You are on page 1of 12

- Các quốc gia cổ đại phương Tây được hình thành chủ yếu ở khu vực vùng ven

biển địa Trung hải, đây là nơi


có điều kiện đất đai khô cằn và tại đây cũng rất khó cho hoạt động canh tác, phát triển nông nghiệp, nhưng khu
vực vùng ven biển địa Trung hải thì lại thuận lợi cho quá trình phát triển hải cảng, thương nghiệp.

Về thể chế chính trị thì các quốc gia cổ đại phương Tây chủ yếu xây dựng theo nền dân chủ chủ nô hoặc công
hòa quý tộc, đế chế. Xã hội của các quốc gia cổ đại phương Tây sẽ được chia ra làm 2 giai cấp chính đó là:

– Thứ nhất: Chủ nô: đây là những chủ xưởng, chủ buôn,… và những đối tượng này sẽ nắm giữ rất nhiều của cải
nên họ rất giàu có, có cuộc sống sung túc và chủ nô nắm trong tay nhiều quyền lực, họ bóc lột nô lệ rất nặng nề
và các chủ nô cũng sở hữu nhiều nô lệ.

– Thứ hai: Nô lệ: đây cũng là thành phần chiếm số đông trong xã hội các quốc gia cổ đại phương Tây, nô nệ
chính là lực lượng lao động chính nhưng lại các đối tượng này lại không được hưởng bất cứ quyền lợi nào và họ
sẽ phải chịu sự bóc lột nặng nề của chủ nô, hay còn được gọi là vật sở hữu của chủ nô.

Về kinh tế của các quốc gia cổ đại phương Tây thì do địa hình tư nhiên không mấy thuận lợi cho việc canh tác
nông nghiệp nên chỉ tập trung vào phát triển thủ công nghiệp và thương nghiệp.

 Bảng so sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây:

Bảng so sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây:
Nội dung so sánh Các quốc gia cổ đại Phương Đông Các quốc gia cổ đại Phương Tây
– Bởi vì các quốc gia cổ đại phương
Đông được hình thành trên lưu vực các
con sông lớn nên các quốc gia này có
điều kiện đồng bằng phù sa màu mỡ,
– Các quốc gia cổ đại phương Tây có đường bờ
tơi xốp, thuận lợi cho việc phát triển
biển kéo dài, nhiều vũng vịnh sâu và kín gió,
nông nghiệp
thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường
Điều kiện tự
biển.
nhiên – Với nguồn nước vô cùng dồi dào, tạo
điều kiện quan trọng trong việc cung
– Đất đai tại các quốc gia cổ đại phương Tây
cấp nước cho hoạt động sản xuất và
thích hợp để trồng các loại cây như nho, ôliu,…
nước dùng trong sinh hoạt, bên cạnh
đó thì cũng sẽ cung cấp nước cho
nguồn thủy sản, và đây cũng là đường
giao thông quan trọng của đất nước
– Các quốc gia cổ đại phương Tây có nền kinh
Các quốc gia cổ đại phương Đông có
tế công thương, mậu dịch hàng hải phát triển,
nền kinh tế nông nghiệp được chú
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Kinh tế trọng và rất phát triển, đồng thời
cũng có sự gắn liền với công tác thủy
– Ngành nông nghiệp chỉ được xác định là thứ
lợi.
yếu đối với các quốc gia cổ đại phương Tây.
Các quốc gia cổ đại phương Đông
Bộ máy nhà nước của các quốc gia cổ đại
Chế độ theo chế độ chuyên chế cổ đại hay
phương Tây 100% là quý tộc, đất nước mang
chính trị nhà nước quân chủ chuyên chế trung
tính dân chủ chủ nô hay cộng hòa quý tộc.
ương tập quyền.
Xã hội Xã hội các quốc gia cổ đại phương Các quốc gia cổ đại phương Tây có hai giai cấp
Đông tồn tại hai giai cấp chính là:

– Giai cấp thống trị, gồm vua, quý


cơ bản và luôn tồn tại mối quan hệ đối kháng
tộc, quan lại.
nhau là: Chủ nô và nô lệ
– Giai cấp bị trị, là nông dân, nô lệ,
thợ thủ công và nhiều đối tượng khác.
Thành tựu văn hoá của các quốc gia cổ đại
Thành tựu văn hoá của các quốc gia
phương Tây:
cổ đại phương Đông:
– Sáng tạo ra lịch.
– Sáng tạo ra nông lịch.
– Hệ chữ cái Latinh;
Thành tựu – Chữ viết tượng hình, tượng ý
văn hóa
– Số La Mã;
– Phát minh và nghiên cứu ra toán
học (số pi, diện tích hình tròn…)
– Toán học với các định lý Pitago, Ta lét…
– Kiến trúc nổi trội: Kim tự tháp (Ai
– Nghệ thuật: Tượng nữ thần Atena, đấu trường
Cập), thành Babilon (Lưỡng Hà).
Roma…

Ta nhận thấy, khi so với thời kì trước thì đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của con người ở giai đoạn
này về cơ bản cũng đã được cải thiện, tiến bộ hơn. Những hiểu biết khoa học đã có từ hàng nghìn năm trước từ
thời cổ đại phương Đông, đến thời kì các nước cổ đại phương Tây thì những hiểu biết đó đã trở thành khoa học.
Cho đến hiện nay, ta thấy rằng, những thành tựu văn hóa của các quốc gia phương Đông và phương Tây vẫn
còn tồn tại, được áp dụng trong thực tế cuộc sống và đã đem đến nhiều ý nghĩa to lớn cho đời sống con người.

Từ bảng so sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây, ta nhận thấy,  văn hóa cổ đại phương
tây phát triển hơn văn hóa cổ đại phương đông bởi những nguyên nhân sau đây:

– Văn hóa cổ đại phương tây phát triển hơn văn hóa cổ đại phương đông bởi thời gian hình thành: nền văn hóa
cổ đại phương tây ra đời muộn hơn các quốc gia cổ đại phương Đông, do đó văn hóa cổ đại phương Tây đã tiếp
thu, kế thừa nền văn minh của các quốc gia cổ đại phương Đông.

– Văn hóa cổ đại phương tây phát triển hơn văn hóa cổ đại phương đông bởi điều kiện tự nhiên: cầu nối giao
lưu giữa các vùng, tiếp xúc với biển đã mở ra cho họ một chân trời mới, các chủ thể trong nền văn hóa cổ đại
phương Tây có điều kiện giao lưu tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên thế giới.

– Sự phát triển cao hơn về mặt kinh tế, chính trị xã hội: cơ sở kỹ thuật, đồ sắt, kinh tế công thương nghiệp và
hàng hải; vai trò của tầng lớp tri thức trong xã hội.

– Thể chế dân chủ chủ nô của văn hóa cổ đại phương Tây cũng góp phần tạo điều kiện cho con người tự do phát
huy tài năng sáng tạo của mình.

Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Tây


 Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Tây xuất hiện trên bán đảo Bancăng và Italia, vào đầu thiên niên kỉ
thứ I TCN, 2 quốc gia cổ đại là Hy Lạp và Rôma được hình thành.
 Đây là vùng đất không thích hợp cho việc trồng lúa. Các loại cây khác được đưa vào trồng như nho, ô liu… Các
ngành nghề khác như thương nghiệp, ngoại thương, làm đồ gốm, nấu rượu nho… ngày một phát triển đem lại
sự giàu có cho cư dân tại đây.

