Professional Documents
Culture Documents
Hình 1: Thân não nhìn từ mặt dưới và các dây thần kinh sọ1
1. Dây I (khứu giác)
1.1. Giải phẫu
Các dây thần kinh khứu giác thực sự là các sợi phóng chiếu ngắn từ niêm mạc mũi đến
hành khứu nằm bên trong hộp sọ. Mỗi bên não có khoảng 9 đến 15 dây thần kinh khứu giác.
Hành khứu nằm ngay trên xương sàng và bên dưới thùy trán. Sợi trục của hành khứu tập trung
lại thành cuống khứu giác, tiếp hợp trong nhân khứu giác trước, và tận cùng ở vỏ não khứu giác
nguyên phát.
Hình 2: Mặt bên của hành khứu, dải khứu, màng nhầy, và các dây thần kinh khứu giác
1.2. Khám
Dây thần kinh khứu giác ít khi được khám trong thực hành lâm sàng. Việc nhận biết hầu
hết các mùi đòi hỏi dây thần kinh khứu giác phải còn nguyên vẹn. Tuy vậy, một vài tác nhân
(như ammoniac…) có thể được niêm mạc mũi nhận biết mà không cần dây thần kinh khứu giác
phải còn nguyên vẹn.
Nên khám dây khứu giác trong những trường hợp có chấn thương đầu, nghi ngờ bệnh lý
tại nền sọ (các u màng não ở mặt dưới của thùy trán, các loại glioma thùy trán có thể chèn ép vào
dây thần kinh khứu giác nằm ngay bên dưới).
Dùng các lọ nhỏ có chứa các chất quen thuộc (như xà phòng, cà phê, dầu gió, nước
hoa…), tránh các chất có tính kích thích (như ammoniac…) vì có thể gây kích thích dây thần
kinh V. BN được yêu cầu nhắm mắt, và che kín một lỗ mũi. Người khám đưa lọ nhỏ chứa chất
đã chọn vào lỗ mũi còn lại, và yêu cầu bệnh nhân xác định là mùi gì.
Đơn giản hơn, có thể sử dụng các vật dụng của BN (một mẩu bánh mì, trái cây, nước
ngọt…) và hỏi xem liệu BN có còn ngửi được mùi của các vật dụng này không.
1.3. Đánh giá
BN có thể xác định được chính xác các mùi: bình thường.
BN không thể nhận biết được các mùi: mất mùi (anosmia).
Tình trạng mất mùi có ý nghĩa khi BN không có các bệnh lý tại mũi (nghẹt mũi…). Tổn
thương dây I có thể do khối u (meningioma, hoặc hiếm hơn là glioma…) chèn ép vào.
2. Dây II (thị giác)
2.1. Giải phẫu
Dây thần kinh thị giác (optic nerve) dẫn truyền các sợi hướng tâm cho hai chức năng:
giác quan (thị giác) và co đồng tử (pupilloconstriction).
Hình 5: Các vị trí tổn thương điển hình của đường thị giác: (A) – mù một mắt; (B) – bán
manh hai thái dương; (C) – bán manh đồng danh bên (P); (D) – góc manh đồng danh 1/4
trên bên (P); (E) – bán manh đồng danh bên (P).
2.4. Soi đáy mắt (được giới thiệu trong một bài riêng)
3. Dây III (vận nhãn chung), IV (ròng rọc), và VI (vận nhãn ngoài)
3.1. Giải phẫu
Dây III, IV xuất phát từ nhân vận nhãn chung và nhân ròng rọc tại trung não, sau khi rời
khỏi hộp sọ, dây III và IV vào ổ mắt qua khe ổ mắt trên. Dây III chi phối cho các cơ: thẳng
trong, thẳng trên, thẳng dưới, chéo dưới, và cơ nâng mi trên. Dây IV chi phối cho cơ chéo trên.
Ngoài ra, phần đối giao cảm của dây III còn chi phối cho hạch mi, và cơ co đồng tử.
Dây VI xuất phát từ nhân vận nhãn ngoài tại cầu não, cũng vào ổ mắt qua khe ổ mắt trên,
và chi phối cho cơ thẳng ngoài (Hình 6).
Hình 6: Các dây thần kinh sọ III, IV, VI, và các cơ vận nhãn
Hình 11: vị trí chạm bông gòn khi khám phản xạ giác mạc
Khám phản xạ giác mạc:
Phản xạ giác mạc là phản xạ nhắm mắt lại khi có kích thích chạm vào giác mạc. Phản xạ
này đánh giá sự nguyên vẹn của hai dây thần kinh sọ: dây V (hướng tâm) và dây VII (ly tâm).
