Professional Documents
Culture Documents
Cơ sở lý thuyết
2.1. Hành vi tiêu dùng
Theo Kotler & Armstrong (2014), hành vi của người tiêu dùng đề cập đến hành vi mua
hàng của người dùng cuối - cá nhân và các hộ gia đình mua hàng hoá và dịch vụ để tiêu
dùng cá nhân. Trong khi đó, theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, hành vi của người tiêu
dùng là sự tương tác giữa các tác nhân kích thích môi trường và nhận thức và hành vi của
con người làm thay đổi cuộc sống của họ. Nói cách khác, hành vi của người tiêu dùng
bao gồm những suy nghĩ và cảm xúc mà con người có và những hành động họ thực hiện
trong quá trình tiêu dùng. Các yếu tố như ý kiến của người tiêu dùng khác, quảng cáo,
thông tin giá cả, bao bì, ngoại hình sản phẩm… có thể ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ
và hành vi của khách hàng.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng
Theo Kotler & Armstrong (2014), các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu
dùng bao gồm Văn hóa (bao gồm nền văn hóa, nhánh văn hóa, Tầng lớp Xã hội), Xã hội
(Nhóm tham khảo, gia đình, vai trò và địa vị), Cá nhân (Tuổi đời và giai đoạn của chu kỳ
cuộc sống: Nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, lối sống, Nhân cách và ý thức), Tâm lý
(Động cơ, kiến thức, đức tin và quan điểm), Tiếp thị hỗn hợp (Quảng cáo, giá cả, các
kênh phân phối)
2.3. Mô hình lý thuyết hành vi hoạch định (TPB)
Lý thuyết hành vi được đề xuất là sự phát triển và cải thiện Lý thuyết Hành động Lý
luận của Ajzen và Fishbein (1975) và là lý thuyết thường được sử dụng để dự đoán một
hành vi cụ thể của bất kỳ cá nhân nào, nó có thể là hành động lựa chọn mua sản phẩm
hoặc dịch vụ, hành vi có chọn lựa chọn,... Mối quan hệ giữa quyết định và hành vi đã
được đưa ra và kiểm chứng qua nhiều nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực bao gồm quản trị
kinh doanh, tiếp thị, tâm lý học. Hai yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định là thái độ cá
nhân và các chuẩn mực chủ quan. Đặc biệt, thái độ cá nhân được đo lường bằng niềm tin
và đánh giá cao kết quả của hành vi đó. Ajzen (1991) định nghĩa các chuẩn mực chủ quan
là nhận thức của những người ảnh hưởng rằng cá nhân nên cư xử hoặc không thực hiện
một số hành vi nhất định.
Thái độ đối với hành vi được định nghĩa là cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố tâm lý và tình huống
Tiêu chuẩn chủ quan (SN) hoặc ý thức ảnh hưởng của cộng đồng được định nghĩa
là "nhận thức về áp lực xã hội đối với việc có nên hành động hay không"
Kiểm soát hành vi cảm nhận phản ánh sự dễ dàng hoặc khó khăn trong việc thực
hiện hành vi và liệu hành vi đó có được kiểm soát hay hạn chế hay không. Cả ba
yếu tố này đều ảnh hưởng đến ý định hành vi.
Mô hình lý thuyết hành vi hoạch định (TPB) (Ajzen, 1991)
Theo Ajzen và Fishbein (1975), Thuyết hành vi hợp lý cho thấy hành vi tiêu dùng
(Actual behavior) được quyết định bởi ý định thực hiện hành vi đó. Ý định thực hiện
hành vi chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố: Thái độ và ảnh hưởng xã hội đối với hành vi. Mô
hình TRA đã được ứng dụng và kiểm chứng bởi rất nhiều nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau (Sheppard, Hartwick, & Warshaw, 1988).
Nắm bắt được thái độ và hành vi của người tiêu dùng (khuynh hướng hành vi là một
phần của thái độ hướng tới hành vi, các chuẩn chủ quan), từ đó nhóm có thể đưa ra các
chiến lược Marketing hợp lý.
Mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) (Ajzen và Fishbein, 1975)
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), thanh niên
ở độ tuổi từ 15 đến 24. Chủ đề này nhắm vào sinh viên là những thanh niên từ 18 đến 24
tuổi vì hai lý do:
Những người ở độ tuổi 18 được trang bị kiến thức thông thường nhất,
Sinh viên là những thanh niên ở độ tuổi có sức khỏe tập trung cao nhất, có khát
vọng vươn lên mạnh mẽ và điều kiện thể hiện ý chí, khát vọng thông qua học tập, lao
động, sáng tạo. Thanh niên tự tin, năng động và nhiệt huyết, lớn lên trong kỷ nguyên
bùng nổ công nghệ thông tin và có điều kiện cập nhật xu hướng mới, ẩm thực cũng không
ngoại lệ. Tại TP HCM - một trung tâm kinh tế với dân số khoảng 10 triệu người, môi
trường làm việc hài hòa với lối sống bận rộn, đối mặt với thời gian và tài chính hạn chế,
thức ăn nhanh rất hấp dẫn, đặc biệt đối với giới trẻ ngày nay. Nhìn chung, thanh niên đến
các cửa hàng thức ăn nhanh với các thương hiệu quốc tế và trong nước để ăn tối vì điều
đó mang lại cho họ cảm giác xa xỉ. Ngoài ra, thanh niên chọn cửa hàng thức ăn nhanh vì
không gian thoải mái để ngồi ăn với bạn bè, đồng nghiệp, người yêu… vào buổi trưa, vào
ngày sinh nhật hoặc cuối tuần. Khảo sát Truyền thông Xã hội của Buzz Metric (2015)
cho thấy các chương trình khuyến mãi giảm giá cũng là một yếu tố thu hút giới trẻ. Trong
thời kỳ kinh tế tiêu cực, thanh niên đang quay sang các cửa hàng thức ăn nhanh để đáp
ứng không chỉ sự tiện lợi, nhỏ gọn, ít tốn thời gian hơn mà còn cả giá cả hợp lý để tiếp
tục làm việc, học tập sau. Đây là khu vực thức ăn nhanh trong các cửa hàng tiện lợi, siêu
thị và siêu thị.các chương trình khuyến mãi giảm giá cũng là một yếu tố thu hút giới trẻ.
Trong thời kỳ kinh tế tiêu cực, thanh niên đang quay sang các cửa hàng thức ăn nhanh để
đáp ứng không chỉ sự tiện lợi, nhỏ gọn, ít tốn thời gian hơn mà còn cả giá cả hợp lý để
tiếp tục làm việc, học tập sau. Đây là khu vực thức ăn nhanh trong các cửa hàng tiện lợi,
siêu thị và siêu thị.
Theo Abraham Maslow, Thuyết cấp bậc nhu cầu của ông nhằm giải thích những nhu
cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến
cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
Thuyết cấp bậc nhu cầu của Abraham Maslow được đánh giá rất cao vì nó có một ẩn ý
quan trọng đối với các nhà quản lý là muốn động viên nhân viên thì cần phải biết người
lao động của mình đang ở cấp độ nhu cầu nào, để từ đó có các giải pháp phù hợp cho việc
thoả mãn nhu cầu người lao động đồng thời bảo đảm đạt đến các mục tiêu của tổ chức.
Không những thế, thuyết của Maslow được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đặc
biệt trong lĩnh vực Marketing. Ứng dụng giúp dễ dàng hơn trong nghiên cứu nhu cầu của
con người bao gồm cơ sở phân đoạn khách hàng, lựa chọn đúng phương thức tiếp cận
khách hàng mục tiêu, tăng hiệu quả kinh doanh từ việc hiểu thấu khách hàng.
Theo quan điểm của Philip Kotler, khách hàng được chia thành năm nhóm sau:
Khách hàng là người tiêu dùng: Là những cá nhân và hô ̣ gia đình mua hàng hóa
và dịch vụ để sử dụng cho cá nhân.
Khách hàng là các nhà sản xuất: Là các tổ chức mua hàng và dịch vụ để sử dụng
chúng trong quá trình sản xuất.
Khách hàng là nhà buôn bán trung gian: Là các tổ chức mua hàng và dịch vụ để
sau đó bán lại kiếm lời.
Khách hàng là các cơ quan nhà nước: Những tổ chức nhà nước mua hàng và
dịchvụđểsauđósửdụngtronglĩnhvựcdịchvụcôngcôṇghoăc ̣chuyểngiaohàng hóa và
dịch vụ đó cho những người cần đến nó.
Khách hàng quốc tế: Khách hàng quốc tế là những người mua hàng ở nước ngoài
bao gồm những người tiêu dùng, sản xuất bán trung gian và các cơ quan nhà nước
ở ngoài nước.