Xã hội ở các quốc gia cổ đại phương Tây Hi Lạp, Ro-ma


Xã hội tồn tại dưới hình thức dân chủ cộng hòa. Nhà nước do dân tự do và tầng lớp quý tộc bầu ra. Dưới sự phát
triển về kinh tế, xã hội dần dần hình thành sự phân hóa giai cấp giàu nghèo. Xã hội ở các quốc gia cổ đại
phương Tây Hi Lap Ro-ma gồm 2 giai cấp chính:
 Giai cấp chủ nô: do nắm giữ nhiều của cải nên rất giàu có, cuộc sống sung túc và nắm trong tay nhiều quyền
lực. Họ bóc lột nô lệ rất nặng nề. Họ sở hữu rất nhiều nô lệ.
 Nô lệ: như đã nói ở trên đây là giai cấp chịu sự bóc lột nặng nề của chủ nô. Họ phải lao động rất cực khổ, là lực
lượng lao động chính trong xã hội không có chút quyền lợi nào. Nếu không nghe lời sẽ bị đánh tới tới bất cứ lúc
nào.  Đặc biệt, họ là vật sở hữu riêng của chủ nô.
 Xã hội cổ đại ở Hy Lạp và Roma gọi là xã hội chiếm hữu nô lệ.
Do đó, dưới sự áp bức nặng nề, nô lệ đã vùng lên phản kháng vào năm 71-73 TCN đứng đầu là Xpac – ta – cut.

Văn hóa của các quốc gia cổ đại phương Tây


Nền văn hóa của các quốc gia cđ phương Tây được thể hiện qua các thành tựu về lịch, chữ viết, khoa học, văn
học và nghệ thuật.
Lịch và chữ viết
 Ngay từ thời cổ đại, người ta đã rất quan tâm đến thế giới bên ngoài (Trái đất và hệ mặt trời). Sự hiểu biết về
trái đất và hệ mặt trời đó đã giúp người Rooma lập được lịch với 365 ngày và ¼ ngày/năm. Một tháng có 30
hoặc 31 ngày, đặc biệt tháng 2 chỉ có 28 ngày. Những kiến thức về lịch từ xa xưa khá giống với lịch hiện nay.
 Chữ viết sáng tạo ban đầu là dạng ký hiệu. Chúng được ghép vào với nhau để tạo thành những ý nghĩa nhất
định. Về sau, bảng chữ cái ra đời dưới dạng chữ cái A, B, C như hiện nay. Lúc đầu, bảng chữ cái gồm 20 chữ về
sau tăng lên 26 chữ. Những phát minh chữ viết này ảnh hưởng rất nhiều đến nền văn hóa chữ viết về sau.
Khoa học
 Khoa học thật sự chính xác và đạt được khả năng khái quát thành các định lý, định luật khi đến thời Hy Lạp,
Rôma. Tiêu biểu trong thời kì này là các nhà toán học lỗi lạc: Ta -lét, Pitago, Ơ-clit.
Văn học
 Nhắc tới văn học các quốc gia cổ đại phương Tây trong đó có  Hy Lạp, người ta nghĩ đến một nền kịch đặc
sắc với nhiều nhà viết kịch nổi tiếng.
 Rô-ma đã thừa kế những thành tựu của văn học, nghệ thuật Hy Lạp và phát triển thêm nó. Nổi tiếng thời kì này
là nhà thơ Lu-cre-xơ, Viếc-gin…
Nghệ thuật
 Kiến trúc, điêu khắc tại Hy Lạp đạt đến trình độ hoàn mỹ. Những bức tượng hay đền đài như người lực sĩ ném
đĩa, tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, thần Vệ nữ Mi-lô, đền Pactenong, đấu trường Coolide… nổi tiếng
cho đến tận ngày nay.

Đánh giá ý nghĩa của các thành tựu văn hóa lớn thời cổ đại
Sự hình thành và văn hóa của các quốc gia cổ đại phương Đông cũng như phương Tây đã cho thấy ý nghĩa:
 Thể hiện rõ nét sự sáng tạo từ những ngày đầu bình minh của lịch sử.
 Những thành tự lớn của thời cổ đại đã làm cơ sở cho sự phát triển ngày nay, đặc biệt về khoa học và nghệ thuật.
 Những thành tựu ấy còn cho thấy khả năng vĩ đại của con người
Cáo Renard

Cáo Renard (viết theo kiểu cổ là Renart, phiên âm tiếng Việt là Rơ-na) là một nhân vật hết sức quen thuộc trong
văn học dân gian châu Âu, từ trẻ em đến người lớn ai ai cũng biết. Bản thân từ “Renard”, ngày xưa là tên riêng
của một con cáo cụ thể trong văn học, ngày nay đã trở thành danh từ chung ở Pháp với nghĩa là “cáo”.

Có rất nhiều mẩu chuyện về cáo Renard của các tác giả khuyết danh được lưu truyền từ thời Trung cổ và được
tập hợp lại thành tiểu thuyết dưói dạng thơ từ thế kỷ XII-XIII, vói tổng cộng đến 80 nghìn câu thơ, chia thành
30 truyện nhỏ. Các nhà văn sau đó có viết lại nhiều lần, tạo nên nhiều phiên bản khác nhau, trong đó có phiên
bản “Reineker Fuchs” của đại thi hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe xuất bản năm 1794.

Tristan và Iseult (tiếng Pháp: Tristan et Iseut, tiếng Đức: Tristan und Isolde, tiếng Việt: Tiểu-nhiên và


Mị-cơ) là nhan đề do hậu thế đặt cho một truyền kì xuất hiện tại Tây Âu chừng thế kỉ 12.[1]

Huyền thoại này được coi là tiên khởi cho dòng văn học lãng mạn từ trung đại về sau.

Huyền thoại Tristan và Iseult cho tới nay đã qua không ít biến đổi nhờ sự bổ khuyết của rất nhiều tác giả
cả hữu danh và vô danh, nhưng nhìn chung, cấu trúc vẫn được giữ nguyên.

Guenièvre và Lancelot[sửa | sửa mã nguồn]

Kị sĩ Lancelot nghe đồn vua Arthur tuyển kị nhân gia nhập Đoàn Trác huynh đệ đặng đi tìm Thánh
Tước, bèn lặn lội từ Đông Francia sang Camelot dự hội đấu thương. Ông vô tình gặp vương
hậu Guenièvre từ cửa sổ tháp cao ngó xuống, đem lòng mê, mới xin bà tặng chiếc khăn để quấn vào võ
khí làm lưu niệm. Theo truyền thống, bà bèn chúc phước cho ông gặp hạnh vận. Tại hội thi, Lancelot lần
lượt đả bại nhiều kị sĩ trứ danh hơn và chiếm ngôi quán quân, vì vậy, ông càng ngưỡng mộ Guenièvre.
Tuy nhiên, vua Arthur tỏ ra mến tài ông và trao quyền cai trị lâu đài Camelot trong thời gian ngài chinh
phục Thánh Tước.

