You are on page 1of 39

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN

Đề tài:

Tìm hiểu về Hội nghị Giơnevơ và Hiệp định Giơnevơ về chấm


dứt chiến tranh lặp lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954.
Rút ra nhận xét.

Nhóm: 3
Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã lớp học phần: 2261HCMI0131
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Thị Thắm
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
PHẦN 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VÀ HIỆP
ĐỊNH GIƠNEVƠ.........................................................................................................2
1.1. Hoàn cảnh Việt Nam......................................................................................2
1.2. Hoàn cảnh của Pháp.......................................................................................3
1.3. Tình hình thế giới...........................................................................................4
PHẦN 2: HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VÀ NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG
1954............................................................................................................................... 6
2.1. Diễn biến hội nghị Giơnevơ...........................................................................6
2.2. Kết quả của Hội nghị Giơnevơ......................................................................7
2.3. Nội dung của Giệp định Giơnevơ..................................................................8
2.3.1. Khái niệm.................................................................................................8
2.3.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ...............................................8
2.4. Ý nghĩa của Hiệp định Giơnevơ..................................................................24
PHẦN 3: RÚT RA NHẬN XÉT................................................................................26
3.1. Những thành công của Hội nghị Giơnevơ đối với Việt Nam. Nguyên nhân
………………………………………………………………………………………26
3.1.1. Thành công.............................................................................................26
3.1.2. Nguyên nhân..........................................................................................29
3.2. Những hạn chế của Hội nghị Giơnevơ tác động đến Việt Nam. Nguyên
nhân .......................................................................................................................31
3.2.1. Hạn chế...................................................................................................31
3.2.2. Nguyên nhân..........................................................................................31
3.3. Rút ra bài học cho Đảng và Nhà nước ta....................................................33
KẾT LUẬN................................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................36
LỜI MỞ ĐẦU

Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc, nhìn lại lịch sử 67 năm Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương cho thấy, thắng
lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam đã khẳng định đường lối đấu tranh cách mạng tiến
công, biết dừng để tiến và tiến vững chắc đến mục tiêu cuối cùng là nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh cách mạng của Đảng ta. Để lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống
thực dân Pháp đi đến thắng lợi, Đảng ta đã có tầm nhìn xa và phương pháp đấu tranh
cách mạng đúng đắn, không chủ quan khinh địch, thắng không kiêu, biết thắng từng
bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Ngày nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và các vấn đề liên quan đến
lợi ích quốc gia, dân tộc… bằng biện pháp hòa bình đang là xu thế thời đại. Vì vậy,
nghiên cứu, phát triển bài học về nghệ thuật biết thắng từng bước trong Hội nghị
Giơnevơ là cơ sở quan trọng để đề ra những giải pháp có tính khả thi cao, nhằm phát
triển đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Mục tiêu của bài
nghiên cứu là nêu thực trạng, đánh giá về hội nghị Giơnevơ và Hiệp định Giơnevơ về
chấm dứt chiến tranh lặp lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954. Với đối tượng nghiên
cứu của đề tài là: Tìm hiểu về hội nghị Giơnevơ và Hiệp định Giơnevơ năm 1954 cùng
với phương pháp nghiên cứu chính là phân tích – tổng hợp. Xuất phát từ vấn đề đã
nêu, nhóm 3 quyết định lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về hội nghị Giơnevơ và Hiệp định
Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lặp lại hòa bình ở Đông Dương năm 1954” làm đề
tài nghiên cứu cho bài thảo luận.

1
PHẦN 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VÀ HIỆP
ĐỊNH GIƠNEVƠ

1.1. Hoàn cảnh Việt Nam


Trải qua 8 năm kháng chiến Vào Thu Đông năm 1953, lực lượng ta trên chiến
trường đã giành được chủ động tiến công trên chiến trường chính. Quân ta đã liên tiếp
mở bốn chiến dịch lớn thắng lợi: giải phóng Lai Châu ở Tây Bắc (10/12/1953), tiến
quân vào Thà Khẹt (25/12/19530 ở Trung và Hạ Lào, giải phóng khu vực sông Nậm
Líu và Phong Sa Lỳ (26/11/1953) ở Thượng Lào và giải phóng Kon Tum ở Tây
Nguyên.
Vào mùa hè năm 1953, Pháp đã gặp nhiều khó khăn lớn ở Đông Dương: phân
tán làm nhiệm vụ, thiếu quân cơ động, nhiều ngụy quân và tinh thần giảm sút. Để cứu
vãn tình hình, chính phủ Pháp thông qua kế hoạch Nava gồm hai giai đoạn:
– Từ năm 1953 đến 1954: Phòng ngự chiến lược ở miền Bắc Việt Nam, tấn công
chiến lược ở Nam vĩ tuyến 18 đi đôi với việc tăng cường quân cơ động bằng xây dựng
ngụy quân và tăng viện từ Pháp sang.
– Từ năm 1954 đến 1955: Tấn công chiến lược miền Bắc giành lấy thắng lợi
quân sự to lớn, buộc ta phải đình chiến theo điều kiện của Pháp.
Để thực hiện kế hoạch trên trong Hè – Thu năm 1953, Nava liên tiếp mở hàng
chục cuộc tấn công càn quét, chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ,
nhảy dù tập kích Lạng Sơn (07/1953) tăng cường biệt kích thổ phỉ ở Lào Cai, Lai
Châu, Sơn La mở cuộc tấn công lớn gọi là chiến dịch Hải Âu vào vùng Nho Quan
(Ninh Bình), tuyên bố giành được chủ động chiến trường. Nhưng bị tổn thất nặng nề
phải rút quân.
Trước tình hình đó, tháng 09/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam họp ở Định Hóa (Thái Nguyên) thông qua kế hoạch tác
chiến Đông Xuân năm 1953 – 1954, nhằm làm thất bại kế hoạch Nava của địch. Trong
khi thể hiện quyết tâm tiến công địch, làm thất bại kế hoạch Nava của thực dân Pháp
và kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt
Nam cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề Việt
Nam.
Ngày 13/03/1954 ta mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và
sau 55 ngày chiến đấu ta tiêu diệt hoàn toàn Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của quân dân ta trong cuộc tiến công chiến lược đông – xuân 1953 –
1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đã đập tan cố gắng quân sự cao nhất và cũng
là cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp và sự giúp sức của đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó
giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục
2
diện chiến tranh và tạo cơ sở thực lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao để kết
thúc cuộc kháng chiến.
1.2. Hoàn cảnh của Pháp
Nước Pháp bị kiệt quệ trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phải nhờ vào
viện trợ của Mỹ ngày càng nhiều và do đó càng bị lệ thuộc vào Mỹ và chắc chắn sẽ bị
Mỹ hất cẳng.
Trước sự thất bại ngày càng lớn ở Đông Dương, Pháp rất lúng túng: không tăng
viện cho Đông Dương thì quân đội viễn chinh Pháp có nguy cơ bị tiêu diệt, mà tăng
viện từ Pháp hoặc lấy quân từ Bắc Phi sang, sẽ làm yếu lực lượng ở Châu Âu, có nguy
cơ Mỹ sẽ đẩy nhanh việc phục hồi quân đội phát xít Đức ở Châu Âu trong cái gọi là
phòng thủ Châu Âu: CED, là một hiểm họa truyền thống của nước Pháp, và không đủ
lực lượng đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Bắc Phi.
Vấn đề cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương trở thành cấp bách đối
với Pháp không những để duy trì quyền lợi của chúng ở Đông Dương mà còn đối với
cả quyền lợi của Pháp ở Châu Âu và Bắc Phi.
Trên đất Pháp, phong trào nhân dân Pháp đòi chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn
thỉu ở Đông Dương ngày càng phát triển mạnh. Giai cấp tư sản Pháp phân hoá thành
hai lực lượng chủ hòa và chủ chiến đối lập nhau.
Sau một loạt những thất bại quân sự, Chính phủ Pháp đã 7 lần thay tổng chỉ huy
quân đội Pháp ở Đông Dương mà không cải thiện tình hình, quân Pháp trên chiến
trường ngày càng lâm vào thế phòng ngự bị động. Tháng 05/1953, Chính phủ Pháp cử
Nava làm Tổng tư lệnh Pháp ở Đông Dương. Để kết thúc chiến tranh trong danh dự,
ngày 27/04/1953, Hội đồng Quốc phòng Pháp đã thông qua kế hoạch Nava.
Theo đó, từ mùa thu năm 1954, quân Pháp sẽ tiến công chiến lược giành những
thắng lợi quân sự quyết định buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện của
Pháp. Như vậy, kế hoạch Nava đã chứa đựng mục tiêu thương lượng nhưng là thương
lượng trên thế mạnh. Trong khi Nava đang triển khai kế hoạch của mình ở Đông
Dương thì tại Paris, ngày 12/11/1953, Thủ tướng Lanien, mặc dù là người của phái
“chủ chiến” nhưng trước sức ép của dư luận, nhất là các nghị sĩ phản chiến cũng phải
tuyên bố “Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc
khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho
cuộc xung đột”.
Chỉ sau 8 ngày tuyên bố của Thủ tướng Pháp, ngày 20/11/1953, Nava cho quân
nhảy dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ, do nhận được tin tình báo Đại đoàn 316
của Việt Minh đang hành quân về phía Tây Bắc. Quân Pháp đã nhanh chóng xây dựng
lòng chảo Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông
Nam Á.
3
Sau khi kế hoạch Nava được thông qua, ngày 27/07/1953, cuộc chiến tranh
Triều Tiên cũng đồng thời chấm dứt bằng Hiệp định Bàn Môn Điếm. Đình chiến ở
Triều Tiên đã ảnh hưởng đến ngay dư luận nước Pháp, phong trào phản chiến ở Pháp
lên cao.
1.3. Tình hình thế giới
Về phía Mỹ, Mỹ đặt Đông Dương trong phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở
Châu Á – Thái Bình Dương, như ngoại trưởng Dulles tuyên bố ngày 13 tháng Giêng
1954: “Đứng về chiến lược, quyền lợi của Mỹ ở vùng viễn đông gắn chặt với các đảo ở
bờ biển vùng đó. Các đảo đó có hai cứ điểm ở trên lục địa: phía bắc là Triều Tiên và
phía nam là Đông Dương”. Vì vậy, Mỹ tăng cường can thiệp và dính líu sâu vào Đông
Dương, tiếp tục viện trợ cho Pháp và không muốn Pháp đàm phán với Việt Minh. Có
thể nói, sự can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh Đông Dương sẽ làm cho tiến trình
lập lại hòa bình ở Đông Dương càng khó khăn hơn.
Vào thời điểm này, Liên Xô bắt đầu thực hiện chính sách ngoại giao hòa hoãn.
Vì vậy, Liên Xô muốn đi đến một giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông Dương để ngăn
chặn Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Về phía Trung Quốc, sau khi thoát khỏi cuộc chiến tranh Triều Tiên, đang
muốn tập trung vào khôi phục kinh tế, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, củng cố
chế độ dân chủ nhân dân, cũng chủ trương sớm giải quyết lập lại hòa bình ở Đông
Dương, ngăn chặn đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, bảo đảm hòa bình và an ninh cho
Trung Quốc ở phía Đông Nam.
Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết nhất chí và gương cao
ngọn cờ chống đế quốc gây chiến, bảo vệ hòa bình, ủng hộ phong trào giải phóng dân
tộc.
Song song với sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân
tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở Nam Á, Đông Nam Á, Trung Cận Đông, Châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia vào liên minh quân sự với các
nước phương Tây, phát triển trong các nước mới giành được độc lập như 5 nước
Colomb, Miến Điện, Ấn Độ, Pa-ki-xtan, In-đô-nê-xi-a và chủ nghĩa dân tộc Nát-xe ở
Ai Cập.
Hai phe đều tranh thủ tập hợp lực lượng và đấu tranh quyết liệt. Nhưng so sánh
lực lượng lúc bấy giờ, hai phe đã có hòa hoãn, chấp nhận đình chiến tại Triều Tiên
(1953) sau đó thỏa thuận họp hội nghị Bá Linh (01/1954) để bàn giải quyết hòa bình
vấn đề Triều Tiên và bàn việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Kết quả hội nghị này
hai phe đồng ý triệu tập hội nghị Giơnevơ vào ngày 26/04/1954.

