Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NỘI DUNG TRÊN
MẠNG XÃ HỘI ĐẾN TÀI SẢN THƯƠNG HIỆU
TRONG THỊ TRƯỜNG VÍ ĐIỆN TỬ CỦA THANH
NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Marketing
Chuyên ngành: Quản trị Marketing
Hình: Top 8 Mạng xã hội nhiều người dùng nhất tại Việt Nam (2022)
(Nguồn: https://advertisingvietnam)
Thực trạng sử dụng mạng xã hội hiện nay tại Việt Nam
Theo thống kê từ Statista, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 12 thế giới về tỷ lệ tăng
trưởng người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất từ 2022-2027.
Đến tháng 2/2022, số tài khoản mạng xã hội được kích hoạt là 76,95 triệu, tương ứng
với mức độ thâm nhập là 78,1%. Con số này tăng gần 5 triệu so với cùng kỳ năm 2021, và
tăng mạnh đến gần 12 triệu tài khoản so với cùng kỳ năm 2020. Số lượng người sử dụng
mạng xã hội trên 13 tuổi là 97,8%, 51,4% là nữ và 48,6% là nam. Trung bình mỗi ngày,
mỗi người Việt Nam sẽ dành trung bình 2 tiếng 28 phút để truy cập mạng xã hội, tăng nhẹ
7 phút so với cùng kỳ năm 2021. Trung bình mỗi người dùng khoảng 7,4 nền tảng mạng xã
hội khác nhau để phục vụ những nhu cầu như liên lạc với bạn bè, gia đình, đọc tin tức, “bắt
trend”, xem livestream…Như vậy có thể thấy, mức độ sử dụng mạng xã hội tại Việt Nam
ngày càng tăng lên, đồng nghĩa với việc các nền tảng mạng xã hội sẽ trở thành “mảnh đất
màu mỡ" của doanh nghiệp Việt trong tương lai.
- Mạng xã hội tích hợp dịch vụ thanh toán và công nghệ sổ cái phân tán
Mạng xã hội tạo ra các hệ thống chuyển tiền C2C (Customer to Customer) cá nhân
như Yandex.Money, Paypal, Yandex.Checkout, thanh toán qua Telegram Bots... với tốc độ
tăng trưởng lên đến 1000% mỗi năm. Chức năng giao dịch thông qua các ngân hàng đối với
người dùng mạng xã hội đã được nghiên cứu và triển khai ở nhiều nơi trên thế giới, có thể
kể đến như Quỹ Hỗ trợ Tài chính khoa học Nga với sự đồng tài trợ của Ngân hàng Saint
Petersburg thông qua các mạng xã hội Vkontakte, Odnoklassniki...
Yếu tố quan trọng để phát triển mạng xã hội tích hợp DLT là tốc độ tăng trưởng nhanh
chóng về doanh thu thương mại điện tử, các mô hình kinh doanh C2B (Consumer to
Business). Hiện nay, các công nghệ tài chính thế hệ mới như tiền điện tử trong các hệ thống
giao dịch dựa trên DLT, chủ yếu là Blockchain cũng đã, đang được các tổ chức quan tâm
và phát hành, đồng thời được cộng đồng người tiêu dùng công nhận, ví dụ như Telegram
(Công ty hợp doanh trách nhiệm hữu hạn ở Anh và Mỹ) đã giới thiệu đồng Gram để trao
đổi giữa những người tham gia; Facebook đã tạo ra đồng Diem (trước đây có tên là Libra);
mạng sổ cái phân tán Calibra... Đây cũng là xu hướng phát triển của một lĩnh vực dịch vụ
tài chính mới tích hợp trên mạng xã hội cùng những thách thức đặt ra đối với lĩnh vực ngân
hàng. Các DLT và việc sử dụng tiền điện tử làm công cụ để thực hiện thanh toán, chuyển
tiền giữa các thành viên của mạng xã hội mang lại lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng về
thu nhập. Các ngân hàng cần đánh giá các đặc điểm kỹ thuật và tiếp thị của các đối thủ cạnh
tranh mới để tạo ra phản ứng thích hợp.