Mười năm, rồi hai mươi năm, Đoàn Trác huynh đệ vẫn mải miết viễn chinh. Vương hậu Guenièvre ở lâu
đài vò võ ngóng phu quân, dần ngã vào lòng Lancelot hào hoa phong nhã. Cuộc tư tình này bị phù
thủy Merlin phát giác, nhưng ông tìm cách ém nhẹm. Tuy vậy, tin đồn mỗi lúc một lớn lên và trở thành
mối họa khiến cả Guenièvre và Lancelot đều âu lo. Đồng thời, vợ Lancelot là Elaine vì đau khổ trước tin
chồng ngoại tình mà chết, để lại đứa con dại Galahad.

Ngày vua Arthur trở về sau sứ mạng thất bại, dân chúng đập cửa đòi đem Guenièvre và Lancelot ra phán
xét. Trước áp lực của đám đông hung hãn, vua đành cho lập giàn hỏa rồi trói vương hậu vào cột. Tuy
nhiên, ngài ngầm sai thuộc hạ thả Lancelot khỏi ngục, lại nhờ thầy Merlin hô phong hoán vũ. Giữa đám
đông nhớn nhác chạy bão, Lancelot cướp Guenièvre đem đi biệt tích. Galahad sau khi trưởng thành cùng
cậu là Perceval tìm được Thánh Tước, cả hai đều hóa thánh. Còn vua Arthur bị đứa con rơi Mordred giết
trong trận Camlann.

Tristan và Iseult[sửa | sửa mã nguồn]

 Tristan gặp Iseult

Vua Marc xứ Cornouaille quyết định liên hôn với vương thất Éire để củng cố thế lực ở mạn Tây quần
đảo Anh. Ngài bèn phái một người cháu là Tristan dong thuyền sang xứ Éire hộ tống vị hôn thê là công
chúa Iseult về Cornouaille.
Ở đất Éire, trước khi khởi hành, vương hậu giúi vào tay Iseult lọ nước thần, bảo rằng, hãy chờ đêm tân
hôn cho vua Marc uống thì ngài sẽ yêu nàng tha thiết tới cuối đời. Nhưng trong lúc sơ ý, Tristan uống
nhầm lọ thuốc, tự đấy đem lòng yêu Iseult.

 Tristan rời Iseult

Vì không kềm lòng được, Tristan toan rủ Iseult chạy trốn, song vua Marc chia quân đi tìm rồi bắt được
họ đang lẩn trong rừng. Khi thấy cả hai dù yêu nhau nhưng vẫn giữ chừng mực, ngài tha chết cho
Tristan và yêu cầu chàng rời quần đảo Anh.

Tristan phải sang Francia kết hôn tiểu thơ Isolde, ái nữ một công tước đầy quyền thế tại đại lục, cũng bởi
cái danh ấy gần giống người tình cũ. Nhưng vì quá nặng lòng với Iseult, Tristan sinh quẫn mà trở bệnh,
không thuốc nào trị nổi.

 Tristan tìm Iseult

Trong cơn đau khổ, Tristan viết thư xin Iseult tìm cách tới gặp mình lần cuối, vua Marc nhận được thư
nhưng ngó lơ. Tristan vì bị bệnh nên không thể tự đi lại được nữa, ông bèn nhờ vợ ra cảng ngóng tin, lại
dặn: Hễ thuyền Cornouaille buồm trắng là có Iseult, còn buồm đen là Iseult không tới.

Isolde vâng phục chồng, cũng ra bến và nhác thấy màu buồm trắng, nhưng vì ghen tương nên về nói
ngược sự thật. Chẳng ngờ Tristan tuyệt vọng mà tắt thở vĩnh viễn. Khi Iseult tới thì đã quá trễ, bèn phẫn
uất mà chết; còn Isolde hối hận cũng tự vẫn.

Về sau, vua Marc cho chôn Tristan và Iseult chung mồ. Lạ thay, từ trong ấy mọc ra hai cái cây, dây leo
cứ xoắn xuýt vào nhau không sao gỡ được.

Thần khúc (tiếng Ý: Divina Commedia [diˈviːna komˈmɛːdja], nghĩa đen: "Vở kịch Thần thánh") là
một trường ca của nhà thơ Ý thời Trung cổ Dante Alighieri (1265-1321), là một trong số những nhà
thơ kiệt xuất nhất của nước Ý và thế giới. Tác phẩm được sáng tác trong thời gian Dante bị trục xuất
khỏi quê hương Florence, từ khoảng năm 1308 đến 1320, một năm trước khi ông mất vào năm 1321,
được chia làm ba phần: Hỏa ngục (Inferno), Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso). Tác
phẩm được xếp vào hàng những bản trường ca ưu việt của nền văn học Ý [1] và vĩ đại nhất của thế giới[2].
Sức tưởng tượng và tính ẩn dụ về hình ảnh thế giới bên kia trong thế giới quan Thiên chúa giáo là đỉnh
điểm sự phát triển nhãn quan về thế giới của Nhà thờ Thiên chúa giáo Tây Âu. Tác phẩm này cũng góp
phần vào sự phát triển của thổ âm vùng Tuscany, trong vở kịch được sử dụng như ngôn ngữ Ý tiêu
chuẩn[3].

Ở bề ngoài, tác phẩm kể lại chuyến đi của Dante qua Hoả ngục (Inferno), Luyện ngục (Purgatorio)
và Thiên đường (Paradiso);[4] nhưng ở một tầng sâu hơn, nó đại diện, một cách ngụ ngôn hoá, hành trình
của linh hồn hướng về Thiên Chúa.[5] Ở tầng nghĩa này, Dante được khắc hoạ dựa trên thần học và triết
học Thiên Chúa giáo thời trung cổ, nổi bật trong đó là Triết học Thomas và Summa
Theologica của Thomas Aquinas.[6] Do đó, Thần khúc cũng được gọi là "phiên bản theo chương hồi
của Summa" (""the Summa in verse"").[7]

Tác phẩm ban đầu chỉ được đặt tên đơn giản là Comedìa, và từ Divina được thêm vào bởi Giovanni
Boccaccio. Bản in đầu tiên được thêm từ divina vào tiêu đề là bản của triết gia chủ nghĩa nhân văn Phục
hưng người Veneto Lodovico Dolce,[8], được xuất bản vào năm 1555 bởi Gabriele Giolito de' Ferrari.

Thần khúc gồm 100 khổ thơ với 14.233 câu thơ, được chia làm ba phần (tiếng Ý: cantiche)
— Inferno (tức Hỏa ngục, hay Địa ngục), Purgatory (tức Luyện ngục), và Paradiso (Thiên đường) —
mỗi phần gồm 33 khổ thơ (tiếng Ý: canti). Một khổ thơ đầu có vai trò giới thiệu toàn bộ bài thơ, và
thường không được coi là thuộc về Phần 1, nâng tổng số lên 100 khổ thơ. Tuy nhiên, người ta thường
chấp nhận rằng hai canti đầu tiên của sử thi có vai trò là đoạn mở đầu đơn nhất cho toàn bộ sử thi, và
rằng hai canti mở đầu của mỗi cantica phục vụ như đoạn mở đầu của mỗi cụm ba cantica.[9][10][11]

Con số 3 có vai trò quan trọng trong bài thơ này, được thể hiện bằng độ dài của mỗi cantica. Thêm vào
đó, cách gieo vần được sử dụng, terza rima, gồm những câu thơ hendecasyllabic (câu thơ có mười một
âm tiết), với các dòng được sáng tác theo từng đoạn thơ ba câu (tercet) theo phương thức gieo vần aba,
bcb, cdc, ded...

