lại cao hơn
thành thị điều này nói lên sự khác biệt về kinh tế xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương
Đông và các quốc gia phương Tây cổ đại đồng thời nó cũng rất có ảnh hưởng với xã hội các
quốc gia này trong những giai đoạn phát triển sau.
V. Nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung quanh:

Đối với người phương Tây, ngay từ thời cổ đại, cách nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung
quanh đã thể hiện khá rõ lập trường triết học của họ dưới các hình thức thế giới quan khác
nhau, thậm chí đối lập nhau: có thế giới quan duy vật, có thế giới quan duy tâm, có thế giới
quan lạc quan, tích cực, có thế giới quan bi quan, tiêu cực…
Trong sự phát triển của các nước phương Tây từ xưa đến nay, những người có thế giới quan
duy vật, lạc quan tích cực (dù dưới các hình thức thô sơ, máy móc hay biện chứng…) thường
đại diện cho xu hướng tư duy tiến bộ, ủng hộ hoặc đồng hành với sự phát triển của khoa học.
Trái lại, những người có thế giới quan duy tâm, bi quan tiêu cực (dù dưới các hình thức chủ
quan, khách quan hay tôn giáo) thường đại diện cho xu hướng tư duy phản tiến bộ, không tin
hoặc cản trở sự phát triển của khoa học. Trong thói quen xem xét của người phương Tây, thế
giới chỉ có thể là đen hoặc trắng chứ không chấp nhận một thế giới đen – trắng lẫn lộn. Điều
đó lý giải tại sao người phương Tây lại coi trọng lối tư duy “duy lý” chứ không phải “duy
tình”.
Trái lại, đối với người phương Đông, do điều kiện sinh tồn có sự khác biệt so với các nước
phương Tây (tính khép kín trong sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp, mô hình kinh
tế – xã hội chủ yếu mang đặc điểm của phương thức sản xuất châu Á, chịu ảnh hưởng nặng
nề của chế độ phong kiến…), nên cách nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung quanh thường
phức tạp hơn. Trong nhận thức của người phương Đông, thế giới xung quanh không phải là
những mảnh ghép rời rạc nhau mà là một chỉnh thể có tính thống nhất giữa trời, đất và con
người. Chính vì thế, trong triết học phương Đông một số lý thuyết triết học, như lý thuyết về
“tam tài” (Trời – Đất – Người), lý thuyết “Thiên Nhân hợp nhất” (Trời với Người là một)
luôn được các nhà triết học qua các thời đại ở các nước phương Đông đề cao. Đây chính là
cơ sở quan trọng để hình thành nên thói quen đề cao văn hóa cộng đồng. Việc coi nhẹ văn
hóa cá nhân của người phương Đông cũng là một sự khác biệt căn bản giữa văn hóa phương
Đông với văn hóa phương Tây.