Một trong các đối thủ cạnh tranh tiềm năng mới của các ngân hàng đó là sự tích hợp
ba công nghệ trao đổi thông tin: Mạng xã hội, hệ thống thanh toán (Payment System - PS)
và DLT. Mỗi thành phần trong số đó có các thuộc tính đặc biệt, cung cấp giải pháp hiệu
quả và tự chủ trong các nhiệm vụ cụ thể:
• PS là một cơ chế trao đổi dữ liệu chuyên biệt cao, cung cấp sự bình đẳng giữa những
người tham gia tiếp cận dịch vụ, sự hiện diện của một nhà điều hành (trung tâm, cơ
quan quản lý) chịu trách nhiệm về việc thực hiện giao dịch, giải quyết các xung đột,
cả về kỹ thuật và pháp lý về cách tiếp cận và lợi ích của những người tham gia, tốc
độ thực hiện các hoạt động, phí của các dịch vụ thanh toán...
• Mạng xã hội là một phương tiện truyền thông đại chúng, cung cấp hồ sơ của các
nhóm người dùng theo các phân khúc sở thích. Mạng xã hội đang nhanh chóng
chuyển đổi từ một công cụ để trao đổi dữ liệu công nghệ cao sang lĩnh vực giải trí.
Thành phần lợi ích khác nhau của các thành phần xã hội sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả
của hệ thống thanh toán tích hợp trong dự án thương mại.
• DLT là một hệ thống trao đổi dữ liệu, cung cấp cho trung tâm quản lý hành chính
chịu trách nhiệm thực hiện các hành động giữa những người tham gia, lưu trữ, bảo
mật đa dạng dữ liệu, thuật toán xác minh giao dịch (đồng thuận) có thể điều chỉnh
sự bất bình đẳng, mối đe dọa quyền tập trung đối với một số lượng hạn chế người
tham gia, những người sở hữu một phần lớn số dư, rủi ro biến động của tiền điện tử
nội bộ.
Mạng xã hội đã, đang và sẽ là công cụ đắc lực giúp các thương hiệu, nhà bán hàng lẫn
các sàn thương mại điện tử tăng trưởng bền vững. Không chỉ là công cụ đáp ứng nhu cầu
giao tiếp, mạng xã hội (MXH) còn là nơi con người làm việc, trao đổi mua bán. Hầu hết
mọi người từng ít nhất một lần mua sắm qua Facebook, Zalo...Trong đó, Facebook là kênh
bán hàng online được nhiều nhà bán lẻ lựa chọn bởi lượng người dùng nền tảng này rất
"khủng". Đối với những cá nhân mới bắt đầu kinh doanh, vốn ít, quy mô nhỏ thì bán hàng
trên trang cá nhân là sự lựa chọn hoàn hảo. Bên cạnh Facebook, Zalo là MXH đang được
người Việt Nam ưa chuộng, đã cán mốc hơn 100 triệu người dùng, một con số đáng để nhà
kinh doanh chinh phục. Rất nhiều chủ shop thời trang, mỹ phẩm... đã thu được lợi nhuận
khi triển khai bán hàng trên nền tảng này.nstagram cũng là kênh mua sắm thú vị khi người
dùng có cơ hội được trải nghiệm trực quan sản phẩm họ yêu thích. Họ cũng có thể tình cờ
bắt gặp những sản phẩm mới, từ đó phát sinh nhu cầu và mua sắm. Nhờ lượng người truy
cập lớn như vậy, MXH chính là mảnh đất màu mỡ mà các doanh nghiệp thương mại điện
tử (TMĐT), nhà bán hàng lẫn thương hiệu có thể khai thác để tối ưu hóa doanh thu. MXH
đóng một vai trò nổi bật, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của toàn ngành TMĐT tại Việt
Nam. Lướt một vòng Facebook, rất nhiều sàn TMĐT đang tận dụng tối đa tiềm năng của
MXH trong các chiến lược kinh doanh của mình. Các chuyên gia cho biết, người dùng ngày
càng chú trọng tới trải nghiệm mua hàng hơn các yếu tố marketing khác. Thêm vào đó, các
doanh nghiệp hiện nay cũng tập trung sử dụng MXH để phát triển dịch vụ chăm sóc khách
hàng. Thậm chí, việc giao kết hợp đồng trực tuyến có thể thực hiện trên chính Facebook,
Zalo hay một ứng dụng nhắn tin OTT bất kỳ.
