You are on page 1of 11

THỂ LOẠI VĂN HỌC

A. Khái niệm thể loại văn học:

Thể loại văn học là một hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học.

* Ví dụ, cùng viết về đề tài người mẹ trong chiến tranh, Tố Hữu viết về người mẹ ở
hậu phương qua tâm hồn người lính bằng thơ lục bát trữ tình (Bầm ơi). Còn
Nguyễn Thi lại viết về một người mẹ, người vợ cụ thể - chị Út Tịch đang cùng
chồng và đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc – bằng thể ký: “Người mẹ cầm
súng”.

B. Tiêu chí phân chia thể loại:

* Các thể loại văn học đã nhiều lại luôn ở trong sự vận động, thay đổi, pha trộn vào
nhau. Các hiện tượng đó làm khó cho công việc phân loại. Tiêu chí phân loại cũng
rất nhiều. Phân loại về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung
lượng dài ngắn. Các tiêu chí làm cho việc phân loại không khỏi chồng chéo, và
nhìn chung sự phân loại chỉ có thể mang tính chất tương đối.

*Cho đến nay phổ biến vẫn tồn tại cách chia ba có từ thời cổ đại. Từ thời Aristote,
văn học được chia làm ba loại theo phương thức, phương tiện biểu đạt của chúng:
tự sự, trữ tình, kịch. Vào thế kỉ XIX, nhà lí luận văn học Nga là Belinski cũng chia
tác phẩm văn học thành ba loại: tự sự, trữ tình, kịch. Ông cho rằng, “chia thơ ca
(văn học) làm ba loại: tự sự, trữ tình, kịch là xuất phát từ ý nghĩa của việc nhận
thức chân lí, cũng tức là trên tinh thần nhận thức- xuất phát từ mối quan hệ qua lại
giữa chủ thể với đối tượng- khách thể nhận thức. Thơ trữ tình biểu hiện phương
diện chủ quan của một con người, đem con người bên trong phơi bày ra trước mắt
chúng ta, do đó toàn bộ là cảm xúc, tình cảm, âm nhạc. Thơ tự

sự là miêu tả khách quan một sự kiện đã hoàn thành, là nhà nghệ sĩ đã chọn cho
chúng ta một điểm thích hợp nhất để bày tỏ tất cả mọi phương diện, làm thành một
bức tranh cho chúng ta xem. Thơ kịch là sự điều hòa hai phương diện trên, chủ
quan, trữ tình và khách quan, tự sự. Trình bày ra trước mắt chúng ta, không phải là
sự kiện đã hoàn thành, mà là đang thực hiện; không phải nhà thơ đang thông báo
sự việc cho ta, mà là từng nhân vật xuất hiện nói với chúng ta”.
* Nhìn chung, có các tiêu chí cơ bản để phân chia thể loại như sau:

1. Hình thức lời văn: dùng để phân biệt thơ văn vần, truyện văn xuôi hay
truyện thơ, kịch thơ hay kịch nói,…

2. Dung lượng tác phẩm: là căn cứ quan trọng để phân biệt thơ với trường ca,
khúc ngâm, phân biệt truyện vừa, truyện dài, truyện ngắn,..

3. Cảm hứng, cảm xúc: là một trong những cơ sở để phân biệt bi kịch, hài
kịch, chính kịch, ngụ ngôn và truyện cười….

4. Nội dung thể loại: tiêu chí này được các nhà nghiên cứu Xô viết như
Pospelov, Sernhext đề xuất nhằm phân loại văn học dựa tên đặc trưng loại hình
lặp lại có hệ thống của đề tài, theo đó có 3 nhóm nội dung thể tài chủ yếu là thể
tài lịch sử, thể tài đời tư, thể tài thế sự.

C. Các thể loại văn học:

1. Thể loại tự sự:

a. Thần thoại:

- Thần thoại là những câu chuyện được lấy cảm hứng từ những sự vật
hiện tượng tự nhiên xảy ra trong lịch sử, kết hợp với sự sáng tạo và trí
tưởng tượng của con người nhằm phản ánh tư tưởng chủ quan của
con người về sự vận động của thế giới, lý giải sự hình thành của thế
giới xung quanh. Giống như nhiều câu chuyện thần thoại khác trên thế
giới, thần thoại Việt Nam gắn liền với tín ngưỡng và niềm tin của con
người vào sức mạnh của các thế lực tự nhiên, đồng thời lý giải những
hiện tượng vĩ mô, như mặt trời, mặt trăng, chuyện sinh đẻ hay sự
chuyển động ngày đêm.