Dùng một mẩu nhỏ bông gòn và cuộn lại thành một điểm nhỏ (tránh dùng bông gòn trong
que tăm bông). Giải thích cho BN trước khi khám. Yêu cầu BN nhìn về phía đối bên với mắt
được khám. Chạm nhẹ mẩu bông gòn từ phía bên ngoài vào phía bên của giác mạc như điểm
đánh chéo trên hình. Tránh chạm vào lông mi, và tránh để BN nhìn thấy mẩu bông gòn vì có thể
gây chớp mắt do thị giác chứ không phải do phản xạ giác mạc.
Cũng giống như với phản xạ nôn, có thể bỏ qua phần khám phản xạ giác mạc nếu BN
không có những triệu chứng bất thường.
Khám cảm giác nhiệt:
Yêu cầu BN nhắm mắt lại và trả lời liệu có nhiệt độ nóng hay lạnh chạm vào mặt (chỉ
khám khả năng của BN phân biệt được nóng hay lạnh, không khám khả năng chịu được nhiệt độ
nóng hay lạnh đến mức nào).
Dùng vật dụng kim loại như rung âm thoa, búa phản xạ… và ngón tay của người khám
thay nhau đặt lên má BN ở cùng vị trí và yêu cầu BN trả lời khi nào là nóng là khi nào là lạnh.
Khám một cách ngẫu nhiên, không theo trình tự, để tránh BN có thể dự đoán được khi
nào là ngón tay và khi nào là vật kim loại.
Vì các thụ thể đau và nhiệt ở vùng mặt có sự trùng lắp nhau, và đều được dẫn truyền
chung bởi bó sinh ba-đồi thị (trigeminothalamic tract), nên thông thường chỉ cần khám cảm giác
nhiệt và hạn chế khám cảm giác đau (đặc biệt là khám cảm giác đau bằng cách dùng đầu kim nhỏ
để chạm vào vùng mặt).
5. Dây VII (mặt)
5.1. Giải phẫu
Dây thần kinh sọ VII cũng là một dây hỗn hợp. Phần vận động bao gồm nhân lưng (chi
phối các cơ trán, cơ da mặt trên, nửa trên cơ vòng mi), nhân bụng chi phối cho các cơ ở nửa dưới
của mặt. Phần cảm giác và giao cảm (còn được gọi là dây VII’, hay thần kinh Wrisberg) chi phối
cảm giác vị giác cho 2/3 trước lưỡi, ống tai ngoài, màng nhĩ…và chức năng phân tiết của tuyến
lệ và các tuyến nước bọt.
5.2. Khám
Mặc dù là khi khám thần kinh thường quy, chúng ta thường không khám vị giác; nhưng
chúng ta biết dây VII phân bố vị giác 2/3 trước của lưỡi, cùng với vòm miệng mềm và vòm
miệng cứng. Có thể khám vị giác bằng dung dịch mặn, đắng, chua, hoặc ngọt.
Hình 12: chi phối vận động trung ương và ngoại biên cho cơ vùng mặt. Vùng trán mỗi bên
nhận sợi trục chi phối của neuron vận động trên (Upper Motor Neuron: UMN) từ hai bán
cầu, trong khi vùng mặt thấp hơn chỉ nhận sợi trục chi phối của UMN từ bán cầu đối bên3
Bắt đầu quan sát các cử động vùng mặt BN trong suốt quá trình hỏi bệnh. Chú ý các cử
động của co mặt khi BN nói chuyện hoặc biểu lộ cảm xúc. Một số bệnh lý ví dụ như hội chứng
Parkinson hoặc trầm cảm có thể làm giảm cử động toàn bộ cơ mặt hai bên (còn gọi là masked
face: mặt có đeo mặt nạ).