4
 Trước tình hình trong nước, tình hình chính nước Pháp và các vấn đề đang diễn
ra trên thế giới thì việc tiếp tục xung đột vũ trang là điều không thể chấp nhận. Sự
phản đối chiến tranh của dư luận, sự thiệt hại vô tội về người và của ở cả nước thuộc
địa và chính quốc dần đưa chúng ta đến bàn đàm phán cần chấm dứt chiến tranh, lặp
lại hòa bình, tự do cho các dân tộc thuộc địa. Tại Paris, ngày 12/11/1953, Thủ tướng
Lanien, mặc dù là người của phái “chủ chiến” nhưng trước sức ép của dư luận, nhất là
các nghị sĩ phản chiến cũng phải tuyên bố “Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong
khung cảnh địa phương hoặc khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận
một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột”.
Đình chiến ở Triều Tiên cũng ảnh hưởng tới dư luận thế giới và quan điểm của
các nước lớn trong việc giải quyết các cuộc chiến tranh khu vực. Báo Sao đỏ của Liên
Xô ra ngày 03/08/1953 viết “Đình chiến ở Triều Tiên cần thúc đẩy việc chấm dứt
chiến tranh ở Đông Dương”.
Về phía ta, Đảng Lao động Việt Nam trước sau vẫn khẳng định cuộc chiến
tranh chống lại thực dân Pháp là cuộc kháng chiến trường kỳ, tránh nguy cơ “hòa bình
giả hiệu”. Tình hình quốc tế và diễn biến của cuộc kháng chiến đến đây đã đặt ra ra
cho cách mạng Việt Nam một thời cơ kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao. Đảng ta nhận định rằng: “Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến do thương
lượng hòa bình mà đi đến đình chiến. Chiến tranh Triều Tiên là một thí dụ. Hiện nay
đường lối chung của phe ta trên thế giới là: dùng mọi cách để gây lại và tăng cường
hòa hoãn quốc tế, giữ gìn củng cố hòa bình thế giới và tình hữu nghị giữa các dân
tộc” và “Vấn đề Việt Nam cũng như các vấn đề tranh chấp khác trên thế giới có thể
giải quyết bằng cách thương lượng hòa bình”. Từ nhận định trên, Đảng ta quyết định,
mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao để phối hợp với cuộc tiến công chiến lược
Đông – Xuân 1953 – 1954. Ngày 26/11/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời với báo
Thụy Điển “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy
mươi năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải
quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”, “Cơ sở của việc đình chiến tại Việt Nam
là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của Việt Nam” và “Việc
thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa với Chính phủ Pháp”. Tại hội nghị hòa bình họp ở Viên (Áo) từ ngày 23 đến
ngày 28/11/1953, đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Lê Đình Thám đã chấp
nhận cuộc thương lượng hòa bình ở Đông Dương. Từ đó dẫn đến Hội nghị Giơnevơ
được tổ chức bên cạnh đàm phán về vấn đề Triều Tiên còn thực hiện việc chấm dứt
chiến tranh, lặp lại hòa bình ở Đông Dương 1954.

5
PHẦN 2: HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ VÀ NỘI DUNG CỦA HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
VỀ CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HÒA BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG
1954

2.1. Diễn biến hội nghị Giơnevơ


Tháng 01/1954, ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp đã họp tại
Berlin và quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Geneva (Thụy Sĩ) để giải
quyết hai vấn đề: Chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
 Giai đoạn 1: Từ 26/04/1954 đến 07/05/1954: Hội nghị bàn về những vấn đề
thuộc chiến tranh Triều Tiên
Ngày 26/04/1954, khi Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc chiến dịch tấn
công đợt 2 và chuẩn bị tấn công đợt ba để quyết định số phận quân viễn chinh Pháp ở
Điện Biên Phủ thì Hội nghị Giơnevơ bắt đầu được khai mạc. Tham dự Hội nghị lúc
này bao gồm đại diện 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam (chính phủ Bảo Đại), Vương quốc Lào, Vương quốc
Campuchia. Đại diện lực lượng kháng chiến Pathet Lào và Khmer Issarak tuy đã có
mặt ở Giơnevơ cùng với Đoàn ta nhưng không được các đoàn phương Tây chấp nhận
tham dự Hội nghị. Thời gian đầu, Hội nghị tập trung bàn về vấn đề chiến tranh Triều
Tiên, chưa bàn về vấn đề Đông Dương.
Ngày 07/05/1954, tin quân Pháp thất bại hoàn toàn ở chiến trường Điện Biên
Phủ gây “chấn động địa cầu”, xôn xao dư luận quốc tế.
 Giai đoạn 2: Từ 08/05/1954 đến 21/07/1954: Hội nghị bàn về các vấn đề ở
Đông Dương
Sáng ngày 08/05/1954, vấn đề Đông Dương chính thức được đưa lên bàn nghị
sự. Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn
bước vào bàn Hội nghị với tư thế đại biểu cho một dân tộc chiến thắng. Bản đề nghị 8
điểm nổi tiếng của Phạm Văn Đồng cũng được đưa ra làm cơ sở thảo luận tại Hội
nghị, bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân các nước thuộc địa và các nước thực
dân, đặc biệt là đối với nhân dân và chính phủ Pháp.
Về thành phần tham gia Hội nghị, Việt Nam có hai đồng minh lớn là Liên Xô
và Trung Quốc nhưng lại phải đấu tranh với 6 bên còn lại. Do lập trường giữa các
đoàn có khoảng cách khá lớn nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm chạp. Một
mặt, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên phải tham gia công
nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia, cô
lập bọn chủ chiến ở Pháp và bọn can thiệp Mỹ, làm cho nhân dân Pháp thấy chính phủ
Pháp của thủ tướng Laniel lúc bấy giờ là hiếu chiến cần phải thay đổi thì Hội nghị
6
Giơnevơ mới thu được kết quả. Đồng thời, Đoàn Việt Nam phải triệt để tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài Hội nghị. Trong khi đó, lập trường của các
đoàn đại biểu các nước phương Tây là hiếu chiến. Đoàn đại biểu Mỹ âm mưu kéo dài
và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, thay chân Pháp xâm lược Đông Dương. Đoàn
đại biểu của Vương quốc Anh thì chủ trương ủng hộ Pháp thương lượng trên thế
mạnh. Phái chủ chiến của Pháp nhận đàm phán với Việt Nam để tránh búa rìu dư luận
và tránh bị nhân dân Pháp lật đổ, đồng thời cứu nguy cho quân đội Pháp ở Đông
Dương. Tuy nhiên, Đoàn Pháp và Đoàn Mỹ bị ba đoàn Việt Nam, Liên Xô và Trung
Quốc kịch liệt lên án về chủ tâm phá hoại Hội nghị.
Kết quả là, Đoàn Pháp vẫn giữ lập trường cứng rắn, nội các của thủ tướng
Laniel bị nhân dân Pháp lên án, buộc phải từ chức vào ngày 12/06/1954. Phe chủ chiến
ở Pháp bị đánh đổ, Mendès France thuộc phái chủ hòa lập chính phủ mới. Ngày
18/06/1954, khi nhậm chức, ông Mendès France tuyên bố sẽ từ chức, nếu trong vòng
một tháng không đạt được ngừng bắn ở Đông Dương. Vào thời điểm này, tại Sài Gòn,
Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng thay Bửu Lộc dưới quyền Bảo Đại.
Cuối giai đoạn này, các bên tham gia đàm phán vẫn thăm dò lẫn nhau về giải
pháp và đưa ra lập trường của mình mà không đi đến một thỏa thuận thực chất nào. Từ
ngày 10 đến ngày 20/7/1954 là giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán. Các đoàn làm
việc rất khẩn trương để giải quyết những vấn đề then chốt. Về vấn đề đình chiến ở Lào
và Campuchia, Đoàn Việt Nam đấu tranh quyết liệt nhưng chỉ giành được khu tập kết
cho Pathet Lào ở hai tỉnh, mà không đạt được việc điều chỉnh vùng đóng quân cho
Khmer Issarak.
Về vấn đề giới tuyến phân vùng và thời hạn tuyển cử ở Việt Nam, Đoàn Việt
Nam kiên trì với vĩ tuyến 16 và tổng tuyển cử sớm. Ngày 19/07/1954, ba đoàn Việt
Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất đưa cho đoàn Pháp phương án cuối cùng giới
tuyến đi qua đường số 9 mười km. Phương án này được Đoàn Việt Nam gợi ý từ tháng
6, nhưng phía Pháp vẫn đòi đi qua vĩ tuyến 18. Tại cuộc họp đêm 20/07/1954, 5 trưởng
đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam vào phút chót mới thỏa thuận lấy
vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng và thời hạn tổng tuyển cử ấn định là hai năm.
2.2. Kết quả của Hội nghị Giơnevơ
Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng, với thiện chí
của phái đoàn Việt Nam, ngày 20/07/1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến tranh
ở Đông Dương được ký kết. Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở ba nước và Tuyên bố
cuối cùng của Hội nghị tạo thành khung pháp lý của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông
Dương. Các nước tham gia Hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Theo Hiệp định đã ký kết,
nước Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17, các bên tham gia
7
Hội nghị nhấn mạnh rằng “Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới
chính trị hay lãnh thổ”. Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước
tháng 7 năm 1956 bằng tổng tuyển cử “tự do và dân chủ”. Quân Pháp phải rút quân
khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có
quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại.
Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Giám sát
quốc tế gồm có Ba Lan, Ấn Độ và Canada sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản
của Hiệp định.
2.3. Nội dung của Hiệp định Giơnevơ
2.3.1. Khái niệm
Hiệp định Giơnevơ (Genève) năm 1954 là hiệp định đình chiến được ký kết tại
thành phố Geneva – Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định này
dẫn đến việc chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương và
chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Hiệp định được hình thành sau 75 ngày đàm phán với 8 phiên họp rộng và 23
phiên họp hẹp cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động
công khai.
Hiệp định được ký kết vào ngày 20/07/1954. Hiệp định Giơnevơ gồm các văn
bản: Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia; Bản Tuyên bố cuối
cùng của hội nghị và các phụ bản khác.
2.3.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ
 Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam

CHƯƠNG I: GIỚI TUYẾN QUÂN SỰ VÀ KHU PHI QUÂN SỰ


Điều 1. Một giới tuyến quân sự tạm thời sẽ được quy định rõ để lực lượng của
hai bên, sau khi rút lui sẽ tập hợp ở bên này và bên kia giới tuyến ấy: lực lượng quân
đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc giới tuyến, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp ở
phía Nam giới tuyến.
Giới tuyến quân sự tạm thời quy định như trong bản đồ kèm theo:
Hai bên đều đồng ý có một khu phi quân sự hai bên giới tuyến, mỗi bên rộng
nhất là 5 cây số kể từ giới tuyến trở đi. Khu phi quân sự này dùng để làm khu đệm và
để tránh những việc xung đột có thể làm cho chiến sự xây trở lại.
Điều 2. Thời hạn cần thiết để thực hiện việc di chuyển hoàn toàn các lực lượng
của hai bên giới tuyến quân sự tạm thời không được quá ba trăm ngày, kể từ ngày hiệp
định này bắt đầu có hiệu lực.

8
Điều 3. Khi giới tuyến quân sự tạm thời trùng với một dòng sông, thì thuyền bè
của dân đều có thể đi lại trên những khúc sông nào mà mỗi bờ sông do mỗi bên kiểm
soát. Ban liên hợp sẽ quy định thể lệ đi lại trên khúc sông ấy.
Điều 4. Giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai vùng tập hợp kéo dài ra ngoài hải
phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.
Lực lượng Liên hiệp Pháp sẽ rút khỏi tất cả các hải đảo ven bờ biển thuộc phía
Bắc giới tuyến ấy, quân đội nhân dân Việt Nam sẽ rút khỏi tất cả các hải đảo thuộc
phía Nam.
Điều 5. Để tránh những sự xung đột gây lại chiến sự, tất cả các lực lượng. vật
liệu và dụng cụ quân sự đều phải đưa ra khỏi khu phi quân sự trong thời hạn hai mươi
nhăm ngày kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực.
Điều 6. Bất cứ người nào, hoặc quân nhân, hoặc người người, đều không được
vượt qua giới tuyến quân sự tạm thời, nếu không được phép rõ ràng của Ban liên hợp.
Điều 7. Bất cứ người nào, hoặc quân nhân, hoặc người thường, đều không được
vào trong khu phi quân sự, trừ những người có trách nhiệm về hành chính dân sự và về
tổ chức cứu tế, và những người được phép rõ ràng của Ban liên hợp.
Điều 8. Việc hành chính và tổ chức cứu tế ở trong khu phi quân sự, mỗi bên
giới tuyến quân sự tạm thời thuộc vùng của bên nào thì do Tổng tư lệnh của bên ấy
phụ trách. Số người, quân nhân và người thường, của mỗi bên được phép vào trong
khu phi quân sự để đảm bảo việc hành chính và việc tổ chức cứu tế đều do Tư lệnh của
mỗi bên ấy ấn định, nhưng bất kỳ lúc nào cũng không được quá số người mà Ban quân
sự Trung Giã nay hay Ban liên hợp sẽ quy định.
Ban liên hợp sẽ ấn định số nhân viên cảnh sát hành chính, số vũ khí của những
nhân viên cảnh sát ấy. Không ai được mang vũ khí nếu không được phép rõ ràng của
Ban liên hợp.
Điều 9. Không có một khoản nào trong chương này có thể hiểu theo ý nghĩa
làm mất quyền hoàn toàn tự do ta vào hay đi lại trong khu phi quân sự của Ban liên
hợp, của những toán liên hợp của Ban quốc tế thành lập như quy định dưới đây, của
những đội kiểm tra, cùng tất cả những người khác và vật liệu, dụng cụ đã được phép rõ
ràng của Ban liên hợp cho vào khu phi quân sự. Khi cần đi lại từ một điểm này đến
một điểm kia trong khu phi quân sự mà không có đường thủy hay đường bộ nằm hẳn
trong khu phi quân sự, thì được phép dùng những con đường thùy hay đường bộ nối
hai điểm ấy đi ngang qua vùng đặt dưới quyền kiểm soát quân sự của bất cứ một bên
nào.

CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC VÀ CÁCH THỨC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH
NÀY
9
Điều 10. Các Bộ tư lệnh quân đội đôi bên, một bên là Tổng tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam, một bên là Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương
sẽ ra lệnh hoàn toàn đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cho tất cả các lực lượng vũ trang đặt
dưới quyền của họ, kể tất cả các đơn bị và nhân viên lục, hải, không quân, và bảo đảm
bảo sự thực hiện đình chỉ chiến sự đó.
Điều 11. Theo nguyên tắc ngừng bằng đồng thời khắp toàn cõi Đông Dương, sự
đình chỉ chiến sự phải đồng thời trên toàn cõi Việt Nam, tại tất cả các chiến trường và
cho tất cả mọi lực lượng của hai bên.
Tính theo thời gian thật sự cần thiết để chuyển lệnh ngừng bắn tới những cấp
thấp nhất của lực lượng chiến đấu hai bên, hai bên đồng ý sẽ thực hiện ngừng bắn hoàn
toàn và đồng thời, theo từng khoảng lãnh thổ, trong những điều kiện sau đây:
– Ớ Bắc Bộ – Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày 27/07/1954.
– Ở Trung Bộ – Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày 01/08/1954.
– Ở Nam Bộ – Việt Nam, đúng 8 giờ (địa phương) ngày 11/08/1954.
Giờ địa phương nói trong điều này là giờ kinh tuyến Bắc Kinh.
Kể từ khi thực hiện ngừng bắn thật sự ở Bắc Bộ – Việt Nam, mỗi bên cam đoan
không mở những cuộc tấn công lớn trên toàn thể chiến trường Đông Dương, không
huy động lực lượng không quân ở các căn cứ miền Bắc Bộ – Việt nam. hai bên cam
đoan gửi cho nhau để biết những kế hoạch chuyên quan của mình từ vùng tập hợp này
sang vùng tập hợp khác, trong thời hạn hai mươi lăm ngày kể từ ngày hiệp định này
bắt đầu có hiệu lực.
Điều 12. Tất cả những hành động và vận chuyển trong việc đình chỉ chiến sự và
việc thực hiện cách tập hợp phải tiến hành trong trật tự và an toàn.
a. Trong thời hạn một số ngày sau khi thực hiện ngừng bắn thật sự do Ban quân sự
Trung Giã định, mỗi bên có trách nhiệm cất dọn và làm mất hiệu lực những địa lôi và
thủy lôi (kể cả ở sông và ở biển), những cạm bẫy, những chất nổ và tất cả những chất
nguy hiểm khác mà bên ấy đã đặt trước. Trong trường hợp không kịp cất dọn và làm
mất hiệu lực các loại nói trên, thì phải đặt những dấu hiệu rõ rệt. Tất cả những nơi phá
hoại, những nơi có địa lôi, những lưới dây thép gai và những vật chướng ngại khác cho
sự đi lại tự do cho nhân viên Ban liên hợp và của các toán liên hợp mà người ta tìm ra
sau khi bộ đội đã rút đi, thì Tư lệnh các lực lượng của hai bên phải báo cho Bạn liên
hợp biết.
b. Trong thời kỳ kể từ khi ngừng bắn cho đến khi tập hợp xong quân đội ở hai bên
giới tuyến:
1. Ở những khu định giao cho bộ đội của một bên tạm đóng thì bộ đội của bên kia
tạm rút ra ngoài những khu đó.

10
2. Trong khi lực lượng của một bên rút theo một đường giao thông (đường đất,
đường xe lửa, đường sông hay đường biển) đi ngang qua địa hạt của bên kia (điều 24)
thì lực lượng của bên kia phải tạm thời lùi xa hai bên đường giao thông mỗi bên 3 cây
số, nhưng tránh làm trở ngại cho sự đi lại của thường dân.
Điều 13. Trong thời kỳ kể từ ngày ngừng bắn đến khi chuyển quân xong từ
vùng này sang vùng kia, cac máy bay thường và máy bay vận tải quân sự phải bay
theo những hành lang nhất định nối liền các khu đóng quân tạm thời của quân đội Liên
hiệp Pháp ở phía Bắc giới tuyến với biên giới Lào và vùng tập hợp dành cho quân đội
Liên hiệp Pháp.
Những hành lang trên không, bề rộng của các hành lang ấy, hành trình an toàn
mà các máy bay quân sự một động cơ phải theo trong việc chuyển quân về phía Nam,
và những máy bay bị nạn sẽ do Ban quân sự Trung Giã ấn định tại chỗ.
Điều 14. Những biện pháp chính trị và hành chính trong hai vùng tập hợp, ở hai
biên giới tuyến quân sự tạm thời:
a. Trong khi đợi tổng tuyển cử để thực hiện thống nhất nước Việt Nam, bên nào
có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của hiệp định này thì bên ấy
sẽ phụ trách quản trị hành chính ở vùng ấy.
b. Một thuộc địa hạt thuộc quyền của bên này sắp chuyển giao cho bên kia theo kế
hoạch tập hợp thì vẫn do bên này tiếp tục quản trị cho đến ngày tất cả bộ đội của mình
đã rời khỏi địa hạt đó để giao cho bên kia. Từ ngày đó, địa hạt này coi như chuyển cho
bên kia. Từ ngày đó, địa hạt này coi như chuyền cho bên kia chịu trách nhiệm quản trị.
Phải thi hành những biện pháp để tránh sự gián đoạn trong vấn đề chuyển giao
trách nhiệm này. Để đạt mục đích ấy, bên rút phải kịp thời báo trước cho bên kia để
bên kia có những sự sắp xếp cần thiết, nhất là việc cử những nhân viên hành chính và
cảnh sát đến để tiếp nhận những trách nhiệm về hành chính. Thời hạn báo trước sẽ do
Bạn quân sự Trung Giã ấn định. Sự chuyển giao ấy sẽ tiến hành lần lượt theo từng
khoảnh đất đai.
Sự chuyển giao quyền hành chính Hà Nội và Hải Phòng cho nhà đương cục của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phải hoàn toàn thi hành xong trong những thời hạn
đã ấn định ở điều khoản thứ 15 về việc chuyển quân.
c. Mỗi bên đảm trách sự tự kiềm chế khỏi sự trả thù nào đó hay sự phân biệt đối
xử chống lại những người hay tổ chức theo phần hành thuộc phạm vi hoạt động trong
suốt cảnh huống chiến tranh và bảo đảm quyền tự do dân chủ của họ.
d. Kể từ ngày thuộc hiệu lực của bản hiệp định hiện thời cho đến khi việc chuyển
quân được hoàn tất, một số thường dân đang cư trú ở địa hạt được kiểm soát bởi một
miền, những người mà ước muốn ra đi và sinh sống ở vùng được quy định cho miền

11
khác, sẽ được cho phép và được giúp đỡ để thực hiện như thế, bởi người quản lý tại
địa hạt đó.
Điều 15. Sự phân tán quân lính, và sự rút quân cùng sự chuyển giao quân lực,
đồ thiết bị và hậu cần sẽ được sắp đặt theo sự thỏa thuận với những nguyên tắc sau
đây:
a. Việc rút quân và chuyển giao quân lực, thiết bị và hậu cần của hai miền sẽ được
hoàn tất trong phạm vi ba trăm (300) ngày, theo trình bày bên dưới trong điều 2 của
hiệp định hiện thời.
b. Trong phạm vi cả hai lãnh thổ, việc rút quân thành công sẽ được thực hiện bởi
những khu vực, bộ phận của những khu vực hay tỉnh. Sự chuyển giao từ một vùng tái
tập kết đến một nơi khác sẽ được thực hiện tốt trong mỗi đợt theo từng tháng để làm
cân xứng theo số quân được chuyển giao.
c. Hai miền sẽ đảm trách đưa ra tất cả việc rút quân và chuyển giao theo thỏa
thuận với mục tiêu của bản hiệp định hiện thời, sẽ không cho phép các hành vi thù
địch và sẽ không tiến hành bất kể việc gì mà có thể làm vướng việc rút quân và chuyển
giao như thế. Họ sẽ có mặt ở một nơi khác xa xôi mà điều có thể (Hai bên sẽ giúp đỡ
nhau trong phạm vi có thể được).
d. Hai miền sẽ không cho phép sự phá hoại hay tiêu huỷ tài sản công cộng nào đó
và sự đối xử bất công đến đời sống cũng như tài sản của cư dân dân sự. Họ sẽ không
cho phép sự cản trở trong chính quyền dân chính địa phương.
e. Uỷ ban Liên hợp và Uỷ ban Quốc tế sẽ bảo đảm rằng những công đoạn được
thực hiện để bảo vệ quân lực trong tiến trình rút quân và chuyển giao.
f. Uỷ ban Quân sự Trung Giã, và sau đó, Uỷ ban Liên hợp, sẽ quyết định bằng sự
đồng ý chung thủ tục xác đáng cho sự phân tán quân lính và cho sự rút quân, chuyển
quân, trên căn bản những nguyên tắc được kể ra và trong phạm vi hoạch định từng
bước (khuôn khổ) được trình bày dưới đây:
1. Sự phân tán của quân lính, bao gồm nơi tập trung của quân đội vũ trang của tất
thảy các binh chủng và cũng bao gồm cả sự di chuyển của mỗi miền đến các vùng tập
kết tạm thời được quy định cho miền ấy và sự rút quân tạm thời của miền kia khỏi
miền ấy, sẽ được hoàn tất trong giới hạn thời gian không vượt quá mười lăm (15) ngày
sau ngày mà lệnh ngừng bắn trở nên có hiệu lực. Sự phác hoạ tổng thể của những vùng
tập kết tạm thời được thể hiện trong những bản đồ làm phụ lục cho Hiệp định tạm
thời.Theo yêu cầu để tránh những cuộc xô xát nào đó, không toán quân nào sẽ được
đóng ở vị trí ít hơn 1.500 mét kể từ đường phân ranh những khu tập kết tạm thời.Trong
suốt thời hạn cho đến khi sự chuyển giao được kết thúc, tất cả những hòn đảo dọc bờ
biển phía tây của những đường ranh sau đây sẽ được tính vào vành đai Hải Phòng:
 Kinh tuyến của điểm phía nam thuộc quần đảo Kê Bảo
12
 Bờ biển phía bắc của Ile Rousse (ngoại trừ quần đảo ấy), trải rộng quãng xa đến
kinh tuyến của mỏ Cẩm Phả
 Kinh tuyến mỏ Cẩm Phả
2. Việc rút quân và chuyển giao sẽ được có hiệu lực theo yêu cầu sau đây và trong
phạm vi thời hạn sau đây (từ ngày bắt đầu có hiệu lực của hiệp định hiện thời).
 Lực lượng Liên hiệp Pháp … Số ngày
 Vành đai Hà Nội … 80
 Vành đai Hải Dương … 100
 Vành đai Hải Phòng … 300
 Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam … Số ngày
 Vùng tập kết tạm thời Hàm Tân và Xuyên Mộc … 80
 Vùng tập kết tạm thời Trung Kỳ Việt Nam – mỗi đợt đầu tiên … 80
 Vùng tập kết tạm thời Plaine des Jones … 100
 Vùng tập kết tạm thời tại địa điểm Cà Mau … 200
 Vùng tập kết tạm thời Trung Kỳ Việt Nam – mỗi đợt cuối … 300

CHƯƠNG III: CẤM ĐEM THEO QUÂN ĐỘI, NHÂN VIÊN QUÂN SỰ, VŨ
KHÍ ĐẠN DƯỢC MỚI. CĂN CỨ QUÂN SỰ
Điều 16. Với tác dụng từ ngày bắt đầu có hiệu lực của bản hiệp định hiện thời,
việc đưa vào Việt Nam thuộc sự tiếp viện quân đội nào đó và sự tăng thêm nhân viên
quân sự thì bị ngăn cấm.
Dẫu sao, điều đó được hiểu rằng, sự luân phiên của các đơn vị và các toán nhân
viên, việc đến Việt Nam của các nhân viên riêng lẻ trên cơ sở chức trách tạm thời và
sự trở lại Việt Nam của nhân viên riêng lẻ sau những thời hạn ngắn của sự rời khỏi
(nghỉ phép) hay công vụ tạm thời bên ngoài Việt Nam sẽ được cho phép dưới các điều
kiện dưới đây:
a. Sự luân phiên của các đơn vị (định rõ ở đoạn (c) của điều này) và các nhóm
nhân viên sẽ không được phép đối với quân đội Liên hiệp Pháp đóng ở phía bắc của
giới tuyến quân sự tạm thời được chỉ dẫn ở điều 1 thuộc hiệp định hiện thời, trong suốt
thời hạn rút quân được quy định ở điều 2.
Dù sao, dưới sự dẫn đầu (sự mới đến) của viên chức riêng lẻ, không hơn năm
mươi (50) người, gồm cả nhân viên văn phòng (hay sĩ quan), sẽ được phép, trong suốt
một tháng nhất định, đi vào phần đất phía bắc của giới tuyến quân sự tạm thời trên cơ
sở chức vụ lâm thời hoặc quay lại nơi ấy sau thời gian ngắn rời khỏi (nghỉ phép) hay
bằng công vụ bên ngoài Việt Nam.