- Tuy nhiên, với sự vận động của thế giới và thay đổi trong tư tưởng của
quần chúng, những câu chuyện thần thoại đã dần bị đồng hóa với các
thể loại văn học dân gian khác, trở thành các thể loại văn học dân gian
thông dụng với quần chúng hơn như truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ
ngôn,.. Từ đó mang đến nhiều bài học và thể hiện được rõ nét hơn về
quan điểm của dân tộc Việt Nam.
- VD: Một thần thoại nổi tiếng của Việt Nam là thần thoại về 12 bà Mụ,
chủ quản việc sinh nở và con cái

b. Truyền thuyết:

- Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian Việt Nam, kể lại
những nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ. Các
truyền thuyết trong văn học dân gian thường có sự xuất hiện của các yếu tố
kì ảo hư cấu, qua đó thể hiện góc nhìn của quần chúng với các nhân vật
lịch sử xuất hiện trong truyền thuyết, qua đó phản ánh nguồn gốc và sự
xuất hiện của các phong tục tập quán ở các vùng, khắc họa được những nét
tính cách của các nhân vật lịch sử, mở rộng hơn là dân tộc Việt Nam.

- Một trong những truyền thuyết nổi tiếng nhất của người Việt Nam là hình
tượng tứ bất tử, bao gồm Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh), Phù Đổng
Thiên Vương (Thánh Gióng), Chử Đạo Tổ (Chử Đồng Tử) và Thánh Mẫu
Liễu Hạnh. Bốn nhân vật này đã trở thành đại diện cho những đức tính tốt
đẹp của con người Việt Nam, đồng thời ca ngợi những công lao, cống hiến
của các vị tổ tiên vào công cuộc xây dựng đất nước. Sơn Tinh Thủy Tinh
đã trở thành truyền thuyết nổi tiếng, là hình tượng của ý chí kiên cường
chống lũ lụt thiên tai

c. Sử thi:

- Sử thi còn gọi là anh hùng ca. Thể loại tự sự dài (thường là thơ) xuất
hiện rất sớm trong lịch sử của các dân tộc nhằm ngợi ca những sự
nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân
tộc trong buổi bình minh của lịch sử. Bức tranh sử thi lấy trọng tâm là
sự xuất hiện của những vị anh hùng, xoay quanh họ là thế hệ quần chúng
nhân dân rộng khắp đang từng bước tiến đến xã hội văn minh. Những bài
sử thi anh hùng đã cho chúng ta thấy cách tổ chức và sinh hoạt và bối
cảnh lịch sử của quần chúng nhân dân trong xã hội cổ đại.

- Sử Thi có cốt truyện đa dạng, là sự pha trộn giữa truyền thuyết và thần
thoại. Nếu truyền thuyết xuất hiện những yếu tố kỳ ảo, làm nền cho sự
phát triển và đóng góp của nhân vật, thì sử thi anh hùng thường được
thuật lại dựa trên những gì đã xảy ra trong thực tế. Nổi tiếng nhất là sử thi
Đăm Săn của dân tộc Ê đê, nói về sự nghiệp của vị anh hùng Đăm Săn,
với 2077 câu, sử thi Đam San không chỉ phản ánh được nét văn hóa vùng
cao của dân tộc Ê Đê tại vùng đất Tây Nguyên, câu chuyện còn nói về sự
anh dũng, những chiến công trong công cuộc thống nhất bộ lạc của vị tù
trưởng dũng cảm này.

d. Cổ tích:

- Khác với truyền thuyết lấy cảm hứng từ những nhân vật và sự kiện có
thật trong lịch sử, cổ tích tập hợp những câu chuyện hư cấu, mang hơi
hướng của đại chúng và kể lại những mẩu chuyện ngắn xảy ra trong đời
sống thường ngày của con người. Sử dụng màu sắc huyền ảo kết hợp với
trí tưởng tượng, cổ tích là những áng văn xuôi thể hiện khát khao sống
hướng thiện cùng tư duy bài trừ cái ác của con người. Sự xuất hiện của
các yếu tố kì ảo như phép màu, thần linh cũng phản ánh được niềm tin của
con người, rằng ở hiền thì sẽ gặp lành.