Trong quá trình hình thành nên thế giới quan của mình, người phương Đông ít chịu ảnh
hưởng bởi các khuynh hướng triết học cụ thể. Sự cạnh tranh của các học thuyết triết học ở
các nước phương Đông không gay gắt như ở các nước phương Tây. Đồng thời, cũng do nền
tảng phát triển của tri thức khoa học, đặc biệt là các tri thức về khoa học tự nhiên qua các
thời đại còn hạn chế, nên trong thế giới quan của người phương Đông, các yếu tố duy tâm,
duy vật, biện chứng và siêu hình thường đan xen lẫn lộn. Điều này cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến việc hình thành phương pháp luận trong văn hóa ứng xử của người phương Đông, trong
đó, những khía cạnh tích cực là tính linh hoạt, mềm dẻo,…; còn những khía cạnh tiêu cực là:
tính hữu khuynh, tính dễ thỏa hiệp trong việc thừa nhận chân lý…
VI. Phương thức tư duy và văn hóa ứng xử:
Có lẽ đây là một trong những điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất khi so sánh sự khác biệt giữa
văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển
tư duy của nhân loại, người ta thấy có sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau, trong phương thức
tư duy giữa phương Đông và phương Tây. Đối với người phương Đông, do đặc điểm về điều
kiện địa lý, phương thức sản xuất và lịch sử phát triển xã hội nên họ thường chú trọng và đề
cao phương thức tư duy trực giác (duy cảm). Đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy trực
giác (triết học) là “cách thức tư duy chú trọng đến sự cảm nhận hay thể nghiệm”. Về mặt đời
thường, phương thức tư duy trực giác thể hiện thành thói quen tư duy khi đứng trước đối
tượng nhận thức thường chỉ chú trọng tới yếu tố trực quan cảm tính, bề ngoài, mà ít đi sâu
nghiên cứu các chi tiết bên trong. Về phương diện văn hóa, do chịu ảnh hưởng bởi phương
thức tư duy trực giác nên trong cách suy nghĩ và ứng xử của người phương Đông trong cuộc
sống thường ngày thường mang tính trực quan, cảm tính, đề cao nhận thức kinh nghiệm (chủ
yếu là kinh nghiệm đời thường của cư dân nông nghiêp), coi nhẹ vai trò của tri thức lý luận,
tri thức khoa học. Đặc biệt trong cách ứng xử, người phương Đông thường theo lối “duy
tình”. Lối tư duy này cũng có những điểm tích cực, như đề cao tính cố kết cộng đồng; tính dễ
thân thiện; coi trọng các quan hệ thân tộc. Nhưng lối tư duy này tự nó cũng bộc lộ những hạn
chế, như sự cả tin (dễ tin do vẻ bề ngoài); sự nể nang (do tình thân, do quan hệ) mà làm mất
đi lý trí, sự sáng suốt trong đánh giá, nhận định; dễ tạo ra sự ồn ào, chạy theo vẻ bề ngoài; coi
trọng đạo đức hơn tài năng con người, coi trọng tình cảm hơn lý trí (một trăm cái lý không
bằng một tí cái tình).
Ngược lại với thói quen văn hóa dựa vào phương thức tư duy trực giác của phương Đông,
người phương Tây có thói quen văn hóa dựa vào phương thức tư duy duy giác. Tư duy duy
giác (hay tư duy duy lý) là phương thức tư duy chỉ chú trọng đến giai đoạn nhận thức lý tính,
là “lối tư duy độc lập chỉ thiên về lý trí, chỉ tin vào lý trí”.
Về mặt văn hóa, lối tư duy duy lý của người phương Tây cũng có những điểm tích cực trong
nhận thức cũng như hành vi ứng xử, thường phân minh rõ ràng, trắng ra trắng, đen ra đen và
không chấp nhận sự lẫn lộn giữa đen và trắng, tính thực tế trong nhận thức và hành động.
Tuy nhiên, bản thân phương thức tư duy đó cũng bộc lộ yếu tố hạn chế, như tính máy móc,
khả năng thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh bị hạn chế. Đặc biệt, người có tư duy duy
lý nếu chịu ảnh hưởng bởi mặt trái của chủ nghĩa thực dụng có thể tạo ra thói quen ứng xử
thực dụng một cách ích kỷ.