13
b. “Luân phiên” được định rõ như sự thay thế đơn vị hay nhóm nhân viên bởi đơn
vị có chức vụ hành chính tương đương hoặc bằng viên chức mà đang đến lãnh thổ Việt
Nam để làm nhiệm vụ hải ngoại của họ tại đó.
c. Những đơn vị luân phiên sẽ không bao giờ được gia tăng nhiều hơn một tiểu
đoàn hay chức vụ hành chính tương xứng đối với lực lượng hải quân và không quân.
d. Sự luân phiên sẽ được chỉ huy trên cơ sở người – đổi – người, được cung cấp,
băng bất kỳ cách nào, rằng, trong một phần tư nhất định (một quý = ba tháng) không
một miền nào sẽ được đưa vào nhiều hơn mười lăm ngàn năm trăm quân thuộc lực
lượng vũ trang của miền ấy, vào Việt Nam dưới chính sách luân phiên.
e. Sự luân phiên đơn vị (định rõ ở đoạn (c) của điều này) và những toán viên chức,
và viên chức riêng lẻ đề cập ở điều này, sẽ đi vào và rời khỏi Việt Nam chỉ qua những
điểm tiếp nhận (cửa khẩu) được liệt kê ở điều 20 bên dưới.
f. Mỗi miền sẽ thông báo cho Uỷ ban Liên hợp và Uỷ ban Quốc tế ít nhất hai
ngày trước những chuyến đi đến hay rời khỏi đơn vị, nhóm viên chức và viên chức
riêng lẻ (đến) tại Việt Nam hoặc từ Việt Nam (đi). Báo cáo về việc đến hoặc rời khỏi
của đơn vị, nhóm viên chức và cá nhân riêng lẻ tại Việt Nam hay từ Việt Nam sẽ được
đệ trình hằng ngày cho Uỷ ban Liên hợp và Uỷ ban Quốc tế.
Mọi báo cáo được đề cập bên trên và những tường trình sẽ định rõ những địa
điểm và những thời điểm của việc đến hoặc rời khỏi và số lượng người đến hoặc ra đi.
g. Uỷ ban Quốc tế, thông qua Đội Thanh tra, sẽ giám sát và kiểm tra sự luân
chuyển đơn vị và nhóm viên chức cùng việc đến hoặc rời khỏi của viên chức riêng lẻ
theo quyền hạn bên trên, tại điểm tiếp nhận được liệt kê ở điều 20 bên dưới.
Điều 17.
a. Với tác dụng từ ngày có hiệu lực của hiệp định hiện thời, việc đưa vào Việt
Nam sự tăng cường theo các hình thức dạng loại vũ khí, đạn dược và vật dụng chiến
tranh khác, chẳng hạn máy bay chiến đấu, tàu hải quân, các bộ phận của súng pháo
lớn, máy phun cùng vũ khí vòi phun và xe bọc sắt, thì bị cấm chỉ.
b. Được hiểu rằng, bằng bất cứ cách nào, vật dụng chiến tranh, vũ khí và đạn
dược, những cái đã bị phá huỷ, bị tổn thất, bị rách nát, hay bị tận dụng sau khi chấm
dứt tình trạng chiến tranh có thể được thay thế trên cơ sở mẫu – đổi – mẫu của cùng
loại và đặc tính tương tự. Sự thay thế như vậy về vật liệu chiến tranh, vũ khí, đạn dược
sẽ không được cho phép đối với quân đội Liên hiệp Pháp đồn trú ở phía bắc của giới
tuyến quân sự tạm thời, được trình bày phía dưới ở điều 1 của hiệp định hiện thời,
trong suốt thời hạn rút quân dự phòng ở điều 2.
Tàu hải quân có thể hoàn thành công việc chuyên chở giữa các vùng tái tập kết.
c. Vật dụng chiến tranh, vũ khí và đạn dược vì mục đích thay thế được dự phòng ở
đoạn (b) của điều này, sẽ chỉ được đưa vào Việt Nam thông qua những điểm tiếp nhận
14
được đánh số ở điều 20 bên dưới. Vật dụng chiến tranh, vũ khí và đạn dược được thay
thế sẽ chỉ được chở khỏi Việt Nam thông qua những địa điểm tiếp nhận được đánh số
ở điều 20 bên dưới.
d. Ngoài ra, việc thay thế được cho phép trong phạm vi những giới hạn được trình
bày ở đoạn (b) văn bản của điều khoản này, sự tăng cường vật dụng chiến tranh, vũ khí
và đạn dược thuộc các loại theo dạng thức những bộ phận tháo rời để ráp lại về sau, thì
bị cấm chỉ.
e. Mỗi bên sẽ khai báo với Uỷ ban Liên hợp và Uỷ ban Quốc tế ít nhất là hai ngày
trước những chuyến vận tải đến hoặc chuyên chở đi nào đó, mà có thể được diễn ra với
vật dụng chiến tranh, vũ khí và đạn dược thuộc tất thảy các loại.
Cốt để công bằng đối với những yêu cầu tăng cường vào Việt Nam những vũ
khí, đạn dược và vật dụng chiến tranh khác (như được định nghĩa rõ ràng ở đoạn (a)
của điều khoản này) vì mục đích thay thế, một báo cáo liên quan tới việc vận chuyển
đến bằng tàu thuỷ sẽ được đệ trình cho Uỷ ban Liên hợp và Uỷ ban Quốc tế. Những
báo cáo như thế sẽ chỉ định cách sử dụng được thực thi cho các hạng mục được thay
thế theo cách như vậy.
f. Uỷ ban Quốc tế, nhờ vào những Đội Kiểm tra, sẽ giám sát và kiểm soát những
thay thế được cho phép theo những chi tiết được trình ra phía dưới thuộc điều khoản
này, tại những địa điểm tiếp nhận được đánh số ở điều khoản 20 bên dưới.
Điều 18. Với tác dụng từ ngày có hiệu lực của ban hiệp định hiện thời, sự thiết
lập những căn cứ quân sự mới thi bị cấm chỉ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Điều 19. Với tác dụng từ ngày có hiệu lực của bản hiệp định tạm thời, không
một căn cứ quân sự nào thuộc sự kiểm soát của nước ngoài có thể được thiết lập ở
vùng tái tập kết của mỗi miền; hai miền sẽ cam kết rằng những khu vực được quy định
cho họ không gia nhập vào khối liên minh quân sự nào và không được lợi dụng để tái
diễn tình trạng chiến tranh hay để đẩy mạnh chính sách xâm lược.
Điều 20. Những địa điểm tiếp nhận vào Việt Nam cho những viên chức hoán
chuyển và những thay thế vật dụng được quy định sau đây:
– Những vùng về phía bắc của giới tuyến tạm thời: Lào Kay, Lạng Sơn, Tiên
Yên, Hải Phòng, Vinh, Đồng Hới, Mường Xén.
– Những vùng về phía nam của giới tuyến tạm thời: Đà Nẵng (Tourane), Quy
Nhơn, Nha Trang, Ba Ngòi, Sài Gòn, Vũng Tàu (Cap St. Jacques), Tân Châu.

CHƯƠNG IV: TÙ BINH CHIẾN TRANH VÀ TÙ NHÂN DÂN SỰ


Điều 21. Sự phóng thích và việc hồi hương của tất thảy tù binh chiến tranh và tù
nhân dân sự bị giam giữ bởi mỗi bên, vào lúc có hiệu lực của bản hiệp định hiện thời,
sẽ được đưa đến theo các điều kiện sau đây:
15
a. Tất cả những tù binh chiến tranh và tù nhân dân sự của Việt Nam, Pháp và các
quốc gia khác bị bắt từ khi bắt đầu tình trạng chiến tranh tại Việt Nam, trong suốt các
hoạt động quân sự hay với các tình tiết nào khác của chiến tranh và ở một vài phần nào
đó thuộc lãnh thổ Việt Nam, sẽ được phóng thích trong phạm vi ba mươi (30) ngày sau
ngày lệnh đình chiến trở nên có hiệu lực trên mọi chỗ.
b. Thuật ngữ “tù nhân dân sự” được hiểu để định nghĩa tất cả những người mà, với
hình thức nào đó, đã cộng tác với cuộc chiến đấu vũ trang và chính trị giữa hai bên, đã
bị bắt giữ vì lý do ấy và bị giam giữ trong sự cầm tù bởi cả hai bên trong suốt thời kì
có tình trạng chiến tranh.
c. Tất cả tù binh chiến tranh và tù nhân dân sự bị giam cầm bởi cả hai bên sẽ được
giao lại cho nhà cầm quyền phù hợp của bên kia, nơi sẽ cho họ sự giúp đỡ trong khả
năng theo cách tiến hành của nước gốc, bố trí nơi cư trú thường lệ hay vùng theo chọn
lựa của họ.

CHƯƠNG V: LINH TINH/HỖN HỢP


Điều 22. Những người chỉ huy quân lực của hai miền sẽ đoan chắc rằng những
người dưới quyền cai quản tương ứng mà xâm hại một số sự dự phòng của bản hiệp
định hiện thời thì bị trừng phạt thích đáng.
Điều 23. Trong những trường hợp tại nơi chôn cất mà được biết và sự tồn tại
của mộ phần đã được xây dựng, tổng tư lệnh quân lực của cả hai bên sẽ, trong thời hạn
dứt khoát sau khi bắt đầu có hiệu lực của ban hiệp định đình chiến, cho phép viên chức
dịch vụ mồ mả của bên kia đi vào một phần lãnh thổ Việt Nam dưới sự kiểm soát quân
sự của họ để tìm kiếm và di chuyển thi hài của viên chức quân sự đã chết của bên ấy,
gồm cả thi hài của tù binh chiến tranh đã chết. Uỷ ban Liên hợp sẽ quyết định những
thủ tục và thời hạn cho việc thực hiện nghĩa vụ này. Tổng tư lệnh của hai bên sẽ thông
tri cho mỗi bên kia tất cả thông tin về tài sản của người chết tính cho đến khi đưa đến
nơi chôn cất của viên chức quân sự thuộc bên kia.
Điều 24. Hiệp định hiện thời sẽ áp dụng cho tất cả lực lượng vũ trang của mỗi
bên. Những lực lượng vũ trang của mỗi bên sẽ tôn trọng vùng phi quân sự và lãnh thổ
dưới sự kiểm soát quân sự của bên kia, và sẽ không uỷ nhiệm một hành vi nào và
không bảo đảm một hoạt động nào chống lại phía đối phương kia và sẽ không cam kết
về sự phong tỏa bất kỳ cách thức nào đó tại Việt Nam.
Theo ý nhất định của hiệp định hiện thời, từ “lãnh thổ” bao gồm mặt nước thuộc
lãnh thổ và không phận.
Điều 25. Tổng tư lệnh của các quân lực thuộc hai bên sẽ có điều kiện bảo vệ
đầy đủ và giúp đỡ trong khả năng có thể và cộng tác với Uỷ ban Liên hợp cùng các
nhóm liên hợp của nó và với Uỷ ban Quốc tế cùng đội thanh tra của nó trong những
16
việc thi hành chức năng và những phận sự được trình bày cho họ bởi hiệp định hiện
thời.
Điều 26. Phí tổn theo yêu cầu cho việc hoạt động của Uỷ ban Liên hợp và
những nhóm liên hợp của nó cũng như của Uỷ ban Quốc tế và những đội thanh tra của
nó sẽ được chia ra bằng nhau giữa hai bên.
Điều 27. Các nước ký kết hiệp định hiện thời và những người thắng lợi trong
nhiệm vụ sẽ được chịu trách nhiệm để cam kết và quan sát cũng như sự bắt buộc phải
tôn trọng về những thuật ngữ và dự phòng (lường trước khả năng xảy ra) của nó.
Những người chỉ huy của các lực lượng thuộc hai bên sẽ, trong phạm vi những mệnh
lệnh tương ứng, thực thi các bước và làm tất cả sự hoà giải cần thiết để bảo đảm sự
bằng lòng trọn vẹn với tất cả những trù liệu (những điều khoản) của hiệp định hiện
thời bởi tất cả các yếu tố và nhân viên quân sự dưới mệnh lệnh của họ.
Những thủ tục được bắt đầu thực hiện theo hiệp định hiện thời sẽ, bất kỳ thời
điểm cần thiết nào, được nghiên cứu bởi các viên tổng tư lệnh của hai bên, và, nếu cần
thiết, quy định một cách đặc biệt hơn bởi Uỷ ban Liên hợp.