- Các nhân vật xuất hiện trong truyện cổ tích vốn chỉ được dùng để thể
hiện khát vọng sống thiện của con người, vì vậy các chi tiết về nơi chốn và
quê hương không được nêu cụ thể, cộng với tính chất truyền miệng của
văn học dân gian đã khiến cổ tích trở thành thể loại văn học dân gian có
nhiều dị bản nhất. Mỗi vùng miền lại có một phiên bản cổ tích khác nhau,
tạo ra sự đa dạng về văn học dân gian Việt Nam.

- VD: Sự Tích Tấm Cám đã trở thành câu chuyện kinh điển, thể hiện khát
vọng sống kiên cường của con người và câu nói ở hiền gặp lành

e. Truyện ngụ ngôn:

- Các câu chuyện ngụ ngôn thường sử dụng chất liệu cuộc sống, mượn
hình ảnh của các sự vật, con vật và nhân hóa chúng lên để mô tả lại mối
quan hệ giữa con người. Thông qua các tình huống được miêu tả trong câu
chuyện, truyện ngụ ngôn truyền tải những bài học về đạo đức, lễ nghi
và đạo lý làm người, từ đó giúp người nghe rút ra những kinh nghiệm
sống, tránh mắc phải những lỗi lầm không đáng có, hướng đến một
cuộc sống bình yên, đồng thời bồi dưỡng nhân cách giúp con người trở
nên chính trực, dũng cảm, khôn ngoan hơn.

- Một trong những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng nhất ở Việt Nam chính
là câu chuyện ếch ngồi đáy giếng, kể về một con ếch sinh sống ở đáy giếng
nên chỉ biết đến thế giới bên ngoài thông qua miệng giếng. Vì sự huênh
hoang ấy mà khi ếch thoát ra khỏi đáy giếng thì đã bị một chú bò giẫm
phải. Ngụ ý của câu chuyện nhắc đến sự khiêm tốn, rằng thế giới xung
quanh thực sự rộng lớn, cần phải liên tục trau dồi và học hỏi chứ đừng tự
cao vì những gì ta đã biết.

f. Truyện cười:

- Giống như tên gọi của nó, truyện cười là thể loại văn học dân gian thỏa
mãn nhu cầu giải trí của con người. Thông qua những tình huống trớ trêu
buồn cười trong câu chuyện, không chỉ mang lại tiếng cười sảng khoái
cho người nghe, truyện cười còn là một sự phê phán ý nhị về những
thói hư tật xấu của con người trong cuộc sống.

g. Ca dao:
- Khác với các thể loại văn xuôi truyền miệng bên trên, ca dao là những
bài ca ngắn, phản ánh đời sống sinh hoạt lịch sử, diễn biến nội tâm
của con người và thái độ của họ. Cụm từ ca dao cũng có xuất xứ từ
tiếng Hán, trong đó ca có nghĩa là những chương khúc, giai điệu, còn dao
có nghĩa là những bài hát ngắn, không có đầu đuôi thứ tự chương lục. Ca
dao có thể được trình bày dưới dạng câu đơn không theo quy luật, hoặc
thể thơ lục bát truyền thống phối cùng với âm nhạc. Chúng ta có thể bắt
gặp những câu ca dao thông qua lời hát ru của các mẹ ở miền nông thôn
Việt Nam, mang giai điệu đơn sơ êm đềm và tùy hứng dài ngắn khác
nhau.
- “Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng..."
Đó là giai điệu êm ả thân thương của bài ca dao đã theo ta từ thuở lọt
lòng. Ca dao đi vào tâm hồn mỗi con người Việt Nam ngay từ ngày thơ
bé. Ca dao là một thể loại văn học đơn giản mà đặc trưng của Văn học
Việt Nam nói riêng, văn hóa truyền thống lâu đời nói chung.
h. Tục ngữ:
- Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là đúc
kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói ngắn gọn súc
tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền. Trong khi ca dao là
những câu hát ngắn, không có quy luật cụ thể thì tục ngữ lại có tính ổn
định với số chữ cụ thể cùng quy tắc gieo vần. Tục ngữ thường được nhắc
đến cùng ca dao là vì chúng ta có thể phối hợp ca dao tục ngữ, kết hợp
giữa nhận định về cuộc sống cùng những bài học răn dạy, tạo thành tổ
hợp ca dao tục ngữ, vừa mang tính giáo dục vừa có tính tượng hình đặc
sắc.
i. Thành ngữ:
- Khác với tục ngữ đơn giản về ngữ nghĩa, giúp người nghe gần như hiểu
được ngay lập tức ý nghĩa và bài học kinh nghiệm, thành ngữ là tập hợp
những đoạn, câu, cụm từ có sẵn, tương đối cố định, bền vững, không
nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện
một quan niệm dưới một hình thức sinh động. Vì lý do đó, những hình
ảnh xuất hiện trong thành ngữ thường khó hiểu, không thể lý giải dựa
trên những từ cấu thành nó, cần nhiều thời gian suy ra từ những điển tích
lịch sử thì mới có thể hiểu được.
l. Truyện ngắn:
- Truyện ngắn là tác phẩm văn xuôi tự sứ có hình thức ngắn gọn, chủ yếu
nhằm khắc họa một hiện tượng hoặc một khía cạnh của hiện thực đời
sống, thường chỉ xoay quanh một, một vài nhân vật chính. Truyện ngắn
có dung lượng ngắn, nên ít khi chia thành các mục. Nhân vật trong truyện
thường chỉ khắc họa một phần, một mảnh của cuộc đời. Trong truyện
cũng thường chỉ có một tình huống gây chú ý để từ đó nhân vật bộc lộ
tính cách, tình cảm.