- Mạng xã hội đang trở thành 'kinh đô mua sắm' của người Việt
Trong thời gian tới, mạng xã hội sẽ tiếp tục đóng vai trò là “kinh đô mua sắm” của
người dùng. Số liệu từ GWI cho thấy trong năm qua, có khoảng 62,5% người tiêu dùng
tại Việt Nam coi mạng xã hội là phương tiện tiện tìm kiếm thông tin về thương hiệu và
sản phẩm. Kết quả này thậm chí cao hơn những công cụ tìm kiếm chuyên dụng như
Google, Bing… (52,9%) hay các ứng dụng mua sắm trên điện thoại (37,9%). Nhờ sự
bùng nổ của mạng xã hội kết hợp nhu cầu mua sắm, trào lưu thương mại mạng xã hội
(social commerce) đang đứng trước cơ hội giúp thương hiệu bứt phá doanh thu trong
giai đoạn 2022-2023. Ngoài ra, để đưa ra các quyết định mua sắm, người Việt vẫn tin
tưởng nhận xét từ người dùng khác (90%) hơn là quảng cáo từ thương hiệu (30%).
Tương tự, xu hướng tìm kiếm thông tin về nhãn hàng thông qua nhận xét của người đi
trước cao gấp 1,5-2 lần so với website, blog giới thiệu thương hiệu. Do đó, để chinh
phục người tiêu dùng, việc đầu tư ngân sách vào mạng xã hội, đồng thời bắt tay với giới
nổi tiếng như Influencer (người gây ảnh hưởng), KOC (khách hàng gây ảnh hưởng) hay
những cộng đồng liên quan tới thương hiệu là chiến lược tiếp thị đáng để cân nhắc.
Thực tế những năm gần đây, các điểm du lịch trong tỉnh được nhiều người biết tới
nhờ đa dạng hình thức quảng bá trên các trang mạng xã hội. Bằng chứng rõ nhất là chỉ
cần một địa điểm du lịch, ẩm thực đăng tải trên facebook sẽ có nhiều người nhấn thích,
chia sẻ rộng rãi. Với nhiều tính năng hữu ích, mạng xã hội đang trở thành công cụ kiếm
tiền của nhiều người làm dịch vụ du lịch. Thời gian qua, một số địa chỉ du lịch cộng
đồng, du lịch trải nghiệm sinh thái cũng nổi lên nhờ các tính năng này của facebook,
zalo... Không đầu tư công phu, đôi khi chỉ cần vài ba bối cảnh giúp du khách chụp ảnh,
các địa điểm này nhanh chóng “hút khách”. Theo nghiên cứu mới nhất của Web Travel,
hiện nay có hơn 40 triệu người đang sử dụng facebook để cập nhật thông tin và tìm kiếm
thông tin về các dịch vụ du lịch ngoài Google và con số này ngày càng tăng. Độ tuổi
dùng facebook cũng rất đa dạng, nhưng chủ yếu từ 16 đến 35 tuổi. Như vậy, với số
lượng người dùng khổng lồ và phát triển thì việc quảng bá hình ảnh, dịch vụ sản phẩm
đến được đúng đối tượng tiềm năng không khó. Lượng người dùng điện thoại thông
minh để tìm kiếm thông tin về các tour du lịch lên tới 75% và dùng nó truy cập mạng
xã hội là con số vô cùng lớn.
Như vậy có thể thấy, mạng xã hội và việc sử dụng mạng xã hội đã trở thành “một
phần" không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của người Việt Nam, với tần suất sử
dụng đạt mức cao trên thế giới. Đồng thời, mạng xã hội còn là một nền tảng có tiềm
năng tác động đến các lĩnh vực kinh tế khác. Với các dự đoán và cơ hội rộng mở trong
tương lai thì chắc hẳn mạng xã hội sẽ ngày càng phát triển và có tầm ảnh hưởng quan
trọng với các lĩnh vực khác.
Nội dung trên mạng xã hội có sự ảnh hưởng như thế nào ?
Theo Báo cáo tổng quan về kỹ thuật số năm 2020 vào tháng 10 của We Are Social,
hơn 4 tỷ người trên thế giới (4,14 tỷ) hiện sử dụng mạng xã hội mỗi tháng, trung bình có 2
triệu người đăng ký mạng xã hội mỗi ngày. Như vậy có thể thấy, mỗi ngày, số lượng người
truy cập vào mạng xã hội vô cùng “khủng lồ”, họ sẽ phải tiếp cận với một khối lượng lớn
nội dung được đăng tải trên mạng xã hội như: Hình ảnh, Video Clips,...Và các nội dung này
đều sẽ mang những giá trị tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con
người nói chung và người tiêu dùng nói riêng.
Hình: Biểu đồ phân tích các nội dung được chia sẻ trên Social Media
(Nguồn: https://www.brandsvietnam)
Tờ New York Time trong một bài nghiên cứu gần đây thống kê hành vi của người
tiêu dùng đối với các nội dung trên mạng xã hội
• 49% chia sẻ nội dung trên mạng xã hội để thông báo đến bạn bè về những sản phẩm
mà họ đang quan tâm nhằm tạo ra những khả năng làm thay đổi suy nghĩ hoặc
khuyến khích hành động mua hàng.