CHƯƠNG VI: UỶ BAN LIÊN HỢP VÀ UỶ BAN QUỐC TẾ VỀ SỰ GIÁM SÁT


VÀ KIỂM TRA TẠI VIỆT NAM
Điều 28. Trách nhiệm đối với sự thi hành bản hiệp định về sự chấm dứt tình
trạng chiến tranh sẽ làm yên tâm với các miền.
Điều 29. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ đoan chắc sự kiểm soát và sự giám sát về sự
thi hành này.
Điều 30. Trong yêu cầu làm cho thuận tiện, dưới những điều kiện được trình
bày dưới đây, việc thi hành những trù liệu liên quan tới hành động liên hợp bởi hai
bên, một Uỷ ban Liên hợp sẽ được khởi động tại Việt Nam.
Điều 31. Uỷ ban Liên hợp sẽ được phiên chế số lượng cân bằng các đại diện
của những viên tổng tư lệnh của hai bên.
Điều 32. Vị chủ tịch của những phái đoàn đưa vào Uỷ ban Liên hợp sẽ tổ chức
đội ngũ tuỳ thuộc vào cấp tổng bộ (cấp tướng).
Uỷ ban Liên hợp sẽ khởi động những nhóm liên hợp số lượng mà sẽ được quy
định bởi sự nhất trí với nhau giữa các nước. Những nhóm sẽ được phiên chế số lượng
nhân viên cân bằng từ các nước. Vị trí của họ trên giới tuyến giữa những vùng tái tập
kết (tái định cư) sẽ được quy định bởi các nước trong khi đảm nhiệm phần hành, quyền
hạn của Uỷ ban Liên hợp.
Điều 33. Uỷ ban Liên hợp sẽ cam kết thi hành theo những trù liệu (những điều
khoản) của Hiệp định về sự chấm dứt tình trạng chiến tranh sau đây:

17
a. Lệnh ngưng bắn chung và cùng lúc tại Việt Nam đối với các lực lượng vũ trang
chính quy và không chính quy.
b. Một sự tái tập hợp của các lực lượng vũ trang của cả hai bên.
c. Sự quan sát giới tuyến giữa các vùng tái tập kết và các khu phi quân sự.
Trong phạm vi giới hạn của việc hoàn tất của nó, nó sẽ giúp các bên thi hành
những trù liệu như đã nói, sẽ cam kết liên lạc giữa họ vì mục tiêu chuẩn bị và thi hành
kế hoạch áp dụng của những trù liệu này, và sẽ nỗ lực giải quyết những vấn đề tranh
chấp như thế một khi có thể phát sinh giữa các nước trong tiến trình thực thi những dự
phòng (những điều khoản) này.
Điều 34. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ được phiên chế để kiểm tra và giám sát những
sự áp dụng thuộc những dự phòng của hiệp định về sự chấm dứt tình trạng chiến tranh
tại Việt Nam. Nó sẽ lập danh sách các đại diện của các nước sau đây: Canada, Ấn Độ
và Ba Lan.
Nó sẽ được chủ trì bởi đại diện của Ấn Độ.
Điều 35. Uỷ ban Quốc tế sẽ phiên chế những đội thanh tra lưu động và cố định,
soạn thảo số lượng nhân viên cân bằng được chỉ định bởi mỗi nước đã đề cập bên trên.
Những đội cố định sẽ được bố trí vào các nơi sau đây: Lào Kay, Lạng Sơn, Tiên Yên,
Hải Phòng, Vinh, Đồng Hới, Mường Xén, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Ba Ngòi,
Sài Gòn, Vũng Tàu, Tân Châu. Những địa điểm trú đóng này có thể, trong những ngày
về sau, được thay đổi theo yêu cầu của Uỷ ban Liên hợp, hay theo yêu cầu của một
trong các nước, hay do chính Uỷ ban Quốc tế, bằng sự thoả thuận giữa Uỷ ban Quốc tế
và ban chỉ huy của các nước liên quan. Những vùng hoạt động của những đội lưu động
sẽ là những vùng làm vành đai biên giới đất liền và biển của Việt Nam, những giới
tuyến giữa những vùng tái tập kết và những vùng phi quân sự. Trong phạm vi giới hạn
của những vùng này họ sẽ có quyền đi lại tự do và sẽ nhận từ những nhà chức trách
quân sự và dân chính địa phương tất cả mọi điều kiện thuận lợi mà họ yêu cầu cho sự
hoàn thành đầy đủ phận sự của họ (trù liệu nhân viên, cung cấp tài liệu cần thiết cho
việc kiểm soát, triệu tập những chứng cứ cần thiết cho tổ chức thẩm vấn, cam kết bảo
vệ và tự do giao thông của những đội thanh tra…). Họ sẽ có sự bố trí của họ theo
nghĩa hiện đại (tối tân) như thế về việc vận chuyển, quan sát và giao thiệp như họ yêu
cầu. Ở bên ngoài những vùng hoạt động như đã định rõ trên, những đội lưu động có
thể, bằng sự thoả thuận với ban chỉ huy của nước liên đới, liên hệ những hoạt động
khác trong phạm vi giới hạn về phận sự được giao phó cho họ bởi hiệp định hiện thời.
Điều 36. Uỷ ban Quốc tế sẽ chịu trách nhiệm giám sát sự thi hành thực sự bởi
các bên về những trù liệu (những điều khoản) của hiệp định. Vì mục tiêu này nó sẽ làm
tròn nghĩa vụ kiểm tra, quan sát, thanh tra và sự điều tra nghiên cứu, kết hợp với sự áp

18
dụng những trù liệu của hiệp định về sự chấm dứt tình trạng chiến tranh, và nó sẽ (thực
hiện), với sự cẩn trọng.
a. Kiểm tra sự di chuyển của các lực lượng vũ trang thuộc hai bên, làm cho có
hiệu quả trong phạm vi khóa biểu (khuôn khổ) của kế hoạch tái tập kết.
b. Giám sát các giới tuyến giữa các vùng tái tập kết, và cũng như vậy, đối với
những vùng phi quân sự.
c. Kiểm tra hoạt động về sự giải thoát những tù binh chiến tranh và tù nhân dân
sự.
d. Giám sát các cảng và sân bay cũng như tất cả các vùng biên giới của Việt Nam
về sự thực thi những dự phòng của hiệp định chấm dứt tình trạng chiến tranh, điều
chỉnh sự nhập vào đất nước những lực lượng vũ trang, nhân viên quân sự và tất thảy
các loại vũ khí, đạn dược và vật dựng chiến tranh.
Điều 37. Uỷ ban Quốc tế sẽ, thông qua môi giới của đội thanh tra đã đề cập
trên, ngay khi có thể, hoặc theo sáng kiến riêng của nó hoặc theo yêu cầu của Uỷ ban
Liên hợp, hoặc của các nước, bảo đảm những sự điều tra nghiên cứu cần thiết cả tài
liệu lẫn thực địa.
Điều 38. Đội kiểm tra sẽ đệ trình Uỷ ban Quốc tế những kết quả của sự giám sát
của họ, những điều tra nghiên cứu của họ và những quan sát của họ, hơn nữa, họ sẽ
soạn thảo chẳng hạn như những tường trình đặc biệt mà họ có thể duy trì sự thiết yếu,
hoặc chẳng hạn có thể được yêu cầu từ họ bởi Uỷ ban. Trong trường hợp bất đồng
trong nội bộ của các đội, những cách giải quyết của mỗi đội viên sẽ được đệ trình lên
Uỷ ban.
Điều 39. Nếu một đội thanh tra nào đó không thể ổn định một cuộc xô xát hay
nhưng duy trì mà có một sự vi phạm hay một sự đe dọa vi phạm nghiêm trọng, Uỷ ban
Quốc tế sẽ được báo tin; ban kế nhiệm (Uỷ ban Quốc tế) sẽ nghiên cứu những tường
trình và kết luận của đội thanh tra và sẽ báo tin cho các bên về sự đo lường mà sẽ nhận
được về các cuộc ổn định xô xát, chấm dứt sự vi phạm hay cách chức vì sự đe dọa vi
phạm.
Điều 40. Khi Uỷ ban Liên hợp không thể tìm được sự nhất trí về sự giải thích
để trình ra một vài việc trù liệu hay về sự định giá một thực tế, Uỷ ban Quốc tế sẽ
được báo cáo về những vấn đề tranh luận. Những đề nghị của Uỷ ban ấy sẽ được gửi
trực tiếp đến các bên và sẽ khai báo cho Uỷ ban Liên hợp.
Điều 41. Những đề nghị của Uỷ ban Quốc tế sẽ được chấp nhận bằng đa số
phiếu, tuỳ theo (miễn trừ) những trù liệu chứa đựng trong điều khoản 42. Nếu những
cuộc bầu cử phân tán phiếu, thì phiếu của giám đốc sẽ quyết định.
Uỷ ban Quốc tế có thể làm nên công thức đề nghị liên quan tới sự cải thiện và
sự tăng thêm mà sẽ được thực hiện theo những trù liệu của hiệp định về sự chấm dứt
19
tình trạng chiến tranh tại Việt Nam, trong yêu cầu bảo đảm một sự thi hành hiệp định
có hiệu quả. Những đề nghị sẽ được nhất trí chấp nhận.
Điều 42. Khi sự giải quyết những vấn đề liên quan đến những xô xát, hay
những đe dọa xô xát, những sự việc mà có thể dẫn đến sự bắt đầu lại tình trạng chiến
tranh, đấy là:
a. Sự từ chối bởi các lực lượng vũ trang của một bên nhằm làm cho sự di chuyển
có hiệu quả được chuẩn bị đầy đủ theo kế hoạch tái định cư.
b. Sự xô xát bởi các lực lượng vũ trang của một trong các bên thuộc các vùng tái
định cư, mặt nước thuộc lãnh thổ, hoặc không phận của một bên khác, thì sự giải quyết
của Uỷ ban Quốc tế phải được đồng lòng.
Điều 43. Nếu một trong các bên từ chối hướng về phía làm cho có hiệu quả một
điều tra nghiên cứu của Uỷ ban Quốc tế, các bên liên quan hay chính tự Uỷ ban sẽ báo
cáo cho các thành viên của Hội nghị Giơnevơ.
Nếu Uỷ ban Quốc tế không đạt được sự nhất trí trong những trường hợp được
cung cấp ở điều khoản 42, nó sẽ đệ trình một báo cáo đạt đa số phiếu thuận và một
hoặc nhiều hơn những báo cáo đạt thiểu số phiếu thuận đến những thành viên của Hội
nghị.
The International Commission shall inform the members of the Conference in
all cases where its activity is being hindered.
Uỷ ban Quốc tế sẽ thông tri cho các thành viên của Hội nghị trong tất thảy mọi
trường hợp nơi mà những hoạt động của nó bị trở ngại.
Điều 44. Uỷ ban Quốc tế sẽ được nêu lên, vào thời điểm của sự chấm dứt tình
trạng chiến tranh tại Đông Dương theo thủ tục, rằng, nó có thể xem là hợp lệ để làm
đầy đủ các nghĩa vụ được cung cấp tại điều khoản 36.
Điều 45. Uỷ ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm tra tại Việt Nam sẽ hoạt động
cộng tác sát cánh với Uỷ ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm tra tại Campuchia và tại
Lào.
Các vị tổng thư ký của ba Uỷ ban sẽ chịu trách nhiệm đối với sự phối hợp công
việc của họ và đối với sự quan hệ giữa họ.
Điều 46. Uỷ ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm tra tại Việt Nam có thể,– sau khi
thảo luận với các Uỷ ban Quốc tế về Giám sát và Kiểm tra tại Campuchia và tại Lào,
và đã lưu ý đến sự phát triển tình hình tại Campuchia và tại Lào, làm giảm nhẹ một
cách tiến bộ những hoạt động của nó. Một quyết định như thế phải được chấp nhận
một cách đồng lòng.
Điều 47. Tất cả những dự trù của hiệp định hiện thời, trừ đoạn văn phụ thứ hai
của điều khoản 11, sẽ trở nên có hiệu lực vào lúc 24 giờ (giờ Geneva), ngày
22/07/1954.
20
Được làm tại Geneva lúc 24 giờ vào ngày 20/07/1954 bằng tiếng Pháp và bằng
tiếng Việt, cả hai văn bản có độ tin cậy ngang nhau.

 Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Lào


Hiệp định Giơnevơ về Lào 1962 là hiệp định quốc tế xác nhận và phát triển
thêm những điểm cơ bản trong Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương 1954. Kí tại Hội
nghị quốc tế về Lào tại Giơnevơ (Genève), từ 05/1961 đến 07/1962.
Tham dự Hội nghị có đại diện của: Liên Xô, Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc,
Miến Điện (Myanmar), Ấn Độ, Ba Lan, Canada, Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Thái
Lan, Campuchia, Chính quyền Ngô Đình Diệm và Lào (đại diện ba phái). Về phía Lào
có Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ trung lập của hoàng thân Xuvanna Phuma
(Souvanna Phouma), đại diện của Mặt trận Yêu nước Lào, đại diện của Chính phủ phái
hữu Lào.
Ngày 23/07/1962, Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký, gồm hai văn kiện:
Tuyên bố về nền trung lập của Lào và Nghị định thư kèm theo
Hiệp định Giơnevơ về Lào đánh dấu những thất bại quân sự của phái hữu Lào
và đế quốc Mỹ (giai đoạn 1960 – 1962), mà đặc biệt là thất bại trong Chiến dịch Nậm
Thà (2 – 8/5/1962). Các bên tham dự Hội nghị đã thỏa thuận nội dung của bản tuyên
bố, công nhận và tôn trọng chủ quyền, độc lập, trung lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Lào; cam kết tuân thủ một số nguyên tắc và điều kiện liên quan đến nền độc
lập và trung lập Lào.
Nghị định thư nêu những quy định cụ thể nhằm bảo đảm nền trung lập của Lào,
bao gồm việc rút quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài 30 ngày sau khi các đội
kiểm tra của Uỷ ban Quốc tế được thiết lập, thả tù binh, quy định tổ chức và chức
năng, quyền hạn của Uỷ ban Quốc tế.
Tuy nhiên, do đế quốc Mỹ và phái hữu Lào phá hoại (bằng việc ném bom năm
1964, tiến công vùng giải phóng năm 1969), nên Hiệp định Giơnevơ về Lào năm 1962
trong thực tế không được thực hiện.

 Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Campuchia


Hiệp định đình chỉ chiến sự tại Campuchia được ký kết vào ngày 20/07/1954 tại
Geneva (Thuỵ Sĩ) giữa đại diện của Quân đội nhân dân Việt Nam và Lực lượng vũ
trang Kháng chiến Campuchia với đại diện Quân đội quốc gia Khơme về đình chỉ
chiến sự ở Campuchia.
Hiệp định Gồm 6 chương, 40 điều. Những nội dung chính: ngừng bắn đồng thời
ở Campuchia; quy định thể thức thi hành việc rút các lực lượng vũ trang và nhân viên
quân sự nước ngoài ra khỏi Campuchia; các lực lượng kháng chiến Khơme được giải
21
ngũ tại chỗ; không được đàn áp, báo thù người Khơme kháng chiến; cấm đưa quân
đội, nhân viên quân sự, vũ khí và phương tiện chiến tranh mới vào Campuchia… Là
văn bản pháp lý quốc tế xác nhận việc chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp ở
Campuchia.

 Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ: Về sự lập lại hòa bình ở
Đông Dương, 21/07/1954
Ngày 21/07/1954, các bên tham gia đã cùng đồng thuận đưa ra Tuyên bố cuối
cùng về Hội nghị Giơnevơ, gồm các nội dung như sau:
1. Hội nghị chứng nhận những bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào
và Việt Nam, và tổ chức sự kiểm soát quốc tế và sự giám sát việc thi hành những điều
khoản của các Hiệp định đó.
2. Hội nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam.
Hội nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản ghi trong bản tuyên bố
này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự sẽ làm cho ba nước Cao Miên, Lào và
Việt Nam từ nay có thể đảm nhận với độc lập và chủ quyền hoàn toàn vai trò của mình
trong tập thể hoà bình của các nước.
3. Hội nghị chứng nhận những lời tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào
về việc hai Chính phủ đó nguyện thi hành những biện pháp để cho tất cả mọi người
công dân đều có được địa vị của mình trong tập thể dân tộc, nhất là bằng cách tham gia
cuộc tổng tuyển cử sắp tới. Cuộc tổng tuyển cử này sẽ tiến hành trong năm 1955 căn
cứ vào hiến pháp của mỗi nước, theo phương pháp bỏ phiếu kín và trong sự tôn trọng
những quyền tự do căn bản.
4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam về việc cấm đem vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc,
cũng như tất cả các thứ vũ khí, đạn dược. Hội nghị cũng chứng nhận những lời tuyên
bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào tỏ lòng kiên quyết sẽ chỉ yêu cầu viện trợ của
nước ngoài về trang bị quân sự, nhân viên hoặc huấn luyện viên trong phạm vi cần
thiết để bảo vệ lãnh thổ một cách có hiệu quả, và đối với nước Lào, thì chỉ đến mức độ
đã quy định trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào.
5. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam định rằng không được thành lập một căn cứ quân sự nào của một nước ngoài
trong những vùng tập hợp của đôi bên. Đôi bên có nhiệm vụ không để những vùng
được trao cho mình tham gia bất cứ một khối liên minh quân sự nào và dùng vào việc
gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược. Hội nghị cũng chứng
nhận những lời tuyên bố của hai chính phủ Cao Miên và Lào nói rằng hai Chính phủ
đó sẽ không ký kết bất cứ một Hiệp định nào với nước khác nếu Hiệp định đó buộc họ
22
phải tham gia vào một khối liên minh quân sự không phù hợp với những nguyên tắc
của Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc, riêng đối với nước Lào, không phù hợp với
những nguyên tắc của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào, hoặc nếu Hiệp định đó buộc
họ phải lập những căn cứ cho những lực lượng quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ
Cao Miên hoặc Lào, khi mà an ninh của hai nước không bị đe doạ.
6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải
quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự, và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất
tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ. Hội
nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản định trong bản tuyên bố này và
trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự tạo ra cơ sở cần thiết để giải quyết vấn đề
chính trị ở Việt Nam trong một thời gian ngắn.
7. Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị,
thực hiện lên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phải
làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ
chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để thực hiện tất cả
những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn, cuộc
tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 07/1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế
gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói
trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20 tháng 07 năm 1955, những nhà
đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về
vấn đề đó.
8. Phải triệt để thi hành những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm
mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi
người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.
9. Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam Việt Nam,
cũng như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân
hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác, bất cứ dưới hình thức nào, với một trong
hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người đó.
10. Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ
Pháp sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam theo lời
yêu cầu của những chính phủ có liên quan và trong một thời hạn do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp mà do sự thỏa thuận giữa hai bên, một số quân đội Pháp có thể ở
lại những điểm nhất định, trong một thời gian nhất định.
11. Hội nghị chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng Chính phủ
Pháp, trong sự giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến việc lập lại và củng cố

23
hòa bình ở Cao Miên, Lào và Việt Nam, sẽ căn cứ trên sự tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cao Miên, Lào và Việt Nam.
12. Trong quan hệ với Cao Miên, Lào và Việt Nam, mỗi nước tham gia Hội nghị
Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó.
13. Các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ thỏa thuận sẽ hỏi ý kiến nhau về mọi vấn
đề do Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên cứu những biện
pháp tỏ ra cần thiết để đảm bảo sự tôn trọng những Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao
Miên, Lào và Việt Nam.

2.4. Ý nghĩa của Hiệp định Giơnevơ


Việc ký kết hiệp định cũng có ý nghĩa to lớn với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới, thể hiện rõ nét nhất trên một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, Hiệp định Giơnevơ 1954 chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải rút quân về nước. Thất bại của Pháp khẳng
định thắng lợi chính nghĩa của nhân dân ba nước Đông Dương, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Tháng 07/1965, khi trả lời phỏng vấn
Nhật báo công nhân (Anh) về ý nghĩa và nội dung quan trọng nhất của Hiệp định
Giơnevơ năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Tôi cho rằng,
những điều khoản quan trọng nhất là: Phải tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; không nước nào được lập căn cứ quân sự ở
nước Việt Nam; Việt Nam không liên minh quân sự với bất cứ nước nào; thi hành các
quyền tự do dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi… đi tới thực hiện thống nhất nước
nhà…”.
Hai là, Hiệp định Giơnevơ chính là cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh tiếp theo
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đó cũng là kết quả của đường lối cách mạng, đường lối
kháng chiến, đường lối đối ngoại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đồng thời, đó còn là thành quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt trận:
chính trị, quân sự và ngoại giao trong cuộc đấu tranh chống thực dân xâm lược, là
minh chứng hùng hồn của chính sách đoàn kết: đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
Ba là, trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã
giành được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo nhân dân Pháp, các nhân sĩ và những
người yêu chuộng hòa bình thế giới. Với những quyết định của Hội nghị Giơnevơ,
miền Bắc nước ta được giải phóng từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành
hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam và cách mạng Lào, Campuchia,
Campuchia trong cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975).
Thắng lợi của Việt Nam là một đóng góp tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc
24
trên thế giới. Với ý nghĩa đó, trong Lời kêu gọi Hội nghị Giơnevơ thành công, ngày
22/07/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại
giao ta đã thắng to”, “Thành công của Hội nghị Giơnevơ là thắng lợi vĩ đại của nhân
dân Đông Dương, nhân dân Pháp và nhân dân thế giới”.
Trong Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng cho đồng chí Lê
Duẩn trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã nêu rõ: “Việc lập lại hòa
bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý
cho việc thống nhất nước Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, hoà bình và dân chủ trên
thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc
bấy giờ”. Đối với Lào và Campuchia, thời gian hiệp định tạo điều kiện thuận lợi cho
lực lượng kháng chiến của hai nước bạn có cơ hội, thời gian để tập hợp, xây dựng lực
lượng chờ thời cơ lật đổ chính quyền tay sai ở mỗi nước.
Sáu mươi lăm năm trôi qua, quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi, những Hiệp định
Giơnevơ vẫn là dấu ấn đặc biệt trong thế kỷ XX của nền ngoại giao Việt Nam. Ngày
nay, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với việc phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại, việc vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao trong lịch sử
nói chung và kinh nghiệm chỉ đạo đấu tranh đàm phán, ký kết Hiệp định Giơnevơ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng vẫn mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.