Bài thơ được viết theo ngôi thứ nhất: tôi, kể lại cuộc du hành của Dante qua ba thế giới bên kia, diễn ra
tại thời điểm Ba ngày lễ Phục sinh thiêng liêng mùa xuân năm 1300. Nhà thơ La Mã Virgil dẫn ông đi
qua Hỏa Ngục và Luyện Ngục; trong khi nàng Beatrice, người phụ nữ mà Dante coi là lý tưởng, dẫn ông
qua Thiên đường. Beatrice là người phụ nữ thành Florence, người mà ông biết đến từ thời thơ ấu, và
mang lòng ái mộ, theo hình mẫu tình yêu thuần khiết thời thượng truyền thống, được tô điểm trong tác
phẩm La Vita Nuova của ông.

Cấu trúc của ba cantica tuần theo một mô hình Thần Số học phổ biến với 9 cộng 1, cho tổng số là 10: 9
tầng vòm (circle) Hoả ngục, tiếp nối bởi Lucifer nằm ở tầng dưới cùng; 9 tầng (ring) của đỉnh Luyện
ngục, tiếp nối bởi Vườn Địa đàng nằm trên đỉnh núi; và 9 tầng (celestial body) của Thiên đàng, tiếp nối
bởi Thiên giới chứa đựng những tinh hoa của Thiên Chúa. Trong mỗi nhóm 9, có 7 yếu tố tương ứng với
một phẩm chất đạo đức cụ thể, chia thành ba tiểu thể loại, trong khi 2 yếu tố khác đặc thù hơn được
thêm vào thành chín. Ví dụ, trong Bảy tội lỗi chết người của Giáo hội Công giáo được làm sạch trong
Luyện ngục có sự tham gia của các cõi đặc biệt cho những kẻ Sám hối Muộn màng (the Late-Repentant)
và những kẻ bị vạ tuyên thông bởi nhà thờ. Bẩy tội lỗi cốt lõi trong Luyện ngục tương ứng với một
phẩm chất đạo đức của sự lầm lạc về tình thương, chia thành ba nhóm tương ứng với tình thương cuồng
si (Dâm dục, Tham ăn, Tham lam), tình thương thiếu thốn (Biếng nhác), và tình thương có ác tâm (Thù
hằn, Đố kỵ, Kiêu ngạo).

Trong cuộc tranh giành ảnh hưởng chính trị tai miền Bắc Italy giữa hai nhà Guelph và Ghibelline khi đó,
Dante thuộc về phe Guelph, ủng hộ Giáo hoàng, đối lại với Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh. Nhà
Guelph thành Florence phân tách thành các phe phái chống đối nhau vào khoảng năm 1300: phe Guelph
Trắng, chống lại quyền lực thế tục của Giáo hoàng Boniface VIII, muốn duy trì nền độc lập xứ Florence,
trong khi phe Guelph Đen, ủng hộ Giáo hoàng cai trị Florence. Dante thuộc về phe Guelph trắng, bị
Huân tước - Thị trưởng Cante de' Gabrielli di Gubbio bắt đi đày biệt xứ năm 1302, sau khi quân đội
của Charles, Bá tước xứ Valois tiến vào thành phố do được Giáo hoàng Boniface cầu viện và vì vốn là
đồng minh với phe Đen. Giáo hoàng tuyên bố nếu ông quay trở lại thành phố ông sẽ bị thiêu sống trên
giàn hỏa. Cuộc lưu đày kéo dài đến hết đời Dante, ghi dấu thấy ảnh hưởng của nó lên rất nhiều phần của
vở kịch: từ lời tiên đoán về sự lưu đày Dante, cho đến nhãn quan chính trị của ông, và sự đọa đày vĩnh
viễn trong địa ngục các kẻ thù với ông.

Từ cuối cùng của mỗi ba cantica là stelle ("những ngôi sao").

Phần thứ nhất: Inferno (Hỏa ngục)[sửa | sửa mã nguồn]

Bản trường ca bắt đầu vào đêm trước ngày lễ Thứ sáu tốt lành, 8 tháng 4 năm 1300, khi đó ông đã 35
tuổi, được nửa cuộc đời theo đức tin (Thánh ca 90:10), bị lạc trong một khu rừng tăm tối (có lẽ mang ý
nghĩa ẩn dụ về toan tính tự vẫn), bị ba con mãnh thú tấn công: một con sư tử, một con báo, và một
con sói cái — tượng trưng cho sự cám dỗ vào vòng tội lỗi). Ông hoảng sợ, nhưng không chạy trốn được,
và cũng không tìm được một "con đường đúng đắn" (nguyên tác diritta via) - cũng có thể dịch là "con
đường chính đáng" - về phía sự cứu rỗi (biểu trưng bởi hình tượng mặt trời phía sau ngọn núi). Ý thức
được là ông đang tự đánh mất đi bản thân mình, và ông đang rơi vào "một nơi sâu thẳm" (nguyên
tác basso loco), nơi mặt trời cũng câm lặng ('l sol tace), Dante may mắn được nhà thơ cổ La Mã Virgil,
do nàng Beatrice từ Thiên đường phái xuống, cứu thoát, và hai người bắt đầu cuộc hành trình về thế giới
bên kia. Tại Hỏa ngục, mỗi tội nghiệt phải chịu sự trừng trị tương ứng thích đáng, ví người bói toán phải
đi ngược, bằng đầu họ, khiến họ không thể nhìn thấy gì ở phía trước, như họ đã làm trong suốt cuộc đời
mình.

Dante bước qua cổng Địa ngục, trên đó có chạm hàng chữ, mà dòng thứ chín, cũng là dòng cuối cùng là
"Lasciate ogne speranza, voi ch'intrate", hay "Đừng hy vọng gì nữa, một khi ngươi đã bước chân vào
đây"[12] Trước khi bước qua cửa Địa ngục, Dante và người dẫn đường của ông nhìn thấy những người Cơ
hội, những người trong suốt cuộc đời mình không làm việc gì tốt, nhưng cũng không làm gì xấu (trong
số đó, Dante nhận ra hoặc giáo hoàng Celestine V hay Pilate; khổ thơ không cho biết rõ). Lẫn vào với họ
là những kẻ bị ruồng bỏ, là những thiên thần không tham gia vào Cuộc nổi loạn của các thiên thần.
Những linh hồn này không ở trong, cũng không ở ngoài Địa ngục, họ phải ngụ tại bờ sông Acheron là
con sông mà các linh hồn phải vượt qua trước khi tiến vào Địa ngục, chịu trừng phạt bằng việc phải đuổi
theo một lá cờ, trong khi bản thân họ bị ong bắp cày đuổi theo đốt, cùng với giòi bọ và các loại côn
trùng khác hút máu mủ, hình ảnh này tượng trưng cho sự châm đốt lương tâm và ghê tởm tội lỗi.

