You are on page 1of 9

Câu 14: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ

phát triển của LLSX? Đảng CSVN đã vận dụng quy luật này như thế nào trong
thời kỳ đổi mới ?
Lực lượng sản xuất:
- LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình sản xuất vật chất.
- LLSX là sự kết hợp giữa người/sức lao động với tư liệu sản xuất (TLSX).
+ Người/sức lao động bao gồm trí lực và thể lực, trong đó trí lực giữ vai trò hàng
đầu.
+ TLSX gồm 2 loại là tư liệu lao động và đối tượng lao động.
- Tư liệu lao động là cái cần thiết trong quá trình lao động, nó gồm có 2 bộ phận:
phương tiện lao động và công cụ lao động, trong đó công cụ lao động là quan trọng
nhất. Công cụ lao động là  tư liệu lao động dẫn truyền trực tiếp sức lao động của
người lao động lên đối tượng lao dộng, nó là yếu tố động nhất, cách mạnh nhất,
thay đổi hàng ngày hàng giờ trong quá trình sản xuất của nhân loại, nó nói lên năng
suất lao động của XH. Công cụ càng hiệu quả, năng suất lao động càng cao, nó nói
lên trình độ chinh phục và cải tạo tự nhiên của con người, nó nói lên sự phân biệt
của các thời kỳ kinh tế.
- Đối tượng lao động gồm:
+ Đối tượng có sẵn trong tự nhiên: ngày xưa là quan trọng nhất.
+ Đối tượng do con người làm ra: ngày nay quan trọng nhất. LLSX có tính cá nhân
và xã hội:
XH: LLSX do nhiều người cùng phối hợp sử dụng để tạo ra sản phẩm của XH.
Cá nhân: LLSX do 1 con người lao động sử dụng để sản xuất ra sản phẩm của XH.
→ Như vậy, XH ngày càng phát triển thì LLSX có xu hướng ngày càng mang tính
XH. Ví dụ: 1 cái máy trong nhà máy nhiều người dúng những người khác nhau
đứng ở giai đoạn khác nhau mới làm ra được sản phẩm, nhưng những sản phẩm
làm ra rơi vào tay 1 người. Đó là sự bi đát của CNTB gây ra mâu thuẫn trong
CNTB.
- Trình độ phát triển của LLSX ngày càng cao, cao nhất là trong thời đại chúng ta.
Do:
+ Lý do mang tính chất xuyên suốt chiều dài lịch sử (lý do cơ bản): ngưởi lao động
luôn luôn tự hoàn thiện năng lực lao động của mình, luôn luôn tìm kiếm những
công cụ, phương tiện lao động mới để cho quá trình lao động của mình ngày càng
nhẹ nhàng hơn và hiệu quả hơn. Vì vậy mà  hàng ngày hàng giờ và muôn đời nay
con người luôn luôn làm cho LLSX phát triển không ngừng.
+ Trong thời đại ngày nay, đặc biệt là từ khi CNTB ra đời đến nay, có 1 lý do, đó
là sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đây và CM
khoa học công nghê ngày nay.
→ Đây là lý do chủ yếu trong thời đại chúng ta, cho nên nói cuộc CMKH công
nghệ ngày nay là cuộc CM của LLSX, nó làm thay đổi tính chất và trình độ của
LLSX.
* Quan hệ sản xuất
- QHSX là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, nó bao
gồm 3 mối quan hệ co bản: QH về sở hữu tư liệu SX, QH trong việc tổ chức và
quản lý SX, QH trong việc phân phối sản phẩm làm ra. Trong đó, QH sở hữu về
TLSX giữ vai trò quyết định. Vì thường thì ai nắm quyền sở hữu TLSX, người đó
được quyền tổ chức, quản lý nguồn máy sản xuất của Xh,  người đó được quyền
phân phối sản phẩm do XH làm ra. Vì vậy khi thay đổi QH sở hữu là thay  đổi trật
tự kinh tế XH. Muốn thay đổi trật tự kinh tế thì trước hết phải thay đổi chế độ sở
hữu. Chế độ SH như thế nào thì trật tư kinh tế như thế ấy. Nhưng ngày nay, không
phải nơi nào cũng thế.
- Trong nền sản xuất TBCN hiện đại có xu hướng tách ra quyền sở hữu với quyền
tổ chức, quản lý. Ông chủ là ông chủ, còn giám đốc làm giám đốc.
- Các QHSX hợp thành hệ thống tương đối ổn định (hình thức xã hội của quá trình
SX) so với sự vận động và phát triển liên tục của LLSX (nội dung xã hội của quá
trình SX).
* LLSX quyết định QHSX:
- Sự phát triển của LLSX (nâng cao trình độ và thay đổi tính chất) đã làm thay đổi
QHSX sao cho phù hợp với LLSX được thể hiện như sau:
- PTSX mới ra đời, QHSX luôn phù hợp với trình độ và tính chất của LLSX. Khi
PTSX mới ra đời, QHSX về cơ bản là phù hợp nhưng thỉnh thoảng có trường hợp
không phù hợp. Ví dụ: Nước ta bắt đầu thời kỳ quá độ lên CNXH. Chúng ta duy ý