VII. Chủ thể văn hóa:

Do chịu ảnh hưởng bởi thói quen kinh nghiệm về lao động sản xuất của cộng đồng cư dân
nông nghiệp nên văn hóa ứng xử của người phương Đông thường coi trọng tính tập thể. Một
số lý thuyết triết học phương Đông cũng góp phần tạo cơ sở cho văn hóa ứng xử theo lối tập
thể của người phương Đông, như thuyết “Trung dung” của Nho giáo hay thuyết “Đại thừa”
trong kinh Phật. Đặc điểm của văn hóa tập thể của người phương Đông là lối nhận thức và
ứng xử thường dựa vào số đông. Trong văn hóa ứng xử tập thể thì vai trò của tập thể thường
được đề cao thay vì cá nhân; mỗi cá nhân muốn tồn tại trong cộng đồng phải tự biết khép
mình, hòa vào số đông thay vì muốn tách ra hoặc bộc lộ năng lực vượt trội của cá nhân trước
tập thể. Ưu điểm của dạng văn hóa này là có khả năng phát huy sức mạnh của cộng đồng
(một dạng dân chủ cơ sở mang tính sơ khai) nhưng tự nó cũng có những nhược điểm hạn chế,
như hạn chế sự phát triển của cá nhân, thiếu địa chỉ cụ thể để quy trách nhiệm về các sai lầm,
dễ bị cá nhân lợi dụng để lũng đoạn quyền lực…
Nếu chủ thể văn hóa ở phương Đông là tập thể, cộng đồng thì chủ thể văn hóa ở phương Tây
lại là cá nhân. Về phương diện triết học, chủ nghĩa cá nhân (individualism) là khuynh hướng
triết học đề cao, thậm chí tuyệt đối hóa vai trò vị trí và những lợi ích có liên quan đến cá
nhân với tư cách là một trong những bộ phận cấu thành nên cộng đồng hay xã hội. Những
người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ
phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của cá nhân – cho dù sự can thiệp đó là
của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do
vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận (neo full comment), chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa cộng
đồng, và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết nhấn mạnh đến việc công xã,
nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục
đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức
là đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý
ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân. Các khuynh hướng
triết học đề cao chủ nghĩa cá nhân xuất hiện từ khá sớm trong triết học phương Tây, nhưng
chỉ đến khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển ở các nước phương Tây thời kỳ cận đại
thì chủ nghĩa cá nhân mới chính thức được khẳng định cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Về mặt văn hóa, chủ nghĩa cá nhân với tính cách là một chủ thể văn hóa thường bộc lộ khả
năng nhận thức và hành vi ứng xử mang tính cá nhân, như nhấn mạnh đến sự độc lập của con
người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân
trong văn hóa tự nó cũng mang tính hạn chế, như việc đề cao vai trò của cá nhân thường dẫn
tới khuynh hướng cực đoan, tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân đơn lẻ, dung dưỡng cho tính
ích kỷ của cá nhân, hạ thấp vai trò của cộng đồng, của xã hội. Về mặt này, chủ nghĩa cá nhân
gần với chủ nghĩa vị kỷ (egoism). Chủ nghĩa cá nhân kết hợp với chủ nghĩa thực dụng làm
cho văn hóa cá nhân ở các nước phương Tây mang một màu sắc mới – văn hóa thực dụng,
một hình thức văn hóa khá điển hình trong văn hóa Mỹ hiện nay.
VIII. Tôn giáo và đức tin:

Về mặt lịch sử, các tôn giáo lớn trên thế giới xuất hiện lần đầu tiên vào những năm đầu Công
nguyên nhưng ý thức tôn giáo của nhân loại thì đã xuất hiện trước đó hàng nghìn năm cả ở
phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, theo thời gian, việc lựa chọn đức tin đối với các
tôn giáo giữa người phương Đông và phương Tây có khác nhau. Đa số các cộng đồng dân cư
các quốc gia phương Tây đều theo Thiên chúa giáo, nên trong ý thức về tôn giáo của họ đức
tin đối với đạo Thiên chúa có một vị trí và ý nghĩa rất lớn. Điều đó giải thích tại sao trong rất
nhiều sinh hoạt văn hóa và lễ hội của người phương Tây đều có liên quan đến đức tin đối với
đạo Thiên chúa và góp phần tạo ra bản sắc văn hóa riêng của họ. Ngược lại, đức tin tôn giáo
của cộng đồng dân cư phương Đông lại có vẻ phức tạp hơn. Do điều kiện lịch sử, địa lý và
chính trị khác nhau nên người phương Đông thường có đức tin về các tôn giáo khác nhau.