Quan sát xem có những biểu hiện rối loạn vận động khác trên mặt như co thắt mí mắt
(blepharospasm), co thắt cơ nửa mặt (hemifacial spasm), tics…
Tiếp theo, quan sát tính đối xứng của: nếp mũi má hai bên (bằng cách yêu cầu BN nhăn
hàm răng), cơ vòng mi hai bên (yêu cầu BN nhắm chặt mắt lại), và nếp nhăn trán hai bên (yêu
cầu BN nhăn trán ngước nhìn lên trên). Trong những trường hợp có liệt mặt nặng, thường sẽ dễ
nhận ra. Tuy vậy, trong những trường hợp có liệt mặt nhẹ, cần quan sát kỹ tính bất đối xứng của
một bên mặt. Cũng có thể gặp một số trường hợp bất đối xứng bẩm sinh (ví dụ nếp mũi má một
bên mờ nhẹ hơn so với bên còn lại), khi đó cần hỏi lại bệnh sử để biết xem sự bất đối xứng này
mới xuất hiện hay đã có từ trước.
Hình 13: BN bên (P) có liệt mặt bên (P) kiểu trung ương (mặt bên (P) của BN chỉ có mất nếp
mũi má, vẫn còn nhắm mắt được). BN bên (T) có liệt mặt bên (T) kiểu ngoại biên (mặt bên
(T) của BN mất nếp mũi má, và mắt nhắm không kín)
6. Dây VIII
6.1. Giải phẫu
Dây thần kinh VIII xuất phát từ hạch tiền đình và hạch ốc tai trong mê đạo của tai trong.
Nó vào trong thân não tiếp hợp tại nhân tiền đình, và nhân ốc tai thuộc điểm nối giữa cầu và
hành não (Hình 14).
Hình 16: BN A có vòm hầu nâng đều hai bên (bình thường). BN B có vòm hầu bên (P) nâng
lên kém hơn bên (T) (liệt dây IX, X bên (P))
8. Dây XI (thần kinh phụ)
8.1. Giải phẫu
Dây XI bao gồm 2 thành phần. Phần sọ (hay còn gọi là phần phụ: accessory) xuất phát từ
nhân mơ hồ (hành não), và chi phối cho các cơ của thanh quản; phần này đi chung với dây XI
trong hộp sọ, nhưng khi ra khỏi hộp sọ, thì đi chung với dây X. Phần tủy gai (spinal) xuất phát từ
mặt bên của sừng trước tủy sống cổ đoạn từ C1 đến C5 hoặc C6 (Hình 17).
Phần tủy gai chi phối cho cơ ức đòn chũm và một phần ba bên cơ thang (hai phần ba dưới
của cơ này do đám rối cổ chi phối). Khám dây XI chỉ khám phần tủy gai.
Hình 17: Sơ đồ của dây thần kinh phụ, nhìn từ bên dưới
8.2. Khám
Quan sát kích thước và tính đối xứng của cơ ức đòn chũm và phần trên của cơ thang hai
bên.
Khám sức cơ ức đòn chũm bên (P) bằng cách yêu cầu BN xoay đầu qua (T) để chống lại
sức cản của bàn tay người khám, và ngược lại. Khám sức cơ thang bằng cách yêu cầu BN nâng
hai vai lên trên chống lại sức cản bàn tay người khám. So sánh sức cơ hai bên.
9. Dây XII
9.1. Giải phẫu
Dây XII xuất phát từ nhân hạ thiệt nằm tại hành não, và chi phối tất cả các cơ của lưỡi.
Hình 18: chi phối hoạt động của cơ lưỡi. Hình nhỏ bên (P) cho thấy khi chỉ cơ lưỡi bên (P)
co, nó sẽ kéo phần nền của lưỡi bên (P) ra trước, làm lưỡi thè ra ngoài và đầu lưỡi lệch về
bên (T)
9.2. Khám
Quan sát cơ lưỡi lúc lưỡi đang ở trạng thái nghỉ ngơi là triệu chứng quan trọng nhất đối
với tổn thương dây XII. Quan sát xem có teo cơ lưỡi hoặc rung giật cơ lưỡi ở bên nào hay không.
Một số bệnh lý gây tổn thương neuron vận động dưới hai bên (ví dụ như trong bệnh xơ cứng cột
bên teo cơ: ALS (Amyotrophic Lateral Sclerosis)) gây ra teo cơ lưỡi và rung giật cơ lưỡi hai bên.
Khám sức cơ lưỡi bằng cách yêu cầu BN thè lưỡi thẳng ra trước. Bình thường đầu lưỡi
nằm ngay đường giữa. Nếu cơ lưỡi bên nào bị yếu (do tổn thương dây XII) thì đầu lưỡi sẽ lệch
về bên đó.
Hình 19: Liệt dây XII bên (P). BN được yêu cầu thè lưỡi thẳng ra trước. Lưỡi bên (P) teo và
đầu lưỡi lệch về bên (P)