25
PHẦN 3: RÚT RA NHẬN XÉT

3.1. Những thành công của Hội nghị Giơnevơ đối với Việt Nam. Nguyên nhân
3.1.1. Thành công
Sau hai tháng rưỡi đàm phán, Hội nghị đã kết thúc thành công, nhân dân ta đã
giành được những kết quả quan trọng. Các bản hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào,
Campuchia được ký kết. Các nước tham gia Hội nghị đã thông qua bản Tuyên bố
chung. thừa nhận: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia và quy định quân đội Pháp phải rút khỏi các
nước Đông Dương và ở mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để
thống nhất đất nước.
Cũng trong lời kêu gọi ngày 22 tháng 07 năm 1954 của Hồ Chủ Tịch nêu rõ
“Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi... Chúng ta giành được
thắng lợi to lớn là do nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng
hòa bình thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của ta”. Với Hội nghị Giơnevơ,
chúng ta đã có những thành công nhất định cả về mặt chính trị, quân sự và ngoại giao
góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và hòa bình thế giới.
 Về thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam
Cùng với việc ổn định vĩ tuyến phân vùng, vấn đề định thời hạn tổng tuyển cử
là sự thỏa thuận cuối cùng giữa ta và địch. Thời hạn định cho việc tổng tuyển cử để
thống nhất Việt Nam là hai năm sau khi ngừng bắn (20/07/1956). Đó là mức cuối cùng
của ba đoàn Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam thống nhất ở Giơnevơ, và đưa ra với đối
phương ngày 29/07/1954. Phương án này so với sự thỏa thuận giữa nước ta và Trung
Quốc tại hội nghị Liễu Châu (tuyển cử trong vòng 6 tháng đến 1 năm) thì thấp. So với
điều kiện thỏa hiệp của Mendès France (15 tháng sau khi ký hiệp định) và dự kiến của
chuyên gia trong phái đoàn của Bido trước đó (18 tháng) thì mức đó cũng thấp.
Về địch, chúng buộc phải nhận thời hạn tổng tuyển cử là một thất bại của chúng
vị về cơ bản chúng không muốn bàn về vấn đề chính trị và âm mưu chia cắt lâu đài
nước ta. Chủng dùng vấn đề này để ép ta phải nhân nhượng chung về vấn đề phân
vùng. Chiều 17/07, 3 ngày trước khi ký kết Hiệp định Mendès France vẫn không chịu
định thời hạn tổng tuyển cử.
Về ta, cả Liên Xô và Trung Quốc đều không nhấn mạnh thời hạn tổng tuyển cử
ở Việt Nam, họ đều cho rằng vấn đề thời hạn tổng tuyển cử có thể thỏa thuận được
nhưng trong một thời gian nhất định không thể thực hiện được. Buộc địch phải định rõ
thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam trong Hiệp định Giơnevơ là một thắng
lợi. Thời hạn đạt được từ 1 đến 2 năm không quan trọng nhưng sớm vẫn tốt hơn.
 Lập lại hòa bình ở Đông Dương và giải phóng hoàn toàn Miền Bắc
26
Đánh giá một cách toàn diện và khách quan về Hiệp định Giơnevơ 1954, trên
cơ sở tham khảo ý kiến của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tháng 11 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy quân sự
Trung ương kết luận: “Với Hiệp định Giơnevơ, tuy ta chưa hoàn thành việc giải phóng
cả nước nhưng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: đánh bại đế quốc Pháp, giải
phóng miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc chuẩn bị điều kiện
tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ sau này. Đây là một thắng lợi vĩ đại của một
nước nhỏ đánh thắng một để quốc tế, thắng lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh nhân
dân đầu tiên ở nước ta do Đảng lãnh đạo”.
Với Hiệp định Giơnevơ, Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết
quân và ba nước Lào, Việt, Campuchia không tham gia liên minh quân sự với bên
ngoài. Điều đó đã góp phần quan trọng, chẳng những tạo lập được môi trường hòa
bình ổn định cho Đông Dương sau chiến tranh mà còn đưa đến thay đổi tương quan
lực lượng và cục điện Đông Dương và Đông Nam Á có lợi cho xu hướng chống ách
thống trị và lệ thuộc Phương Tây, chống các liên minh quân sự của nước ngoài, vì độc
lập tự do hòa bình của mình. Pháp cùng các nước lớn công nhận các quyền độc lập,
chủ quyền của Việt Nam điều mả 9 năm về trước, tại Hiệp định sơ bộ 06/03/1946,
Pháp không chịu công nhận, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng gắn liền với hệ
thống XHCN để xây dựng một nhà nước hoàn chỉnh, làm cơ sở cho công cuộc tiếp tục
đấu tranh thống nhất đất nước, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc đấu tranh hoàn
thành cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam, đồng thời là hậu phương quan
trọng để làm nhiệm vụ quốc tế đối với sự nghiệp chống áp đặt ách thống trị của các
cường quốc thực dân phương Tây đối với Lào và Campuchia. Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, sau Điện Biên Phủ và Giơnevơ có vị trí xứng đáng trên trường quốc
tế, đặc biệt là trong phong trào giải phóng dân tộc.
Việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam
và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước ta là một thắng lợi to lớn của nhân dân
ta, đồng thời là thắng lợi của phe XHCN, hòa bình dân chủ trên toàn thế giới. Nó phản
ánh tình hinh lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ và là một
thắng lợi của hòa bình, hòa dịu, hạ nhiệt phần nào không khí chiến tranh lạnh.
 Một số thành công khác
Bên cạnh đó, Đảng và nhân dân ta cũng đã đạt được một số thành công khác
qua Hội nghị này. Đó là Hiệp định Giơnevơ – một văn bản có tính pháp lý quốc tế cho
một giải pháp đồng bộ về quân sự chính trị nhằm kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam đã vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của các nước lớn, giới hạn cuộc thảo luận
tại Geneva về Đông Dương trong khuôn khổ một hiệp nghị ngừng bắn đơn thuần. Nó
tuyệt đối không phải là một thỏa thuận chỉ giới hạn trong việc ngừng bắn của các bên
27
tham chiến. Và đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn phương Tây phải
công nhận bằng văn bản pháp lý quốc tế chủ quyền quốc gia sự thống nhất và quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân ta.
Hiệp định về cơ bản đã thể hiện được phương hướng, lập trường và mục tiêu cơ
bản của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi bước vào cuộc thương lượng như trong báo
cáo của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng trước Quốc hội 10/04/1953 hòa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ.
Thực tiễn lịch sử đã xác nhận những sự kiện lớn đáng ghi nhận như việc hình
thành cương lĩnh mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam đấu tranh vì một
miền Nam độc lập, hòa bình, trung lập và đường lối trung lập tích cực chống đế quốc
Mỹ của Vương quốc Lào và Campuchia. Hơn thế nữa, hiệp định đã trở thành cơ sở
quan trọng cho việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về Lào 1962 và là một trong những tiêu
chí hàng đầu về chính trị, pháp lý cho cuộc đấu tranh gay gắt trong cuộc đàm phán tại
Paris giữa ta với Hoa Kỳ (1968 – 1973).
Thành tựu đổi ngoại nổi bật trong giai đoạn đầu là đã khắc phục hoàn cảnh khó
khăn chiến đấu trong vòng vây khi các liên hệ từ thủ đô kháng chiến với thế giới hết
sức hạn chế, thiếu thông tin tài liệu để nghiên cứu quốc tế, không có ngoại tệ nhưng đã
chủ động, nỗ lực to lớn để phá vòng vây qua hướng Tây Nam, mở các cơ quan đại diện
ở Bangkok, Yangon, tạo được đầu mối ở ngoài nước để hoạt động quốc tế.
Hơn nữa, thắng lợi của hiệp định đã góp phần vào phong trào cách mạng Lào,
Campuchia, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu cho phong trào sụp đổ của
Chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Tuy vậy hội nghị chỉ là một bước tạm ngừng cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc để ta củng cố thắng lợi đã giành được, chuẩn bị bước sang giai đoạn mới, giai đoạn
chống Mỹ cứu nước giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Ta ký Hiệp định
Giơnevơ như vậy là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp như thế là phù hợp,
phản ánh đúng so sánh lực lượng của ta và địch trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế
lúc đó. Vì lúc này, về phía địch, thực dân Pháp tuy thất bại lớn nhưng vẫn còn lực
lượng và còn đằng sau Pháp, đế quốc Mỹ đang có mưu đồ trực tiếp can thiệp vào chiến
tranh Đông Dương. Còn ta lúc đó thắng to, nhưng cũng có những khó khăn mới, chưa
đủ điều kiện tiếp tục chiến tranh đề giải phóng cả nước. Trên trường quốc tế, các nước
anh em trong đó có Liên Xô và Trung Quốc đều muốn có hòa bình để xây dựng đất
nước và đều muốn cuộc chiến tranh ở Đông Dương đi tới một giải pháp.
Sau 55 năm nhìn lại, vẫn nguyên giá trị những ý nghĩa lịch sử của bản Hiệp
định Giơnevơ. Hiệp định đánh dấu thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp
mà quan trọng nhất là nền độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam được các nước, kể cả nước Pháp, cam kết tôn trọng. Đó chính là cơ sở pháp
28
lý cho cuộc đấu tranh tiếp theo chống đế quốc Mỹ xâm lược nước ta. Đó cũng là kết
quả của một đường lối đúng đắn – đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến,
đường lối đối ngoại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đồng thời đó là thành quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt trận: mặt trận chính trị,
mặt trận quân sự, mặt trận ngoại giao trong cuộc đấu tranh chống thực dân, là minh
chứng hùng hồn của chính sách đoàn kết – đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
3.1.2. Nguyên nhân
 Chủ quan
Thành công của hội nghị Giơnevơ là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng, chính trị và ngoại giao
đúng đắn. Tư tưởng yêu chuộng hòa bình, phương châm hoà hiếu trong xử lý các mối
quan hệ quốc tế vốn đã trở thành truyền thống và bản sắc của dân tộc Việt Nam đã
được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh biến thành nền tảng cơ sở, tạo thành con
đường đưa đến Hội nghị và Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Vào sáng ngày 08/05/1954,
tại Hội nghị, bản đề nghị 8 điểm nổi tiếng của Phạm Văn Đồng được đưa ra làm cơ sở
thảo luận với lập trường cơ bản của Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ
và toàn vẹn lãnh thổ. Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh
đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên phải tham
gia công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và
Campuchia; vấn đề thống nhất nước Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải
quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài, cô lập bọn chủ chiến ở Pháp và bọn can
thiệp Mỹ; làm cho nhân dân Pháp thấy chính phủ Pháp của thủ tướng Laniel lúc bấy
giờ là hiếu chiến cần phải thay đổi. Những đề nghị hợp tình, hợp lý của Đoàn đại biểu
Việt Nam đã được dư luận tiến bộ ở chính nước Pháp và trên thế giới đồng tình ủng
hộ. Đây còn là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao với điểm tựa là thắng lợi quân
sự trên chiến trường, bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng
đường lối đối thoại độc lập, tự chủ và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục
diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp ở Hội nghị Giơnevơ. Kết
hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, phát huy nội
lực, lấy đó làm cơ sở vững chắc cho hoạt động ngoại giao vốn còn non trẻ của nước ta.
Bên cạnh đó, nhân tố quyết định diễn biến và thành công của Hiệp định
Giơnevơ đối với nước ta chính là nhờ vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Chiến thắng
Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp
xâm lược, đánh dấu sự thất bại của chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, làm tăng vị thế
cho đoàn Việt Nam tại Hội nghị Giơnevơ và buộc Pháp cùng một số nước khác phải
ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam. Ngoại giao Việt Nam đã đóng góp xứng đáng
29
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chính cuộc kháng chiến
ấy, cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho ngoại giao Việt Nam có
được bước trưởng thành quan trọng tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954.
 Khách quan
Thành công của Hiệp định Giơnevơ không chỉ đến từ những thắng lợi liên tiếp
về mọi mặt của nhân dân và quân đội ta mà còn đến sự ủng hộ mà nhân dân các nước
xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới,
trong đó có nhân dân Pháp dành cho nhân dân ta, tinh thần đoàn kết giữa ba nước
Đông Dương và sự đồng tình giúp đỡ, ủng hộ của Trung Quốc và Liên Xô, các nước
dân chủ nhân dân khác.
– Trung Quốc đã "toàn lực chi viện, chiến trường cần thứ gì, cần bao nhiêu, đều
cố gắng cung cấp nhanh nhất" cho nước ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần
tạo nên thắng lợi của chiến dịch, từ đó mới dẫn đến thành công của Hội nghị Giơnevơ.
– Đối với Liên Xô, để đi đến hội nghị, một mặt Liên Xô tiếp tục tăng cường viện
trợ Việt Nam một số vũ khí, khi tài chiến lược, góp phần nâng cao năng lực tác chiến
của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam; mặt khác, đấu tranh để Trung Quốc
và Việt Nam được tham gia hội nghị. Việc Liên Xô đấu tranh để Việt Nam tham gia
hội nghị với tư cách là thành viên chính thức đã có ý nghĩa hết sức to lớn với cách
mạng Việt Nam. Nó giúp Việt Nam nêu cao ngọn cờ chính nghĩa của mình tại hội nghị
quốc tế đa phương, giúp Việt Nam có cơ hội tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng dân
chủ trên thế giới, góp phần tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tại
Giơnevơ, Liên Xô đã luôn kiên định ủng hộ lập trường của Việt Nam, giúp Việt Nam
bảo vệ thành công lập trường của mình tại đây.
– Hội nghị Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương được triệu tập là thành
quả chung của cách mạng Đông Dương, trong đó tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân
dân ba nước Việt – Lào – Campuchia được thể hiện nổi bật nhất. Quân dân ba nước đã
luôn phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến, từng bước chuyển từ thế phòng ngự sang phản công và tổng phản công
để giành thắng lợi, đồng lòng, đoàn kết với nhau để giành được thành công trong việc
đòi lại độc lập, chủ quyền dân tộc cho cả 3 nước.
– Và không thể không kể đến nhân dân Pháp, sau khi nhận thức được thực tiễn
tàn khốc và bản chất đen tối của cuộc chiến tranh của Pháp gây ra, đã hết mình ủng hộ
cuộc đấu tranh của ta qua việc mít-tinh phản đối chiến tranh, cử người sang Việt Nam
“chia lửa với nhân dân Việt Nam”, xuất bản sách, viết báo ca ngợi tinh thần chiến đấu
của dân tộc Việt Nam… Đảng Cộng sản Pháp và đông đảo nhân dân tiến bộ Pháp yêu
cầu Chính phủ chấm dứt cuộc chiến tranh và dàn xếp với Chính phủ Việt Nam.

30
3.2. Những hạn chế của Hội nghị Giơnevơ tác động đến Việt Nam. Nguyên
nhân
3.2.1. Hạn chế
Việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển
quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay 16 theo phương án đấu tranh của Việt
Nam, mà là vĩ tuyến 17. Việt Nam phải bỏ lại toàn bộ vùng giải phóng khu V và nhiều
vùng tự do phía Nam vĩ tuyến 17 (tức sông Bến Hải phía bắc tỉnh Quảng Trị) làm
vùng tập kết, chuyển quân cho Pháp. Điều thỏa thuận vĩ tuyến 17 này không được như
kỳ vọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thấp hơn cả giới hạn đàm phán cuối cùng
(vĩ tuyến 16) của Hồ Chí Minh.
Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam không phải là 6 tháng
như phương án của Việt Nam, mà là 2 năm. Thời gian tổng tuyển cử càng kéo dài thì
đất nước càng lâu được thống nhất, nhân dân hai miền sẽ bị chia cắt và ảnh hưởng đến
tinh thần càng nhiều. Và càng kéo dài thì lòng dân càng bị lung lay và có thể bị lôi kéo
theo chính quyền Ngô Diệm.
Giơnevơ là một diễn đàn quốc tế do các nước lớn sắp đặt, quyết định thành
phần, thời gian, bước đi, kết quả… Tại diễn đàn này, sự thỏa hiệp giữa các nước lớn đã
đưa đến một sự ràng buộc trách nhiệm lỏng lẻo giữa các bên tham dự và Mỹ đã không
chịu ký vào Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị mà chỉ ra tuyên bố riêng tôn trọng
hiệp định. Như vậy, các quyền dân tộc cơ bản chưa được trọn vẹn. Chính điều này tạo
ra cái cớ cho Mỹ lợi dụng để thực hiện ý đồ chiến lược lâu dài của họ.
Về việc thi hành, trên thực tế Hiệp định Giơnevơ chỉ được thực hiện một phần:
trong đó chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; tập kết, chuyển quân
theo khu vực và thời gian quy định. Tuy nhiên, việc tổng tuyển cử thống nhất Việt
Nam đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ, và do vậy,
một cuộc chiến tranh mới lại bắt đầu. Được sự ủng hộ trực tiếp của Mỹ, chính quyền
Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã cự tuyệt thi hành Hiệp định Giơnevơ, âm
mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì
đấu tranh, yêu cầu đối phương thi hành Hiệp định tuy nhiên đến tháng 07/1956 thì
tổng tuyển cử đã không được diễn ra.
3.2.2. Nguyên nhân
 Khách quan
Với sự tham gia của nhiều cường quốc với những lợi ích khác nhau và không
cho phép ba dân tộc ở Đông Dương tiếp tục kháng chiến để giành thắng lợi quân sự
cao hơn nữa. Lẽ ra việc đàm phán để kết thúc chiến tranh phải là công việc chủ yếu
giữa các lực lượng kháng chiến ở Đông Dương với Pháp nhưng trật tự thế giới hai cực
và cục diện chiến tranh lạnh đã chi phối kết quả việc giải quyết cuộc chiến tranh.
31
Giơnevơ là hội nghị quốc tế đa phương nhưng các nước sẽ sẵn sàng hi sinh lợi ích của
các nước đồng minh để củng cố vị thế và lợi ích cho mình. Các quốc gia tham gia đàm
phán đều muốn có được lợi ích tối đa. Cụ thể:
– Pháp: muốn ra khỏi cuộc chiến, đạt được giải pháp ít có hại nhất, giới hạn tối đa
thắng lợi của các lực lượng cách mạng của Đông Dương, bảo toàn lực lượng quân sự
viễn chinh nhằm tiếp tục giữ các thuộc địa còn lại.
– Mỹ: cảnh báo thất bại của Pháp sẽ mở đường cho việc Cộng sản “nhuộm đỏ”
khu vực và đe dọa thế giới tự do và coi Việt Nam như một nguồn kinh tế nguyên liệu
quan trọng và không nên để mất vào tay Cộng sản. Do vậy, ngoại trưởng Mỹ cho rằng:
“Mỹ có lợi ích đáng kể ở Tây Thái Bình Dương và sẽ không dính líu đến phán quyết
cuối cùng. Tuy nhiên nếu bất lợi Mỹ sẽ trực tiếp can thiệp bất kể kết quả của đàm
phán”.
– Trung Quốc: muốn có được thỏa ước nhằm thể hiện vai trò nước lớn lần đầu
tiên kể từ khi lập quốc, đẩy Mỹ ra xa và có khu đệm an ninh ở phía Nam Trung Quốc
(phía Bắc Việt Nam) và tìm đường giao thương với phương Tây.
– Anh và Liên Xô không trực tiếp dính líu nên một thỏa ước nào đó giúp giảm
nhiệt toàn cầu là có lợi cho hai bên.
 Các bên đều có lợi ích riêng và kể cả nước đồng minh của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là Liên Xô và Trung Quốc cũng sẵn sàng đặt vấn đề giải quyết chiến tranh,
mâu thuẫn ở Đông Dương xuống dưới lợi ích dân tộc của họ. Họ cố gắng thuyết phục
Việt Nam nhượng bộ để đi đến kết quả đàm phán như trên. Với thế lực lớn mạnh của
các cường quốc chèn ép các nước nhỏ để đạt được lợi ích của mình thì thỏa thuận của
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa đã không được như kỳ vọng.
 Chủ quan
Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong việc nhận định tình hình và chính sách
của các nước lớn. Từ rừng núi đi thẳng đến bàn đàm phán, Việt Nam chưa có đủ thông
tin để đánh giá hết khó khăn của Pháp về các mặt chính trị và quân sự, đặc biệt là sau
chiến thắng Điện Biên Phủ. Bên cạnh đó Việt Nam lại đánh giá quá cao cả về ý đồ và
khả năng Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, không thấy được khả năng răn đe
của Liên Xô, Trung Quốc và dư luận quốc tế, không thấy hết động cơ của mỗi bên
tham gia đàm phán. Mục tiêu chính của Trung Quốc tại Hội nghị Giơnevơ chính là
phải ký được Hiệp định và chia cắt Việt Nam, nhằm đẩy Mỹ ra xa và có khu đệm an
ninh ở phía Nam Trung Quốc. Do không nghiên cứu, không nắm được tình hình thế
giới, tình hình Mỹ, thực chất chính sách của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam
nên Việt Nam buộc phải nghe theo Trung Quốc. Mặt khác, chúng ta đều nghe theo
Trung Quốc vì tình thần quốc tế vô sản, và Trung Quốc, Liên Xô đang là hai nước