Tiếp đó Dante và Virgil dừng chân tại bên bờ sông Acheron, là nơi họ phải vượt sông trước khi tiến vào
Địa ngục. Người lái đò là nhân vật huyền thoại Charon; ông ta không muốn chở Dante qua sông, vì
Dante vẫn là người dương thế, nhưng nhà thơ Virgil buộc Charon phải đưa họ qua sông, bằng câu nói
nổi tiếng Vuolsi così colà ove si puote (dựa vào thực tế là Dante đang thực hiện cuộc du hành trên vùng
đất thiêng). Cuộc vượt sông không được kể lại, vì Dante bị ngất, và chỉ tỉnh lại khi họ đã cập bờ bên kia.

Các tầng địa ngục[sửa | sửa mã nguồn]

Virgil dắt Dante qua chín tầng Địa ngục, là các vòm ngục đồng tâm, tượng trưng cho sự gia tăng của tội
lỗi và sự đồi bại, với đỉnh điểm là trung tâm của Trái Đất, nơi mà quỷ Satan phải chịu xiềng xích. Tại
mỗi tầng, những kẻ phạm tội bị trừng phạt bằng một hình thức tương ứng với tội lỗi của họ: mỗi người
phải chịu đau khổ vì tội lỗi lớn nhất của mình. Những người phạm tội nhưng hối cải, cầu nguyện xin tha
thứ trước khi chết sẽ được vào Luyện ngục – nơi họ lao công để chuộc tội của mình – nhưng không phải
xuống Địa ngục. Những người phải xuống Địa ngục là những người tìm cách biện bác cho tội lỗi của
mình và không chịu hối cải. Hơn thế nữa, những người ở Địa ngục vẫn có ý thức về quá khứ và tương
lai, nhưng không nhận biết được hiện tại. Trong ý nghĩ của Dante, đó là sự đùa cợt tai ác với họ, vì đến
thời khắc của Ngày phán xét cuối cùng, tức ngày tận thế; những người ở Địa ngục cũng sẽ không hề hay
biết.

Nhà thơ đã gặp nhiều nhân vật cổ kim danh tiếng dưới Hỏa ngục, từ những vị Giáo hoàng can tội ăn cắp
đồ lễ đến những kẻ tham nhũng; những cha cố, tu sĩ dâm ô, hư hỏng; các quan chức địa phương trụy lạc
v.v. Có cả Điđông, Paris của Troia, Helen của Troia, Ulysses từ thời Hy Lạp cổ đại đến đôi trai
gái, Paolo Malatesta và Francesca da Rimini, phạm tội tư thông bị giết ở Ý năm 1289. Tất cả, tùy mức
độ nặng nhẹ của những tội mà họ đã phạm phải trên dương thế, đều phải chịu cực hình rất ghê sợ.

Chín tầng địa ngục bao gồm:

Tầng một - Limbo (U Minh)[sửa |  sửa mã nguồn]

Ở đây có những người chưa được rửa tội và những người vô thần nhưng có đức hạnh, tức những người
không phạm tội lỗi gì, nhưng không nhìn nhận Jesus là chúa của mình. Họ tuy không bị đọa đày, nhưng
cũng không được lên Thiên đường, vì không được gần Chúa trời, không có hy vọng được cứu rỗi, tầng
địa ngục này như vậy có nhiều điểm chung với Cánh đồng Elysium trong thần thoại Hy Lạp. Nếu không
được rửa tội, ("cánh cửa của đức tin," Canto IV, l.36), họ thiếu đi hy vọng vào quyền lực thần thánh của
Chúa, là những gì vượt quá lý trí và tâm thức mà họ có thể chấp nhận và hiểu được. Ở đây cũng có
những cánh đồng xanh tốt và một tòa lâu đài, nơi ở của những bậc hiền triết cổ đại, tức là cả Virgil, cũng
như các nhà triết học Hồi giáo như Averroes và Avicenna. Tại lâu đài này, Dante gặp các nhà thơ vĩ
đại Homer, Horace, Ovid, Marcus Annaeus Lucanus các nhà triết học Socrates và Aristotle. Rất thú vị là
ông cũng gặp cả Saladin tại đây (Canto IV). Ngụ ý của Dante là tất cả những người vô thần, nhưng có
đức hạnh đều tề tựu tại đây, dù rằng về sau, ông gặp hai người như vậy tại Thiên đường và (Cato xứ
Utica) tại Luyện ngục.

Bên ngoài tầng địa ngục thứ nhất, tất cả những người có tội phải bị xét xử bởi vua Minos, người phán
quyết mỗi linh hồn xuống một tầng địa ngục sâu hơn bằng cách cuộn đuôi của mình bằng số lần tương
ứng. Các tầng địa ngục sâu hơn được kết cấu dựa theo ý niệm của Aristote về đức hạnh và sự đồi bại,
nên có thể chia ra làm tội không kiềm chế dục vọng, bạo lực và lừa gạt (với nhiều nhà chú giải, được
biểu hiện bằng hình ảnh báo, sư tử và sói cái[13]). Tội không kiềm chế dục vọng - yếu đuối trong việc
kiểm soát ham muốn và đòi hỏi tự nhiên - là tội nhẹ nhất.

Tầng hai - Lust (Nhục Dục)[sửa | sửa mã nguồn]

Tầng thứ hai của Địa Ngục, đây là ngục phạt thứ nhất của Địa Ngục. Nơi đây giam giữ những linh hồn
khi còn sống đã bị chi phối bởi dục vọng làm ảnh hưởng đến tính minh mẫn của lý trí. Họ là "những kẻ
đã phạm tội xác thịt" và họ là những kẻ đầu tiên bị trừng phạt trong Địa Ngục. Hình phạt của họ, theo
như Dante miêu tả, là luôn phải bị thổi cuốn bay đi liên tục bởi những cơn cuồng phong vĩnh hằng,
chúng tượng trưng cho sự ham muốn mất kiểm soát đã lôi kéo họ rời khỏi con đường ngay thẳng. Ở đây
Dante đã gặp những người nổi tiếng trong truyền thuyết như công chúa Helen, tướng Paris của thành
Troy, Achilles, nữ hoàng Cleopatra hay hiệp sĩ Lancelot, công chúa Guinevere trong truyền thuyết về
các Hiệp sĩ Bàn Tròn của vua Arthur,....

Tầng ba -  Gluttony (Phàm Ăn)[sửa |  sửa mã nguồn]

Chó ngao ba đầu Cerberus canh giữ những kẻ phàm ăn tục uống, buộc họ phải nằm trên một đống bùn
ghê tởm tạo bởi những trận mưa lạnh buốt, tuyết đen bẩn thỉu và mưa đá. Đây là biểu tượng của những
thứ rác rưởi mà những kẻ phàm ăn tục uống tạo ra khi họ còn sống, làm nô lệ cho thức ăn và cái dạ dày
của mình. Cũng tại đây, Dante đàm thoại với một người xứ Florentine đương thời gọi là Ciacco ("con
lợn" — có lẽ là biệt danh) về cuộc đấu đá diễn ra tại Florence và số phận của những nhân vật tiếng tăm
xứ Florentine (Khổ 6).