Ngoài đức tin về một số tôn giáo phổ biến như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo
hay Đạo giáo, người phương Đông còn có đức tin tôn giáo vào các hiện tượng tín ngưỡng và
văn hóa tâm linh khác. Do đó, so với đức tin tôn giáo của người phương Tây, sự hình thành
đức tin và các sinh hoạt văn hóa liên quan đến tôn giáo của người phương Đông cũng thường
đa dạng và phức tạp hơn. Chính vì thế, tại các quốc gia phương Đông không có ý thức tôn
giáo thuần nhất như ở phương Tây mà chỉ có các trung tâm sinh hoạt tôn giáo khác nhau góp
phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho từng vùng, miền trong khu vực.
IX. Nghệ thuật:
A. PHƯƠNG ĐÔNG:

Kiến trúc cổ của các nước phương Đông có đặc điểm là thường gắn với tôn giáo, người pđ
rất trọng tâm linh nên họ thường tập trung của cải, sức lực để xây dựng các đền tháp đồ sộ để
mời các vị thần về, cầu mong các thần phù hộ. Do đó, ở Phương Đông nhiều công trình mang
tính chất tôn giáo đã ra đời và dựng lên ở hầu khắp các nước một tấm thảm nghệ thuật vô
cùng đa dạng và huyền bí. Từ những tác phẩm nhỏ bé và tinh xảo tới những công trình khổng
lồ, vừa mang nét thiêng liêng phồn thịnh của nền mỹ thuật Ấn Độ lại có những tác phẩm
mang vẻ đẹp tinh vi óng chuốt của phong cách siêu quán Trung Hoa .Có thể nói, trong quá
trình phát triển văn minh, người Phương Đông nói chung và người Ai Cập cổ đại nói riêng đã
tạo ra những di sản văn hóa cực kỳ quý báu và đồsộ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kiến
trúc Ai Cập cổ đại đã đạt tới một trình độ rất cao. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các đền
đài tôn giáo với các cấu trúc khổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định bởi các bờ
tường dày và dốc với ít lỗ mở. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu và
đặc biệt là Kim tự tháp. Nói đến Ai Cập người ta nghĩ ngay đến những Kim tự tháp đứng
sừng sững giữa sa mạc mênh mông. Chúng như những tấm bia khổng lồ ghi lại một thời đại
huy hoàng trong lịch sử kiến trúc nhân loại, thể hiện được sức sáng tạo kỳ diệu của những
người xây dựng nên nó. Bằng bàn tay và khối óc của mình, người dân Ai Cập cổ đại đã để lại
cho nền văn minh nhân loại những giá trị nghệ thuật kiến trúc vô giá. Bên cạnh những giá trị
về mặt kiến trúc, Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng có nhiều thành tựu lớn, thành tựu đó
biểu hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu. độc đáo nhất trong lĩnh vực điêu khắc của Ai Cập cổ
đại là tượng Sphinx khổng lồ: gọi là nhân sư, là những bức tượng mình sư tử, đầu người hoặc
dê. Đây là một quái vật huyền thoại của người Ai Cập, thể hiện sức sáng tạo kỳ diệu của
người dân Ai cập cổ xưa.Ngoài những công trình lớn nêu trên, mỹ thuật Ai Cập Cổ đại còn
đạt tới trình độ hoàn hảo, trong các tranh tượng vừa và nhỏ, theo phong cách tả thực rất tinh
vi và đặc sắc trong đó kết hợp chặt chẽ giữa điêu khắc và hội họa . Các tác phẩm tiêu biểu