32
viện trợ chính cho cuộc kháng chiến của chúng ta, nếu không được Xô – Trung hậu
thuẫn thì việc tiến hành một cuộc chiến trực diện với Mỹ vô cùng khó khăn.
Cùng với đó, các lực lượng kháng chiến ở Việt Nam, Lào và Campuchia đã
không thể phối hợp với nhau trong cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Việt Nam không
đủ sức kiên trì đấu tranh cho lợi ích của mình và của bạn, mà phải thuận theo tầm thế
của các quan hệ quốc tế lúc đó.
3.3. Rút ra bài học cho Đảng và Nhà nước ta
Tính đến nay, Hiệp định Giơnevơ đã đi vào lịch sử 60 năm. Việc nhìn nhận lại
những thành công, hạn chế, cho phép ta rút ra những bài học, kinh nghiệm quý báu
làm hành trang cho Đảng và Nhà nước ta.
Thứ nhất, coi lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao
nhất trong đối ngoại. Tại Hội nghị Giơnevơ, lần đầu tiên nền ngoại giao non trẻ Việt
Nam tham gia một diễn đàn đàm phán đa phương phức tạp, chịu sự chi phối của các
nước lớn. Ngoại giao Việt Nam phải đương đầu trực tiếp với mối quan hệ hợp tác –
đấu tranh giữa các nước lớn, mối quan hệ giữa các nước lớn và các nước nhỏ cũng như
sự cọ sát giữa các tính toán về lợi ích giữa các nước. Trong hoàn cảnh đó, nhận thức
sâu sắc về lợi ích quốc gia, dân tộc chính là điểm tựa cho công tác đấu tranh ngoại
giao, chúng ta đã đấu tranh cho một giải pháp toàn diện, coi độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích cao nhất và là mục tiêu cơ bản phải đạt được trong
Hội nghị Giơnevơ.
Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ trong đối ngoại. Hội nghị Giơnevơ được tổ
chức theo sáng kiến của các nước lớn. Vì lợi ích của mình, các nước lớn tìm mọi cách
áp đặt và lôi kéo Việt Nam chấp nhận một giải pháp có lợi cho họ. Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa bước vào hội nghị với tư cách của người chiến thắng trên chiến trường Điện
Biên Phủ. Ta đã xác định rõ mục tiêu đàm phán. Tuy nhiên, các bước cụ thể liên quan
đến phương án đàm phán, thời điểm mở đầu và kết thúc đàm phán, phân công phối
hợp các lực lượng trong đàm phán… luôn bị các nước lớn can thiệp và tác động.
Trong khi đó, ngoài kinh nghiệm, đoàn ta còn thiếu nhiều phương tiện vật chất cần
thiết, ngay cả việc giữ liên lạc giữa đoàn đàm phán và trong nước cũng phải dựa vào
các cơ quan đại diện Liên Xô và Trung Quốc. Khi ra các quyết sách, chúng ta phải dựa
vào đánh giá tình hình của bạn bè. Những điều đó ảnh hưởng rất lớn tới nỗ lực làm chủ
tiến trình đàm phán, giữ vững thế chủ động tiến công trong quá trình hội nghị. Vì vậy,
bài học về giữ vững độc lập, tự chủ trong đàm phán ngoại giao tại Giơnevơ năm 1954
lại càng quý giá.
Thứ ba, tầm quan trọng của sự kết hợp giữa quân sự, chính trị và ngoại giao
để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Trong đó, thực lực trên chiến trường là nhân tố quyết
định thắng lợi trên bàn đàm phán. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là nhân tố quyết
33
định thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đẩy quân Pháp vào
đường cùng, chấm dứt hy vọng của Pháp vào khả năng Mỹ can thiệp quân sự vào cuộc
chiến và quan trọng hơn, chính chiến thắng Điện Biên Phủ là cơ sở để ta đấu tranh cho
một giải pháp toàn diện cho vấn đề Việt Nam.
Thứ tư, bài học về nghệ thuật chiến thắng từng bước. Hiểu rõ thực lực của ta,
hiểu rõ lợi ích của các nước lớn, bao gồm cả Liên Xô và Trung Quốc, và hiểu rõ bối
cảnh quốc tế, chúng ta đã quyết định ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ với những điều
khoản không phản ánh thỏa đáng thắng lợi của chúng ta trên chiến trường. Quyết định
này là một ví dụ điển hình về bài học chiến thắng từng bước của đối ngoại Việt Nam.
Thắng từng bước phải được thực hiện trên cơ sở giữ vững mục tiêu cơ bản là các nước
lớn phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Thắng từng bước phải tạo nên thực lực mới, vị thế mới để hoàn thành mục tiêu cuối
cùng là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận,
tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Chúng ta đến Hội nghị Giơnevơ với tư
thế chính nghĩa. Nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta phù hợp với nguyện vọng chung của nhân loại tiến bộ,
kể cả nhân dân tiến bộ Pháp. Tại Hội nghị Giơnevơ, qua các hoạt động tiếp xúc với
báo chí, với các hội đàm, chúng ta đã làm cho dư luận hiểu rõ thiện chí của ta, hiểu rõ
âm mưu và hành động của các thế lực thù địch ép chúng ta phải chấp nhận giải pháp
bất lợi cho mình. Các hoạt động này đã biến tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu của
nhân dân ta thành sức mạnh, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh trên bàn đàm phán.
Nhìn lại lịch sử, con đường đi đến độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam không
phải là con đường thẳng tắp mà phải trải qua những chặng đường, khúc quanh lịch sử.
Để hoàn thành trọng trách của mình, ngoại giao Việt Nam cần phát huy những kinh
nghiệm quý báu mà lịch sử đã khắc ghi.

34
KẾT LUẬN

Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh là thắng lợi to lớn của cách mạng
ba nước Đông Dương; là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để nhân dân ta ra sức đấu
tranh, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ trong toàn quốc. Cần
thấy rằng, đàm phán hòa bình tại Hội nghị Giơnevơ (năm 1954) chủ yếu diễn ra giữa
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chính phủ Pháp, nhưng lại chịu sự tác động,
thỏa hiệp, dàn xếp của các nước lớn. Vì thế, việc Hiệp định quy định Quân đội Pháp
buộc phải rút hết khỏi Việt Nam là một thắng lợi quan trọng, quyết định việc hoàn
thành cách mạng giải phóng dân tộc. Cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định
Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam
chống thực dân Pháp xâm lược; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện xây
dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Hội nghị quốc tế với sự tham gia của các nước
lớn đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Nếu trước đây, tại Hiệp
định Sơ bộ năm 1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do nằm trong
khối Liên hiệp Pháp, thì tại Hội nghị này, trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, Pháp
buộc phải công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ. Điều đó tạo cơ sở pháp lý để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh cho một
nước Việt Nam độc lập và thống nhất hoàn toàn. Với đường lối cách mạng đúng đắn,
sáng tạo, tiêu biểu là đường lối kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn. Trong đó, cuộc đấu tranh ngoại
giao tại Hội nghị Giơnevơ để lại nhiều bài học quý. Đó là các bài học về phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ trong đàm phán ngoại giao; về kết hợp sức mạnh tổng hợp giữa
đấu tranh chính trị – quân sự – ngoại giao, tận dụng tốt nhất những thắng lợi trên chiến
trường để tạo thế mạnh trên bàn Hội nghị. Đó còn là bài học kiên quyết đấu tranh,
không khoan nhượng trước những đòi hỏi vô lý của đối phương… Những bài học này,
không chỉ được vận dụng thành công trong Hội nghị Paris (năm 1973) mà còn có giá
trị thực tiễn cao trong công cuộc xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

35
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Trần Việt Thái, ThS. Nguyễn Xuân Cường, 2019, Hiệp định Giơ-ne-vơ và
bài học về nghệ thuật biết thắng từng bước.
http://tapchiqptd.vn/vi/su-kien-lich-su/hiep-dinh-gionevo-va-bai-hoc-ve-nghe-
thuat-biet-thang-tung-buoc/14072.html

2. ThS. Nguyễn Thị Hiền, 2020, Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của Hội nghị
Giơnevơ (1954).
https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-doi/tim-hieu-
hoan-canh-lich-su-cua-hoi-nghi-gionevo-1954-56.html

3. PGS, TS Lê Văn Thịnh, 2016, Liên Xô với việc giải guyết cuộc chiến tranh
Đông Dương - Hội nghị Giơnevơ 1954.
http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/692---LIEN-XO-VOI-VOI-VIEC-GIAI-
QUYET-CUOC-CHIEN-TRANH-DONG-DUONG---HOI-NGHI-GIONEVO-
1954

4. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình Đông
Dương
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-
nhan-chung/hiep-dinh-gionevo-nam-1954-ve-dinh-chi-chien-tranh-lap-lai-hoa-
binh-dong-duong-3369

5. Hiệp định Giơnevơ năm 1954: Một thắng lợi trên con đường cứu nước của nhân
dân ta
http://tansonnhi.tanphu.hochiminhcity.gov.vn/dang-bo/hiep-dinh-gio-ne-vo-
nam-1954-mot-thang-loi-tren-con-duong-cuu-nuoc-cua-nhan-dan-c776-
4551.aspx

6. Hiệp định Giơnevơ : Hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa lịch sử


https://giasuhanoigioi.edu.vn/hiep-dinh-gio-ne-vo-hoan-canh-noi-dung-va-y-
nghia-lich-su.html

7. 65 năm Ngày ký kết Hiệp định Giơnevơ (20/07/1954 – 20/07/2019)

36
http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?
tabid=1292&Group=219&NID=5155&65-nam-ngay-ky-ket-hiep-dinh-gio-ne-
vo-2-7-1954--2-7-2-19

8. https://123docz.net/document/9932917-tieu-luan-mon-lich-su-dang-hiep-dinh-
geneva-1954-ve-ket-thuc-chien-tranh-lap-lai-hoa-binh-o-dong-duong.htm

9. https://123docz.net/document/130024-hiep-dinh-geneve-hoan-canh-lich-su-
dien-bien-va-y-nghia-lich-su.htm

37

You might also like