Tầng bốn -  Greed  (Tham Lam)[sửa  | sửa mã nguồn]

Những người mà quan điểm của họ khi còn sống lệch lạc so với chuẩn mực cho phép, chỉ hướng về tiền
tài và vật chất sẽ bị trừng phạt ở đây. Họ bao gồm 2 nhóm người: những người tham lam và hà tiện thích
tích trữ tài sản và những người tiêu xài tài sản một cách hoang phí. 2 nhóm trên đều được cai quản bởi 1
nhân vật được Dante đặt tên là Pluto, nhưng không nói rõ rằng đây là Pluto, vua địa ngục hay là Plutus,
thần của cải trong Hy Lạp, nhưng dù là ai đi nữa thì Virgil cũng bảo vệ Dante khỏi nhân vật này. 2 nhóm
người trên đều bị phạt bằng hình phạt phải đẩy những khối nặng như vũ khí đâm vào nhau như khi đang
đấu ngựa, với Dante miêu tả lại rằng: "Tôi thấy họ rất đông xung quanh tôi, tiếng rên của họ rất to trong
khi phải đẩy những khối nặng. Họ đâm sầm vào nhau, và khi đó, họ quay lại và đẩy ngược những khối
nặng về lại chỗ cũ, trong khi rên lên: Vì sao tôi đã hà tiện? Vì sao tôi đã hoang phí?".

Tầng năm - Wrath (Thịnh Nộ)[sửa | sửa mã nguồn]

Trong làn nước lầy lội như đầm lầy của con sông Styx, những linh hồn giận dữ đánh nhau trên mặt
nước, những kẻ rầu rĩ và uể oải phải nằm xuống dưới dòng nước đen, nơi mà họ không bao giờ tìm thấy
hạnh phúc trong Chúa, những người còn lại hay trong chính bản thân vũ trụ. Phlegyas miễn cưỡng đưa
Dante và Virgil qua sông trên chiếc thuyền nhỏ của mình. Các phần phía dưới của địa ngục nằm trong
các bức tường của thành phố Dis, một thành phố nằm ở trung tâm đầm lầy. Bị trừng phạt ở phía trong
Dis là những phạm nhân được cho là "hoàn toàn có đầy đủ ý thức và chủ ý phạm tội". Các bức tường
của thành phố được canh gác bởi các thiên thần sa ngã, và Virgil không thể thuyết phục họ mở cửa để
cho ông và Dante vào. Nhưng 1 thiên thần được phái xuống từ Thiên Đường đã đến để dẫn các ông qua
ải an toàn, và thiên thần đã bắt chúng mở cửa thành cũng như quở trách tất cả những ai chống đối Dante.

Tầng sáu - Heresy (Dị Giáo)[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là nơi trừng phạt những người lan truyền và tin theo dị giáo, ví dụ như niềm tin "Linh hồn sẽ chết
cùng với thể xác" của những người tin theo thuyết Epicurus. Họ sẽ bị chôn trong những nấm mồ cháy
rực lửa. Tiếp tục cuộc hành trình, cả hai dừng lại trước khi bước xuống những bậc thềm dẫn xuống tầng
thứ 7 bốc mùi hôi thối, với Virgil giải thích về nguồn gốc của những tầng đáy Địa Ngục: đây là những
nơi mà những tội kịch liệt và hiểm độc nhất sẽ bị trừng trị, và để ví dụ, ông đã nói chỉ có 2 nguồn sinh
của cải hợp pháp duy nhất, đó là từ tài nguyên của thiên nhiên và hoạt động con người, và vì thế cho vay
mượn nặng lãi là 1 tội do là việc làm giàu không thuộc 2 nguồn trên, và vì thế sẽ bị trừng phạt ở tầng
tiếp theo.

Tầng bảy - Violence (Bạo Lực)[sửa |  sửa mã nguồn]

Tầng thứ bảy Địa Ngục giam giữ những kẻ bạo lực, lối vào của nó được canh giữ bởi nhân ngưu
Minotaur và nó được chia thành 3 vòng: - Vòng ngoài cùng: Giam giữ những người đã cưỡng bức người
khác và tài sản. Họ sẽ phải bị nhúng chìm vào Phlegethon, 1 dòng sông của máu đun sôi và lửa, đến 1 độ
sâu tương ứng với tội của họ. Ở trên bờ sông có những con nhân mã, do Chiron và Pholus chỉ huy, liên
tục tuần tra ven sông và bắn tên vào những ai cố ngoi lên cao hơn mức nước quy định. Nhân mã Nessus
là người đã dẫn đường Dante và Virgil đi ven theo dòng sông và lội qua đoạn nông nhất của dòng sông. -
Vòng ở giữa: Giam giữ những người đã tự tử và người hoang phí tiền của. Những người đã tự tử, hay đã
bạo lực với bản thân, sẽ bị trừng phạt bằng cách bị biến thành những bụi cây xương xẩu, và trở thành
thức ăn yêu thích của các điểu nhân Harpy. Dante cũng nói thêm rằng những người đã tự tử cũng sẽ
không được hồi sinh thân xác vào Ngày Phán Xét, vì họ đã từ chối thân xác của họ qua việc tự tử, và vì
thế họ sẽ luôn mang hình hài của 1 bụi cây với thân xác gốc của họ treo lủng lẳng trên các cành cây.
Những cư dân còn lại của nơi này đó là những người hoang phí của cải, những người đã tự tàn phá
nguồn nuôi sự sống thế gian của họ. Họ vĩnh viễn phải bị săn đuổi và đánh đập bởi những con chó hung
tợn. - Vòng trong cùng: Là nơi giam giữ những người đã lăng mạ Thiên Chúa và những ai đã đi trái tự
nhiên (người đồng tính, và như đã giải thích ở trên, người cho vay nặng lãi). Tất cả đều bị giam trong 1
sa mạc đầy cát nóng rực cháy với mưa lửa đổ tù trời xuống. Kẻ lăng mạ phải nằm, kẻ cho vay nặng lãi
phải ngồi và những người đồng tính phải lang thang trên cát thành các nhóm.

Tầng tám - Fraud (Gian Trá)[sửa |  sửa mã nguồn]