như : Tượng đá vôi màu ; Viên thư lại ngồi ,tượng gỗ Cheikh e Beled là tượng gỗ vào loai
đẹp và cổ nhất Ai Cập còn lưu lại đến ngày nay. Phù điêu đá vôi Tigrane Pacha . tượng đồng
Reine Karomama . Đặc biệt bức phù điêu tuyệt đẹp trên đá tô màu Seti I và Nữ Thần
HathorNằm ở khu vực Tây Á, Lưỡng Hà cổ đại thuộc vùng đất nằm trong lãnh thổ hai nước
Irắc vàCoóet ngàynay.Đất đai Lưỡng Hà được hai con sông Tigre và Euphrate bồi đắp phù sa
màu mỡ . Ở đây đã có một nền nghệ thuật phát triển rất cao, nhưng do điều kiện địa lý, họ đã
phải dùng nhiều vật liệu không bền như gạch không nung trong kiến trúc, nên nhiều công
trình bị động đất và thời gian tàn phá. Thời cổ đại, các công trình kiến trúc chủ yếu là tháp,
cung điện, đền miếu, thành, vườn hoa, . Nổi lên trên quần thể kiến trúc: thành, cung điện là
vườn treo Babilon.Toàn bộ vườn treo thực chất là một vườn hoa được tạo dựng trên không,
được xây dựng vào cuối thế kỷ VII, đầu thế kỷ VI (TCN). Đây là công trình kiến trúc, là
chứng tích cho một huyền thoại về tình yêu cuồng nhiệt của những vị vua, hoàng hậu, và
công chúa xinh đẹp xứ Mađi.Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu . Những tác phẩm
tương đối tiêu biểulà “ bia diều hâu” (2800 Tr.CN) được tạc để kỷ niệm chiến thắng của Vua
thành Lagash , bia Naram Sin ( khoảng 2700 Tr.CN , Bảo tàng Louwre) bia này làm bằngsa
thạch đỏ cao 2 mét nay còn nguyên vẹn , vốn là để kỉ niệm chiến thắng của vua Naram Sin .
các tượng Vua Goudea (2400Tr.CN) là đỉnh cao của nghệ thuật Sumer và Akkad với phong
cách dứt khoát và mạnh mẽ. Ngoài ra ta còn biết tài hoa của các nghệ sỹ qua Con dấu trục ,
“Cột đá naramxin”, “bia điều luật Hamourabi”, phù điêu Sư tử cái bị thương các tượng thần
Atxiri Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước
Đông Nam Á. ấn Độ là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng những tôn giáo du nhập vào nơi đây
vì vạy Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của
tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi
giáo.Trong đó, Đạo Hồi đươc nhắc tới trướctiên bởi vì Đạo Hồi không chỉ du nhập vào ấn Độ
mà nó còn dần trở thành quốc giáo của mảnh đất này. Vì vậy ở ấn Độ, những công trình kiến
trúc Hồi Giáo xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy,nguy nga, tráng lệ và trường tồn với dòng chảy
của thời gian cũng như trong niềm tự hào của những tín đồ Đạo Hồi. Đặc biệt, bên ngoài vẻ
đẹp hoành tráng của kiến trúc, thánh đường Hồi Giáo còn ẩn chứa nhiều nét đẹp văn hoá của
người Hồi Giáo, đó cũng là những giá trị tinh thần cao quý nhất.Có rất nhiều chùa tháp Phật
giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Từ một dải núi đá
khổng lồ, người Ấn Độ cổ đại đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với
tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinhtế trong từng chi tiết. Đây là dãy chùa được đục vào vách
núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m.
Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Tư tưởng Phật Giáo hòa
quyệnmột cách tự nhiên giữa thế giới thánh thần và đời sống con người. Trong 16 ngôi chùa
hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩm thạch, mô tả sinh
động những điển tích Phật giáo. Đó là những tác phẩm mỹ thuật vừa lộng lẫy vừa uy linh
Những chùa hang ở Ajanta do bàn tay con người tạo nên bằng đá và khổng lồ như núi lớn,
trong đó là cả một kho báu khổng lồ vô giá, không chỉ là nghệ thuật, mà còn là lịch sử, là dân
tộc học, là xã hội học, là tôn giáo học. Hội hoạ Trung quốc phát triển rất sớm, gắn với lối viết
thao hình vẽ “chữ tượng hình” . Từ cơ sở này , dẫn tới nguyên tắc “ thư hoạ đồng nguyên”,
và đẻ ra thư pháp ( viết chữ đẹp như vẽ ), đó cũng là kiểu “chơi tài hoa” trên nét bút .Bức hoạ
trên lụa đầu tiên tìm thấy vào thời Chu (1200-900 năm trước công lịch , tức là trước thời Hán
mất thế kỷ ), bức hoạ này thể hiện cuộc đấu tranh giữa thiện và ác đã được tìm thấy ở một
ngôi mộ cổ .Vẽ kỹ thuật biểu hiện : Hội hoạ Phương Tây rất phong phú về đề tài và chủ đề,
vì nó thiên về hiện thực . Ngay tranh tôn giáo cũng biết bao nhiêu cảnh : Chúa trời tạoAđam
– Êva .Ađam Êva phạm tội, Giêsu sinh ra trong máng cỏ , Ông Gioăng Batixita bị vua
Hêrôđơ Ăngtipát sai người chém đầu đặt lên đĩa,v.v Hội hoạ Trung Hoa truyền thống khác
hẳn , đề tài và chủ đề rất chung, trừu tượng, ước lệ; hướng tới một phẩm chất , chứ không
phải một hiện tượng , một vấn đề . Vì thế, tranh Trung quốc đều hướng tới sự giản dị, bình
thản , tao nhã ,trang trọng, thanh tú , thuần hậu v.v Nói chung họ mượn cảnh để nói tình, vì
thế không quá câu nệ vào các chi tiết, hoặc các biến cố khách quan . Đặc điểm trên đã chi
phối cả hình hoạ lẫn lối sử dụng màu sắc và ánh sáng, bố cục .Rõ ràng , tranh Trung hoa
không vẽ cái đang chuyển động trước mắt . Trong số muôn vàn sự vật đang biến đổi, hoạ sỹ
Trung hoa chỉ muốn thâu lấy một vài trạng thái vĩnh cửu, một đặc điểm cơ bản của hiện
tượng để người xem có thể mở tâm hồn mà đưa mình vào cõi mộng . Cũng có hoạ sỹ vẽ tỉ mỉ
từng cảnh vật , tỉa tót rất kỹ từng bụi cây, cành lá “ Thực” để nói cái “Hư”, vẫn không ngoài
dụng ý dắt dẫn người xem dò lần từng bước, vượt suối, băng đèo, cheo leo bên sườn núi lên
tít trên cao, ẩn mình nơi chùa cổ, hoà mình vào tận cảnh sơn lâm, thuỷ tận .Với lối vẽ như
vậy , thì cái nhìn của hội hoạ Trung Hoa đã không bị lệ thuộc vào luật viễn cận , mà bố cục
theo phép “ lên cao, thấy xa” , “ lấy lớn , thấy nhỏ”, Người ta còn gọi lối bố cục này là lối “
bố cục theo cảm nhận trực giác”.
B. PHƯƠNG TÂY:

Nếu như đối với Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, nghệ thuật thể hiện cái đẹp rất đặc trưng của
văn hóa Phương Đông thì khi nghiên cứu về nghệ thuật Phương Tây cổ đại, trừ giai đoạn đầu
có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phương Đông, người học không khỏi ngạc nhiên trước
những nét đẹp mang đậm màu sắc Tôn giáo của Phương Tây, nét đẹp đó thể hiện qua ba mặt
chủ yếu là kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ.