m. Tiểu thuyết:
- Tiểu thuyết là tác phẩm tái hiện cuộc sống một cách phức tạp, đầy đủ,
có thể phân chia nhân vật theo các tuyến hoặc theo sự kiện có quan hệ
phức tạp hơn. Tiểu thuyết thường có dung lượng dài, có thể chia bố cục
thành các chương, hồi, mục… Nhân vật có thể sẽ được khắc họa trọn
vẹn cả cuộc đời, có nhiều tình huống, sự kiện để tạo những cung bậc
thăng trầm hơn cho cốt truyện.
2. Thể loại chính luận:
a. Hịch:
Hịch là một thể văn cổ mà các tướng lĩnh dùng để kêu gọi quân lính,
nhân dân hăng hái tham gia vào các phong trào đánh giặc, tiêu diệt kẻ thù
hoặc tham gia vào một mục tiêu chung nào đó.
VD: Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn). Bài hịch nêu cao tinh thần yêu
nước của dân tộc ta đồng thời nêu lên vấn đề nhận thức và hành động
trước nguy cơ mất nước bị xâm lược.
b. Cáo:
Cáo là thể văn cổ để nhà vua dùng ban bố hoặc thông báo rộng khắp cho
toàn thể nhân dân một chủ trương hoặc một kết quả của sự việc.
VD: Bình Ngô Đại Cáo. Bài cáo là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch
tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn.
c. Chiếu:
Chiếu (chiếu chỉ) là thể văn cổ nhà vua dùng để ban bố mệnh lệnh cho thái
tử hoặc nhân dân.
VD: Chiếu dời đô. Bài chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất
nước độc lập, thống nhất, đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc
Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.
d. Biểu:
Biểu là thể văn cổ, bề tôi dùng để dâng lên nhà vua, trong đó bày tỏ về một
vấn đề nào đó với lời lẽ cung kính.

e. Phú:
Phú là thể văn cổ miêu tả phong cách, kể về sự việc, bàn chuyện đời, phô
diễn tâm tình của tác giả.
VD: Phú Sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu). Bài phú thể hiện lòng yêu
nước và niềm tự hào dân tộc về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền
thống đạo lí nhân nghĩa sán ngời của dân tộc VN. Tác phẩm thể hiện tư
tưởng nhân văn cao qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người.

f. Thư:
Thư là một thể loại văn nghị luận có từ lâu đời, viết cho một người nhận
hoặc đối tượng xác định nào đó, cung cấp thông tin cho người nhận, trình
bày tư tưởng, tình cảm, cách đánh giá cá nhân về vấn đề.

g. Bài phê bình:


Bài phê bình là thể văn bàn bạc, nhận định ,đánh giá về một tình hình, một
vấn đề chính trị, xa hội hoặc tác phẩm văn chương, nghệ thuật.

h. Bài xã luận:
Bài xã luận là bài báo quan trọng nhất thông tin về lập trường, quan điểm,
chủ đề chính, định hướng mang tính tổng quan cho cả một tờ báo, số báo.

i. Báo cáo:
Báo cáo là thể văn nghị luận nhằm tổng kết, đánh giá về kết quả của một
quá trịnh hoặc một hoạt động nào đó.

