Professional Documents
Culture Documents
CHUẨN ĐOÁN
CHUẨN ĐOÁN
A. CHẨN ĐOÁN
1. Tiêu chí chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ .
- Trong bản DSM - I (1952), DSM - II (1968) chỉ đề cập đến tự kỷ như là
một dạng “Phản ứng tâm thần phân liệt” (Schizophrenic Reaction). Tiếp
đó, trong bản DSM - III (1980), DSM - III - TR (1987), rối loạn phổ tự kỷ
bắt đầu được phân loại và có tiêu chí chẩn đoán: DSM - III đề cập đến tự
kỉ trẻ em (Ifnfantile Autism) với sáu tiêu chí chẩn đoán, DSM - III - R
phát triển thành 16 tiêu chí phân làm ba nhóm và gọi là rối loạn phổ tự kỷ
(Autistic Disorder). DSM - IV (1994) và DSM - IV - TR (2000) hoàn
thiện hơn tiêu chí chẩn đoán tự kỷ và xếp tự kỷ vào một nhóm các rối
loạn với phạm vi rộng hơn là rối loạn phát triển diện rộng (Pervasive
Developmental Disord+áers - PDDs), tương đương với rối loạn phổ tự kỷ
(Autistic Spectrum Disorders - ASDs).
- DSM-5 chính thức phát hành vào tháng 5, năm 2013 với một số thay đổi
trong quan điểm về tự kỉ nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và thực tiễn
về tự kỉ.
-
2. Chẩn đoán phân biệt trong chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ.
● Hội chứng Rett.
Sự suy kém của tương tác xã hội có thể được quan sát trong giai đoạn
thoái lui của hội chứng Rett (thường là từ 1 đến 4 tuổi). Do đó, rối loạn
phổ tự kỉ nên được xem xét khi có đủ tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán
được đáp ứng. Nên nhớ là Hội chứng Rett có nguyên nhân là do sự đột
biến của MECP2 trên nhiễm sắc thể giới tính X.
● Câm chọn lọc.
Trong câm chọn lọc, giai đoạn phát triển sớm thường không bị xáo trộn.
Câm chọn lọc được xếp vào nhóm rối loạn lo âu theo tiêu chí mới của
DSM-5 không thuộc nhóm rối loạn phát triển thần kinh.
● Rối loạn ngôn ngữ và rối loạn giao tiếp xã hội (ngữ dụng).
Trong một số hình thức rối loạn ngôn ngữ, có thể có vấn đề giao tiếp và
một số khó khăn xã hội thứ cấp. Khi chẩn đoán rối loạn phổ tự kỉ được
sử dụng thay cho rối loạn giao tiếp xã hội (ngữ dụng) bất cứ khi nào các
tiêu chí rối loạn phổ tự kỉ được đáp ứng và cần xem xét kỹ lưỡng các
hành vi bị giới hạn/lặp lại trong quá khứ hoặc hiện tại.
● Khuyết tật trí tuệ mà không có rối loạn phổ tự kỉ.
Khuyết tật trí tuệ mà không có rối loạn phổ tự kỉ có thể là khó khăn để
phân biệt với rối loạn phổ tự kỉ ở trẻ rất nhỏ.Chẩn đoán rối loạn phổ tự kỉ
cho một trẻ khuyết tật trí tuệ là thích hợp khi giao tiếp và tương tác xã hội
là kém hơn hẳn những kỹ năng ngoài ngôn ngữ của trẻ đó (ví dụ như kỹ
năng vận động tinh, giải quyết tình huống bằng phi ngôn ngữ).
● Rối loạn vận động rập khuôn.
Vận động rập khuôn là một trong những đặc điểm chẩn đoán rối loạn phổ
tự kỉ, vì vậy, việc chẩn đoán thêm rối loạn vận động rập khuôn không
được đưa ra khi các hành vi lặp lại như vậy được giải thích tốt hơn bởi sự
hiện diện của rối loạn phổ tự kỉ.
● Rối loạn giảm chú ý / tăng động.
Bất thường của sự chú ý (quá tập trung hoặc dễ dàng bị phân tán) là phổ
biến ở những người bị rối loạn phổ tự kỉ và hiếu động thái quá cũng vậy.
Chẩn đoán rối loạn giảm chú ý/tăng động (Attention Deficits/Hyper
Activity - ADHD) nên được xem xét khi khó chú ý hoặc hiếu động thái
quả vượt trội so với lứa tuổi.
● Tâm thần phân liệt.
Tâm thần phân liệt khởi phát ở trẻ em thường phát triển sau một thời gian
phát triển bình thường, hoặc phát triển gần bình thường. Một trang thải
báo trước đã được mô tả trong đó suy yếu xã hội và những sở thích bất
thường và niềm tin khác thường xảy ra, có thể bị nhầm lẫn với những suy
yếu xã hội thấy trong rối loạn phổ tự kỉ.
5. Một số khó khăn trong quá trình chẩn đoán trẻ rối loạn phổ tự
kỷ.
- Số lượng phổ tự kỷ thường không được chẩn đoán hoặc khó đưa ra kết
quả chính xác khi trẻ con nhỏ (trước 2 tuổi), bắt nguồn từ những nguyên
nhân sau:
+ Các triệu chứng có thể chưa được biểu hiện rõ ràng ở trẻ dưới 2 tuổi
+ Khi trẻ em rối loạn phổ tự kỷ có các khó khăn khác đi kèm thì các khó
khăn này có thể trở thành mối quan tâm chính, không còn chú ý đến các
biểu hiện của rối loạn phổ tự kỷ
+ Một trong những vấn đề chính của trẻ em rối loạn phổ tự kỷ về ngôn ngữ
thì khi trẻ trên 2 tuổi mới đến mức độ cho phép đánh giá ngôn ngữ một
cách rõ ràng
+ Một số trẻ em rối loạn phổ tự kỷ có sự phát triển trước 2 tuổi tương đối
bình thường, tình trạng chậm hoặc thoái lui đến sau 2 tuổi mới biểu lộ
+ Các bậc cha mẹ có thể không có kinh nghiệm về các mốc phát triển thông
thường nên không nhận ra sự bất thường của con mình số khác có thể
không chấp nhận sự bất thường cho dù các triệu chứng đã xuất hiện ngày
càng rõ.
- Loại phổ tự kỷ rất dễ bị nhầm lẫn với các rối loạn phát triển khác: trẻ
rlptk có thể giống với chỉ có tình trạng câm lặng chọn lọc, rối loạn gắn
kết, rối loạn ngôn ngữ đặc thù hay nhiều loại khuyết tật tâm thần với sự
chậm trễ ở phần lớn các kỹ năng giống với trẻ tự kỷ nên khi chuẩn đoán
tự kỷ cần tiến hành cả những chẩn đoán thay thế để có thể phân biệt một
cách chắc chắn tự kỷ và các rối loạn trên.
- Khó khăn trong kỹ thuật chẩn đoán tự kỷ:
- Những khiếm khuyết, biểu hiện có thể được thể hiện bằng nhiều cách
khác nhau một số có thể rất tinh vi và khó có thể nhận ra.
- Những hành vi của trẻ thường biểu hiện rất khác nhau trong các môi
trường khác nhau.
- Hành vi của trẻ cũng tùy thuộc vào việc trẻ đang làm việc với ai.