Tầng thứ tám và thứ chín của Địa Ngục trừng phạt những tội liên quan đến sự giả dối và phản bội có ý
thức, và chỉ có thể tiếp cận được bằng cách trượt xuống 1 vách đá rộng từ trên lưng của Geryon, 1 quái
vật có cánh thường được mô tả là có 3 đầu, 1 của người, 1 của thú và 1 của bò sát. Những người giả dối
- những ai hoàn toàn có nhận thức về điều ác và cố ý phạm tội - đều được giam trong 1 nhà ngục có tên
là Malebolge, nó được chia thành 10 Bolgie, hay những rãnh đá, với những cây cầu trải dài rộng khắp
các rãnh. ---- Bolgia 1: Là nơi giam giữ những người mai mối bất chính và những người khiêu dâm. Họ
phải xếp thành các hàng và bước đều bước trong khi bị các con quỷ quất roi. Cũng như khi còn sống họ
đã dùng tình cảm để cám dỗ sai khiến người khác, họ bây giờ cũng sẽ bị sai khiến bước đi theo sự chỉ
dẫn của những con quỷ cầm roi. ---- Bolgia 2: Là nơi giam giữ những người chuyên nịnh bợ. Họ bị
trừng phạt bằng cách bị chôn trong những đống phân người, tượng trưng cho những lời nói nịnh bợ mà
họ nói ra. ---- Bolgia 3: Là nơi giam giữ những người buôn thần bán thánh. Họ bị trừng phạt bằng cách
bị đặt chổng ngược đầu vào những lỗ trong đá, với lửa thiêu cháy bàn chân của họ. ---- Bolgia 4: Pháp
sư, phù thủy, những nhà chiêm tinh và thầy bói đều bị giam giữ ở đây. Họ bị trừng phạt bằng cách đều bị
vặn ngược đầu lại sao cho họ phải bước đi ngược lại và thứ duy nhất họ có thể thấy đó là quá khứ phía
sau, bởi lẽ khi còn sống họ đã phạm tội cố ý thử nhìn trước tương lai. ---- Bolgia 5: Nơi giam giữ những
nhà chính trị gia mục nát. Họ bị nhấn chìm vào những chiếc hồ lửa sôi sục đầy hắc ín. Rãnh đá này được
canh gác bởi các Malebranche (móng vuốt tội lỗi), 1 lũ quỷ với những trò châm biếm đầy man rợ, với
thủ lĩnh của chúng là Malacoda. Hắn hứa sẽ hộ tống 2 nhà thơ đến cây cầu tới Bolgia 6 an toàn và cử ra
1 nhóm Malebranche để dẫn đường 2 nhà thơ, nhưng lời hứa của lũ quỷ hoá ra lại có giới hạn, và 2 nhà
thơ bị buộc phải tiếp tục bằng cách tự trườn xuống vách đá chia cắt Rãnh 5 và 6. ---- Bolgia 6: Giam giữ
những kẻ mang đạo đức giả. Hình phạt của họ là phải lang thang phêu bạt trong khi phải mang những
chiếc áo choàng bằng chì, tượng trưng cho sự giả dối ẩn dưới lớp hình thức bên ngoài, sự giả dối mà sức
nặng của nó đã khiến họ thờ ơ trước những hoạt động tâm linh. ---- Bolgia 7: Nơi trừng phạt tội trộm
cắp, và được canh giữ bởi Cacus, quái vật có một con rồng phun lửa đậu trên vai và các con rắn phủ đầy
lưng. Những tên trộm sẽ bị săn đuổi và cắn bởi các con rắn và thằn lằn, nhưng đó mới chỉ là khởi đầu
của hình phạt thật sự của họ. Cũng như họ đã ăn trộm nguồn sống của người khác khi còn sống, danh
tính của chính bản thân họ trở thành thứ sẽ bị đánh cắp ở đây, khi những vết cắn sẽ khiến họ trải qua
những sự biến đổi đau đớn, ví dụ như Vanni Fucci bị cháy thành than, hay Agnello bị biến thành một con
thằn lằn 6 chân,.... ---- Bolgia 8: Là nơi giam giữ những cố vấn gian dối hay những người đưa ra những
lời khuyên giả dối. Họ không phải là người đưa ra những lời khuyên sai trái, nhưng là những người đã
lợi dụng chức vụ khuyên người khác cùng phạm tội giả dối. Họ bị trừng phạt bằng cách trở nên những
ngọn đuốc sống khi liên tục bị thiêu cháy bởi lửa Địa Ngục. ---- Bolgia 9: Ở rãnh đá thứ 9 tồn tại một
con quỷ cầm gươm, kẻ sẽ vung gươm chém mạnh vào những người gieo rắc bất đồng, những phạm nhân
nơi đây. Cũng như khi họ còn sống đã gieo rắc bất đồng chia rẽ đoàn kết, con quỷ sẽ chém nát thân xác
họ ra, và cứ thế họ xếp hàng đi thành 1 vòng tròn để lành vết thương, chỉ để cho con quỷ chém nát lần
nữa. ---- Bolgia 10: Là nơi giam giữ những người giả dối còn lại không thuộc vào 9 Rãnh trên. Họ bao
gồm nhiều loại, ví dụ như những nhà giả kim, những người thất hứa, mạo danh hay buôn tiền
giả,....Cũng như khi còn sống họ là dịch bệnh cho xã hội, ở đây họ bị trừng phạt bằng cách liên tục mắc
nhiều loại bệnh khác nhau.

Tầng chín - Traitors (Phản Bội)[sửa | sửa mã nguồn]

Những kẻ phản bội được phân biệt với giả dối thông thường bằng việc hành động của họ có liên quan
đến phản bội 1 mối quan hệ đặc biệt nào đó. Ở đây tồn tại 4 khu vực tương ứng với mức độ nghiêm
trọng của phản bội. Ngược với hình ảnh rực lửa của Địa Ngục thì những kẻ phản bội sẽ bị đóng băng
dưới 1 chiếc hồ băng giá có tên là Cocytus, với mỗi nhóm sẽ bị đóng băng xuống 1 độ sâu nhất định. ----
Round 1: Được đặt tên là Caina, theo tên của Cain, người đã giết chết em mình. Kẻ phản bội máu mủ
nơi đây sẽ bị đóng băng đến cằm. ---- Round 2: Được đặt tên Antenora, theo tên của Antenor thành Troy,
người được tin rằng đã phản bội thành phố của mình khi đồng minh với người Hy Lạp. Kẻ phản bội
cộng đồng đều được tìm thấy ở đây, và có chung hình phạt với nhóm ở Caina. ---- Round 3: Được đặt
tên Ptolomaea, theo tên của Ptolemaios, con trai của Abubus, người đã mời Simon Maccabaeus và
những người con trai của ông đến dự tiệc và giết họ. Kẻ phản bội khách của họ đều bị trừng phạt ở đây,
khi họ phải nằm ngửa trên băng và bị đóng băng hết trừ mặt của họ ra. Lý do họ bị trừng phạt nặng hơn
2 nhóm trên, đó là vì mối quan hệ với khách là 1 mối quan hệ hoàn toàn tự nguyện. ---- Round 4: Được
đặt tên Judecca, theo tên của Judas Iscariot, kẻ phản bội Jesus. Nơi đây giam giữ những kẻ phản bội với
lãnh chúa và ân nhân của họ. Phạm nhân hoàn toàn bị đóng băng cứng, vặn vẹo biến dạng với đủ mọi
kiểu dáng. Ở trung tâm của khu vực này, cũng như là trung tâm của Địa Ngục, là phạm nhân đã bị kết án
phạm tội hệ trọng và tột cùng nhất, tội phản bội lại Thiên Chúa tối cao, đó chính là Satan. Satan được
miêu tả là một con quái vật khổng lồ và hung tợn với 3 mặt, 1 đỏ, 1 đen và 1 vàng nhạt. Satan bị chôn
vùi sâu trong băng, khóc thút thít qua sáu con mắt của nó, và đập cánh cố thoát khỏi nhà ngục, nhưng
cánh của hắn càng đập thì lượng băng trong hồ càng dày hơn. Mỗi cái miệng trên ba cái mặt của nó đều
đang gặm nhai 1 kẻ phản bội nổi tiếng trong truyền thuyết: Brutus và Cassius ở 2 miệng 2 bên, còn
miệng ở giữa là dành cho Judas Iscariot. Hắn phải chịu hình phạt nặng hơn 2 người còn lại: hắn bị Satan
gặm đầu so với 2 người kia là chân, và lưng của hắn vĩnh viễn bị móng vuốt của Satan lột da.