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ và để lại
dấu ấn sâu sắc hơn cả. Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gian đầu chịu ảnh hưởng
của trường phái nghệ thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuật tạo hình và điêu khắc đạt đến
đỉnh cao là ở thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ V đến thế kỷ IV trước Công nguyên). Nhiều công
trình được sáng tạo bởi Polygnotus, Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và
Marsyas (tại Vườn Bách thảo của Copenhagen) được sáng tác bởi Myron. Kiến trúc và điêu
khắc Hy Lạp cổ thường đi song hành bên nhau, những giá trị lớn tập trung tại các công trình
kiến trúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại sảnh là hình ảnh
thường gặp ở Athena. Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã có tác dụng
kinh điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều quốc gia từ cổ đại cho
đến ngày nay.Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng
ngwờiHy Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng biệt
của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực kiến trúc, người
Hy Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.Công trình kiến trúc đẹp
nhất của Hy Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt tác về kiến trúc và là biểu tượng của
kiến trúc Hy Lạp cổ. Người xây dựng nên công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự
hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phidias.Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung
quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình trònđược chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng
của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn
suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.Trong nghệ thuật kiến trúc của Hy Lạp,
người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hy Lạp
tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến
cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu
trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột
cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy Lạp được
xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens,
trong đó có đền Pathernon. Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát
triển mang tính chất riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh
hưởng nhất định của nghệ thuật Hy Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công trình
mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội. Kiến trúc La Mã mang
tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những công trình kiến trúc, người La Mã
chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường
xung quanh. Những đường nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng
các công trình đơn điệu, nặng nề nhưng vững chắc.Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và
nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ
Pantheon.Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế
chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi 524m, bao
gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán hiện nay, đấu trường
chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. Do sự hủy hoại cuả thiên nhiên và con người,
công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.Caracalla là một công trình nhà tắm công
cộng được hoàn thành dưới thời hoàng đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến
14.000 hecta. Đây không chỉ đơn thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với
các thư viện và phòng đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng
ăn, phòng trưng bày nghệ thuật Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự
văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã. Đền Pantheon được xây dựng dưới thời
hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại sau hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào
thời hoàng đế Hadrian (117-138) sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.
Cùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ
thuật điêu khắc Hy Lạp cũng được xem là những giá trị có một không haitrong nền nghệ
thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hy Lạp là Praxitelevà Scopas ở thế kỉ IV
TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite (thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu
mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày
nay, với một nền nghệ thuật hiện đại, chưa có nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình
độ nghệ thuật của người Hy Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus ở Olympia, một trong 7 kì quan
của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hy Lạp là Phidias.Ngoài ra, tượng
nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là những tác phẩm tuyệt vời thể
hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp cổ đại.Về hội họa người Hy Lạp
cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm hiện nay không còn được lưu giữ. Theo
nghiên cứu, những họa sĩ Hy Lạp là người đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ xa gần
của các nhân vật trong tranh. Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người
La Mã phỏng theo họa mà ra. Điêu khắc La mã: Nghệ thuật vốn thiên về tự do, nhưng ở La
mã cổ đại , quyền lựcđã tạo ra nghệ thuật . Nghệ thuật chân dung La mã chủ yếu tạc tượng
các Hoàng đếđầu tiên của La mã, tay trái cầm cây trượng (tượng trưng cho quyền uy) tay
phải giơ cao lên phía trước như đang hiệu triệu. Phía dưới chân trái hoàng đế có nhóm tượng
nhỏ“ tiểu thần Amua cười cá Đôphin” như muốn nhắc nhở mọi người rằng ,Hoàng đế
Ôguýttơ có nguồn gốc thánh thần .Mặc dù không được điêu luyện bằng điêu khắc Hy Lạp,
nhưng điêu khắc La mã lại độc đáo ở chỗ rất hiện thực , “ Tả chân” , nó còn khắc hoạ được
tính cách nhân vật . Tượng bán thân của Caracala lột tả được vẻ nham hiểm của tên bạo
chúa .Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các công trình kiến trúc cổ xưa không còn là của
thần thánh, không còn tượng trưng cho vua chúa, mà là hiện thân của sức lao động và trí sáng
tạo vĩ đại của con người.
X. Triết học:

Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế
bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế
kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại
và ở các nước khác.Theo quan điểm của mác xít triết học là một hình thái ý thức xã hội, là
học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người
đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Như vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và đặc biệt
sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa
lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất của phương Đông là phương thức sản xuất
nhỏ còn phương Tây là phương thức sản xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng
khác: văn hoá phương Đông mang nặng tính chất cộng đồng còn phương Tây mang tính cá
thể.Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn được thể hiện cụ thể
như sau:Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp
nhất”. Cụ thể là:Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất,
hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là những khotàng
tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trunghoa về tự
nhiên, xã hội và quan hệ con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ
trong hệ thống lớn . trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng
chứa đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta
thấy hình thành ra các khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng
vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con
người. Ông đưa ra quanđiểm “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực,
thì có cái thúvui nào lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới
kháchquan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông
chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn.
Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh
hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết
đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương
Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là kết
quả của quá trình khái quátnhững kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung hoa thời
cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính
chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội
nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự
phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng
trong tự nhiên cũng như trong xã hội.Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình
thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới
quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự
nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc
“thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như: Xu hướng chính của Upanishad lànhằm
biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối
cao” sángtạo và chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất, là căn
nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và
có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của
thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại
vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết.
Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ
xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là
cái có thể mô hình hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người
mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của “tinh thần tối
cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống trần tục, nên ý
thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác với
nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.Vậy nên kinh Vêđa nối con người
với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình
thức bên ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá nhân
với vũ trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con
người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế
giới khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn đến hướng
nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau: Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ
sở quyết định nhiều đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm đối
tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm
rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược
lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại;
còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương
Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng quan niệm khác
phương Tây: Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với
người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt
đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người
không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, khôngthấy quan hệ giữa
người với người trong lao động sản xuất Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của
con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về
mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con
người.Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuýmà
thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗdựa và điều
kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc
lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết
học Trung hoa đan xen với chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ
thuật. Nói chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.Ở
phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc lập với cácmôn khoa
học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển
hình: khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của
giáo hội.Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có
tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn độ, cũng
như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ
thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế kỷ 19).Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự
phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho
vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó ví như
Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến thành tam cương ngũ thường,
đời Tống biến thành chữ Lý .Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn
khổ ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hớn là
vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không
mâu thuẫn với các học thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn
toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt.
Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài vàbảo thủ, kết cấu kinh tế, giai
cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt.
Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra
đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét, Hêraclit đến
Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức . Và hơn
nữa cuộc đấutranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn. Thứ tư, sự
phân chia trường phái triết học cũng khác: Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố
duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi
sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật,
hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của
triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương
Tây.Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơnvà các hình
thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vậtsiêu hình rồi đến duy
vật biện chứng.Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với
triết học phương Tây ở 3 mảng:- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự
nhiên”, “bản thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc,
hình, vạn pháp, . hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ . Để nói về bản chất của vũ trụ
đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù
khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn
phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình thần là
những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới:
phương Tây dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy
cái đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch,
vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông
triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.- Khi diễn đạt
về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên
hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”,
cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhấtnên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính
quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi . Có nhịp điệu là hài hoà âm
dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc . Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học
phương Đông và phương Tây đều nhằmgiải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương
Tây nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có
liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai
phương pháp tư duy khác nhau.Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất
định – tư duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn
phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với những cấu cách ngôn,
ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được, nó gói được cả cái ngẫu
nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.( .)Triết học Hy Lạp-La Mã
cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc, nối những bến bờ triết học sau này. Đến
nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại mangđến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó.
Triết học Hy Lạp cổ đại chia làm ba thời kỳ. Thời ky tiền Socrate, thời kỳ Socrate là thời kỳ
cực thịnh, thời kỳ hậu Socrate. Trong giai đoạn này có rất nhiều triết gia nổi bậc như: Thales,
Anaximandre, Heraclite, Pythagore, Xenophane, Parmenide, Zenon, Anaxagore, Empedocle,
Democrite, Socrate, Platon, Aristote Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây
nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay.Hy lạp là một trong những cái nôi của
nền văn minh nhân loại thời cổđại, là thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy lạp
cổ đại không chỉlà một trung tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá.Triết học
thời kì này được đánh giá là rất phát triển, vớinhững cái tên hết sức nổi tiếng : Acsimet,
Talet, Hêraclit, Đêmocrit, Platôn,Arixtốt. Chính các đại biểu này đã tạo lên một nền triết học
phát triển rực rỡmà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng.

You might also like