chí, làm cho QHSX có nhiều yếu tố phát triển quá nhanh, vượt xa trình độ, tính
chất của LLSX. Đó là QH sở hữu tiên tiến (SH Nhà nước, Sh tập thể) lại tồn tại
trên 1 trật tự kinh tế LLSX rất ư là lạc hậu, dẫn đến không phù hợp. Đây là trường
hợp hiếm khi xảy ra, thường thì QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
- QHSX (QHSH tư liệu SX…) khá ổn định, chậm thay đổi, còn LLSX (công cụ lao
động,…) luôn thay đổi. Lúc đầu thì phụ hợp nhưng sau đó chúng lại không phù
hợp do tốc độ thay đổi của chúng không như nhau. Vì QHSX thay đổi chậm, trong
đó QHSH là thay đổi chậm nhất (do QHSh thường được pháp luật, hiến pháp quy
định, nó tạo thành trật tự nền tảng KT-XH nên không dễ dàng thay đổi được.
Trong khi đó, LLSX, đặc biệt là công cụ lao động thay đổi rất  nhanh.
- Khi LLSX thay đổi đến một trình độ và tính chất nào đó thì nó sẽ không còn phù
hợp với QHSX nữa, tức là nó mâu thuẫn với QHSX hiện có.
Mâu thuẩn này ngày càng gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách xóa bỏ
QHSX  cũ, thay thế vào đó QHSX mới cho phù hợp với trình độ và tính chất mới
của LLSX. Ta thay đổi QHSX thông qua CMXH diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, gọi
là cách mạng kinh tế, mới thay đổi được QHSX.
→Từ đó PTSX cũ mất đi, PTSX mới tiến bộ hơn ra đời.
* Sự tác động của QHSX đến LLSX:
Do QHSX có tính độc lập tương đối so với LLSX nên QHSX tác động ngược lại
LLSX. QHSX có tính độc lập tương đối là do:
- QHSX là hình thức XH của quá trình SX. Xét đến cùng nó phụ thuộc, nhưng nó
hoàn toàn không phụ thuộc, nó có tính độc lập tương đối.
- QHSX nói chung, QHSH nói riêng trực tiếp quy định mục đích của nền SX xã
hội, và vì vậy nó tác động đến LLSX.
Ví dụ: CNTB, mục đích là sản xuất ra hàng hóa bán trên thị trường để tư sản thu
được giá trị thặng dư m.
XHPK, địa chủ tổ chức sản xuất để thu địa tô.
Nước ta ngày nay mục đích sản xuất xã hội là SX ra nhiều của cải để thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân ta ngày càng cao, để mở rộng sản xuất, không chạy
theo lợi nhuận.
- QHSX chi phối trực tiếp đến lợi ích của người lao động, nhất là QH quản lý và
phân phối. Trước khi đổi mớii, người ta rất thờ ơ với sự phát triển của LLSX vì
làm nhiều hay làm ít thì cũng hưởng như nhau. Ngày nay, làm theo lao động hưởng
theo năng lực nên tạo điều kiện phát triển LLSX.
- QHSX thúc đẩy LLSX phát triển khi nó phù hợp với LLSX: Bình thường giai
đoạn đầu là thúc đẩy nhưng có chỗ bất thường: nước ta trước đổi mới rơi vào tình
trạnh duy ý chí, vì vậy tạo ra QHSX có những yếu tố vượt trước so với trình độ,
tính chất của LLSX  kìm hãm làm LLSX ngày càng yếu đi, kinh tế rơi vào khủng
hoảng.
- QHSX kìm hãm LLSX phát triển khi nó mâu thuẫn với LLSX, thường thường là
giai đoạn cuối, tuy nhiên sự kìm hãm chỉ mang tính tạm thời, 1 lúc nào đó LLSX
sẽ được giải phóng ra khỏi sự kìm hãm của QHSX để thúc đẩy phát triển tiến lên,
nhưng để xóa bỏ 1 QHSX cũ lập 1 QHSX mới phải thông qua 1 cuộc CMXH,
trước hết là cuộc CM diễn ra trên lĩnh vực kinh tế gọi là CM kinh tế. Chỉ có
CMXH mới thay đổi được QHSX.
3. Đảng cộng sản việt nam đã và đang vận dụng quy luật này vào quá trình xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Sự phát triển của LLSX đòi hỏi phải có quan hệ SX phù hợp với LLSX:
- Đại hội Đảng lần VII đã nêu : để phù hợp với sự phát triển của LLSX, chúng ta
phải thiết  lập từng bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước =>
Chính điều này đã tạo ra sức sống động cho sự phát triển kinh tế, tạo   ra được
nhiều sản phẩm do khơi dậy tiềm năng, sức sản xuất và năng động vốn có của các
thành phần kinh tế.
- Đại hội IX đã xác định : “Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối”.
Văn kiện Đại hội IX cũng đã xác định việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một
quá trình kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao

- Và tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định xã hội xã hội chủ
nghĩa, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp, Đây chính là một trong những định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đồng thời cần thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Và theo Đảng, kinh tế thị trường là kết quả của sự phát triển llsx đến một trình độ
nhất định, kết quả của sự phân công lao động và đa dạng hóa các loại hình thức sở
hữu. Đảng ta đã khẳng  định “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là phát triển llsx, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật, nâng cao dời sống nhân dân.

Câu 15 : Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng mối quan hệ này như thế nào trong
thời kỳ đổi mới?
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức. Trong lĩnh vực XH thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có
trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã
hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay
đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
2.2. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã
hội:
Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra
trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi vì
ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
được thể hiện dưới các hình thức sau:
– Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:
+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;
+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn
giáo…);
+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai trị
ND, nô dịch ND…).
– Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức xã
hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra được
những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã hội nên
có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự sụp đổ
của CNTB…).
– Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một trình
độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình độ kinh
tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển, chẳng hạn
dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn hóa tinh
thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa….).
– Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc
thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ thuộc
vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên một hình
thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm cho toàn bộ
XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn giáo chi phối xã
hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).
– Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn tại
xã hội theo 2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội
thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức
của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của tồn
tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về
ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý thức xã hội
lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào
của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri
thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng thời để đấu
tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản động ra khỏi quần
chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).
Sự vận dụng trong việc xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức
thiết.Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng,trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát
triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây
dựng đó (ví dụ của những biểu hiện cản trở như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và
con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền
thống của dân tộc...) Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận trong sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng
văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với
quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác
phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây
dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh
thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt
vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản
xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh
rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống
tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan Mác - xít. Nắm
vững nguyên lý về tính kế thừa của ý thức xã hội có một ý nghĩa quan trọng đối
với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong
kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn
hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.”

Câu 16: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra
lịch sử? Phê phán những quan điểm sai lầm về vấn đề này?
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức
đúng vai trò sáng tạo lịch sử của quân chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều
đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong
phân tích các vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật lịch sứử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân
chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước
hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần
chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực
tiếp sản xuất ra của cài vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con
người, của xã hội - đây là nhu cẩu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời
đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng
thời cũng là lực luợng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã
hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp "kiểm chứng" các giá trị tinh thần đã được
các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân
dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh những sáng
tạo văn hóa tinh thần của xã hội. Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức
nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ
có ý nghĩa hiện thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt dộng thực tiễn của nhân
dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng
không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào có thể thành công nếu
nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân.
Với ý nghĩa như vậy, có thề nói: cách mạng là "ngày hội của quần chúng" và trong
ngày hội đó, quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử "một ngày bằng hai
mươi năm". Như vậy, những cuộc cách mạng và cải cách xã hội cần đến lực lượng
quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những
cuộc cách mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát triển
xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai
trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh
tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: "Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".
Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã
hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất
và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống
nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến; là chủ thể của lao động, của
mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức
năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử mỗi cá nhân tùy theo vị trí,
chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình
sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng
đồng nhân dân đều "in dấu ấn" của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức
độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong
tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ
nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa
học. nghệ thuật...
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những
cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn
bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân
dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ
bản sau đây: Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động,
phát triển của lịch sử. Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất
ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ
lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử. Ba là, gắn bó mật thiết với
quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra nhũng nhiệm
vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện
những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.
Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của cá
nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cả nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem
thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên cứu
về lịch sử và do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của
lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện
khách quan và chủ quan. Đó là: trình độ phát triển của phương thức sản xuất, trình
độ nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội,
trình độ tổ chức xã hội, bản chất của chế độ xã hội, V.V.. Do vậy, việc phân tích
vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm
toàn diện, phát triển và lịch sử - cụ thể.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân
dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương
pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:
Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần
chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị
lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử xã hội
loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên
cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá
nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp
một phương pháp luận khoa học đề các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã
hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Đó là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi
lực lượng có thể nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp đưa cách mạng xã hội
chủ nghĩa đi tới thẳng lợi cuối cùng

You might also like