Hai nhà thơ trốn thoát khỏi Địa Ngục bằng cách leo xuống từ lông của Satan. Họ đi qua trung tâm của
Trái Đất và đến Luyện Ngục (Purgatorio) ngay vào thời điểm bình minh của Chúa Nhật Phục Sinh.....

Phần thứ hai: Purgatorio (Luyện ngục)[sửa | sửa mã nguồn]

Là tên một ngọn núi nằm ở cực Nam của Trái Đất có bảy tầng, tượng trưng cho bảy trọng tội theo quan
niệm của Cơ Đốc giáo. Ở đây thể hiện một không khí trầm lặng trong sự suy tư sám hối chứ không
khủng khiếp, náo động như ở Địa ngục: những kẻ kiêu căng phải vác một khối đồ vật nặng trên vai
khiến mặt cúi gằm xuống; còn bọn có tính xấu ghen tị, thèm khát thì mắt nhằm nghiền không trông thấy
gì; lũ lười biếng cứ phải luôn chân đi đi lại lại, nói chung là những gì ngược với bản tính của chúng
trước kia. Trong một cuộc trao đổi trò chuyện, Dante đã nguyền rủa "nước Ý nô lệ, nơi trú ngụ của
những đau thương, không còn là bà chúa của những dân tộc mà là một nơi xấu xa". Sau khi cầu khẩn
Thiên đường, Dante ngủ say. Khi tỉnh dậy nhà thơ thấy mình cùng với Virgil đứng trước lối đi vào trong
Purgatorio. Hai nhà thơ lần lượt leo qua bảy tầng ở đây. Linh hồn ở đây còn phải chịu hình phạt, song đã
có được niềm hy vọng. Thêm nhà thơ La Mã Statius đến với Virgil và Dante. Ba nhà thơ đồng hành lên
đỉnh cao của ngọn núi, đó chính là Thiên đường với rừng cây đẹp đẽ, suối nước mát trong, hoa thơm cỏ
lạ. Dante say sưa ngắm cảnh các thiên thần hiện hình. Cuối cùng Beatrice từ Thiên đường xuống trong
ánh hào quang rực rỡ và hoa thơm ngào ngạt, đón Dante. Còn Virgil thì biến mất vì ông là người dị giáo.

Phần thứ ba: Paradiso (Thiên đàng)[sửa | sửa mã nguồn]

Thiên đường gồm chín tầng, mỗi tầng dành cho một loại người đã được Thượng đế tuyển chọn. Gặp
Dante, Beatrice nói cho Dante biết muốn cứu vớt linh hồn Dante, nàng phải đưa Dante đi thăm và thấy
tận mắt những kẻ phạm tội. Nàng trách chàng đã phạm nhiều lỗi lầm từ khi nàng qua đời và Dante thú
nhận tội lỗi của mình. Matenda đem tắm cho Dante trong con sông Lete để cho chàng quên hết mọi việc.
Beatrice lần lượt dẫn Dante qua chín tầng của Thiên đường. Trong khi đi, hai người trao đổi, bàn luận
với nhau về những vấn đề thần học và triết học. Họ gặp các vị anh hùng, những người tử vì đạo, các vị
tiến sĩ thần học của Giáo hội v.v. Thiên đường cũng như Địa ngục chứa đựng rất nhiều chi tiết ám dụ về
tình hình chính trị đương thời. Một chiếc thang vàng đưa Dante lên bầu trời đầy sao. Nhà thơ ngây ngất
chiêm ngưỡng chúa Giêsu và Đức mẹ đồng trinh. Beatrice trở về vị trí của nàng, còn Dante cảm thấy
lâng lâng bay bổng trong tình yêu của Thượng đế.

Về mặt cấu trúc, trong khi Hỏa ngục và Luyện ngục được kết cấu xoay quanh phân loại tội lỗi, thì Thiên
đường dựa trên bốn đức hạnh chính theo quan niệm Thiên chúa giáo (Thận trọng, Công bằng, Kiềm chế,
Can đảm) và ba đức hạnh theo quan niệm thần học (Đức tin, Hy vọng và Tình yêu).

Ý nghĩa và ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Thần khúc là một tác phẩm được trao một sứ mạng lịch sử đặc biệt: nó là sự tổng hợp những kiến thức
triết học và nghệ thuật của văn hóa Trung cổ, đồng thời nó cũng là cầu nối liền với văn hóa thời đại Phục
hưng. Dấu ấn Trung cổ trong tác phẩm rất rõ nét, từ ý thức, niềm tin tôn giáo, quan điểm triết học đến
cách thể hiện tượng trưng, ngụ ý, ẩn ý (số 3 tượng trưng cho Chúa trời ở 3 ngôi "tam vị nhất thể", số 9 là
tuổi của Dante và Beatrice khi gặp nhau lần đầu, ba con thú tượng trưng cho ba tính xấu: ghen tị-kiêu
ngạo-keo kiệt). Tính chất Phục hưng trong tác phẩm cũng khá nổi bật, đó là thái độ khẳng định và tôn
vinh cuộc sống với những hoan lạc trần thế, niềm khát khao hiểu biết thế giới song hành với những ước
mơ cuộc sống hạnh phúc, trong sạch, đẹp đẽ hiện hữu ở thế giới thực tại này chứ không phải là ở thế
giới bên kia. Bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện của tác giả thể hiện qua những câu thơ ngân nga như
lời ca điệu nhạc, kết hợp với những yếu tố mới mẻ trong nội dung so với thời đại khiến tác phẩm được
các nhà nghiên cứu sau này đánh giá cao, được coi như dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của một nền
văn học lớn thời đại Phục hưng sắp ra đời.

Tuy nhiên, tác phẩm này không phải luôn được coi trọng. Sau một thời gian dài được xem là một kiệt tác
nghệ thuật trong suốt mấy thế kỷ [14], tác phẩm rơi vào quên lãng trong thời đại Kỷ nguyên Ánh sáng, chỉ
trừ một vài trường hợp đặc biệt như khi Vittorio Alfieri và Antoine de Rivarol dịch nó sang tiếng Pháp,
và khi Giambattista Vico, trong các tác phẩm Scienza nuova và Giudizio su Dante, tuyên phong Dante,
mà sau này người ta gọi là sự ca ngợi lãng mạn nhất, đặt ông ngang hàng với nhà thơ  Homer vĩ đại[15].
Bản Thần kịch được "tái phát hiện" bởi họa sĩ, và là cây bút theo chủ nghĩa lãng mạn William Blake -
người vẽ minh họa cho một số đoạn của bản trường ca. Một số tác giả như T. S. Eliot, Ezra
Pound, Samuel Beckett, và James Joyce cũng lấy nguồn cảm hứng từ tác phẩm này. Nhà thơ Henry
Wadsworth Longfellow là người Mỹ đầu tiên,[16] cùng với những nhà thơ hiện đại khác, có thể kể
đến Seamus Heaney,[17] Robert Pinsky, John Ciardi, và W. S. Merwin, cho ra đời một số đoạn dịch lại từ
tác phẩm. Ở nước Nga, ngoài bản dịch một số đoạn tam khúc nổi tiếng của Pushkin, các tác phẩm về sau
của Osip Mandelstam được cho là mang dấu ấn của sự "trầm tư day dứt" của vở nhạc kịch.[18]

You might also like