3. Kí:
a. Bút kí:
Bút kí là ghi chép về con người và sự kiện có thật theo trình tự nhất địn
nhằm mục đích thể hiện một tư tưởng. Bút kí hạn chế đưa ra các chi tiết hư
cấu, đề cao tình chân thực. Để viết được một bài bút kí hấp dẫn, cần dựa
vào tài năng, trình độ quan sát và diễn đạt lại của các nhà văn.
b. Kí sự:
Kí sự là ghi chép lại một câu chuyện, một sự kiện có thật một cách tương
đối hoàn chính và có phần ít yếu tố chủ quan của người viết.

c. Tùy bút:
Tùy bút ghi chép con người và sự kiện cụ thể có thực nhưng chú trọng tới
việc bộc lộ cảm xúc, suy tư, nhận thức của tác giả. Vì vậy tùy bút thường
mang đậm yếu tố trữ tình và đánh giá chủ quan của người viết.

d. Phóng sự:
Phóng sự ghi chép kịp thời những vụ việc, nhằm làm sáng tỏ trước công
luận những vấn đề liên quan tới nhiều người. Phóng sự thường mang tính
thời sự cao, chú trọng tới thông tin và tính cập nhật.

e. Nhật kí:
Nhật kí là thể loại tự sự ở ngôi thứ nhất, ghi chép theo thứ tự ngày tháng
những sự việc hàng ngày mà tác giả là người trực tiếp tham gia, chứng
kiến. Nhật kí được coi là thể loại độc thoại.

f. Hồi kí:
Hồi kí là kể lại những sự kiện, biến cố xảy ra trong quá khứ mà tác giả là
người tham gia hoặc chứng kiến. Hồi kí mang tính chủ quan và có phần
phiếm diện.

D. Tính chất của thể loại văn học:


1. Tính ổn định của thể loại văn học:
- Nguyên nhân:
+ Tính hữu hạn của ngôn ngữ
+ Tính hữu hạn của phương thức chiếm lĩnh hiện thực (nghe kể
chuyện, tự mình chứng kiến, tự mình bộc bạch cảm xúc…)
+ Tính hữu hạn của các phạm trù thẩm mỹ (cái bi, cái hài, cái cao
cả…)
- Biểu hiện:
+ Thể hiện một giới hạn tiếp xúc đời sống, một góc nhìn, một cách
tiếp cận, một trường quan sát, một quan niệm với hiện thực.
+ Một quy luật tổ chức tác phẩm.
+ Thể loại văn học có bản chất siêu cá tính: tồn tại tương đối ổn định
vs tác phẩm; khẳng định vai trò của các yếu tố ổn định trong lịch sử
văn học; phản ánh phương diện hữu hạn của một ý thức nghệ thuật.

2. Tính biến đổi của thể loại văn học:


- Nguyên nhân :
+ Quy luật phát triển theo hình xoắn ốc của vật chất.
+ Nhu cầu xã hội luôn thay đổi đòi hỏi thể loại phải thay đổi để phục
vụ thời đại mới.
+ Bản chất của hoạt động sáng tác là quá trình sáng tạo có tính cá
thể è Nhà văn luôn tìm tòi, đổi mới, thể hiện dấu ấn cá nhân trong
việc vận dụng thể loại.
- Biểu hiện:
+ Biến đổi những đặc trưng về hình thức và nội dung của thể loại để
phù hợp với nội dung tư tưởng của người nghệ sĩ, với yêu cầu của
thời đại.

E. Ý nghĩa của thể loại văn học:

1. Ý nghĩa của thể loại văn học đối với sáng tác:
- Khơi nguồn cảm hứng (Viết cái gì? Viết như thế nào?)

- Gắn liền với nhà văn thành “tư duy thể loại”:

+ Mỗi nhà văn có một thể mạnh thể loại khác nhau.

+ Có sự vận dụng và biến đổi các thể loại

2. Ý nghĩa của thể loại văn học đối với quá trình phê bình, thưởng thức văn học:

- Khi đọc phải tuân theo quy luật thể loại

- Hiểu biết thể loại cung cấp chìa khóa để khám phá chiều sâu tác phẩm

- Quyết định năng lực bình, cảm thụ (Người quá quen với đọc thơ cổ điển sẽ
gặp khó khăn khi tiếp nhận thơ siêu thực…)

- Mỗi bạn đọc có một sở trường trong việc đọc từng thể loại.

You might also like