• 94% đặc biệt quan tâm đến việc thông tin họ chia sẻ có hữu ích đối với người nhận
hay không.
• 68% cho rằng việc chia sẻ nội dung giúp người khác có cái nhìn tốt hơn về con người
họ và những việc họ quan tâm.
• 73% chia sẻ thông tin vì nó giúp họ dễ dàng kết nối với những người khác có chung
vấn đề quan tâm.
• 78% chia sẻ thông tin trên Internet nhằm giúp họ giữ kết nối với một nhóm người
mà họ sẽ không giữ liên lạc theo cách thức thông thường.
• 69% người cho rằng việc chia sẻ nội dung để thể hiện mình đang quan tâm tới các
vấn đề trong cuộc sống khi chia sẻ thông tin trên mạng xã hội.
Như vậy có thể thấy việc chia sẻ nội dung là hành động mang đến những nội dung có
giá trị và giải trí cho những người trong mạng lưới kết nối với mục đích định hình và hoàn
thiện bản thân, gắn kết và làm giàu các mối quan hệ hay lên tiếng về các vấn đề xã hội hoặc
một thương hiệu nào đấy.
Sự ra đời, phát triển của internet và mạng xã hội đã thay đổi một cách đáng kể cách
sống, suy nghĩ và hành động của người dân, đặc biệt là giới trẻ. Nó giúp con người dễ dàng
chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau thông qua việc trò chuyện trực tuyến, chia sẻ âm thanh,
hình ảnh. Làm cho những người sống ở những địa phương, đất nước, châu lục khác nhau
xích lại gần nhau hơn. Những nội dung thông tin trên mạng không chỉ đa dạng, phong phú
mà còn là kho kiến thức khổng lồ, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, nâng cao
nhu cầu hưởng thụ, trao đổi thông tin trong cộng đồng xã hội. Khi mà thông tin ngày càng
trở thành nhân tố quan trọng trong việc nắm bắt thời cơ, cơ hội để hợp tác và phát triển, thì
những tiện ích mà internet, mạng xã hội mang lại đã giúp cho kinh tế xã hội ngày càng phát
triển hơn nữa. Hội nhập về chính trị, văn hóa, xã hội do vậy cũng nhanh, mạnh hơn, làm
phong phú hơn đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
- Mặt tiêu của các mạng xã hội đối với đời sống con người
Điều đáng quan tâm lo ngại nhất hiện nay là nhiều thông tin trên mạng xã hội hàm
chứa nội dung xấu độc, dụ dỗ, lôi kéo người tham gia như: phim ảnh khiêu dâm, lối sống
trụy lạc, kích động bạo lực, khiêu khích chiến tranh, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo…
Với đặc tính hấp dẫn, lôi cuốn của các trang mạng xã hội rất dễ làm cho người tham gia bị
sa đà vào “biển thông tin” hỗn loạn đó lúc nào mà không hay biết, làm cho họ sao nhãng
việc học hành, giảm năng suất lao động, tinh thần uể oải, sa sút, đắm chìm vào thế giới ảo
trong đời sống thực. Đây chính là tác nhân làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm
sinh lý và việc hình thành, phát triển nhân cách, lối sống tốt đẹp của con người, nhất là giới
trẻ.
Giá trị của nội dung trên mạng xã hội tác động tích cực đáng kể đến giá trị thương hiệu
và phản ứng của người tiêu dùng, bao gồm cả lòng trung thành với thương hiệu, sự ưa
chuộng và họ sẵn sàng trả một mức giá cao (Godey, B., et al., 2016). Lamberto Zolloa và
cộng sự (2020) chỉ ra các các hoạt động SMM được người tiêu dùng cảm nhận có ảnh hưởng
đến giá trị thương hiệu, đặc biệt nếu trải nghiệm của người tiêu dùng kỹ thuật số với thương
hiệu là tích cực và nếu họ có được lợi ích về nhận thức, xã hội, cá nhân khi họ duyệt qua
các cộng đồng của thương hiệu cao cấp trên mạng xã hội. Và kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Thị Thúy và cộng sự (2022) góp phần củng cố lý thuyết về sự hài lòng và ý định mua thông
qua việc làm rõ hơn sự tác động của giá trị cảm nhận đến sự hài lòng của khách hàng, ý
định mua lại của khách hàng với một thương hiệu và xác nhận về tác động thuận chiều. Sự
tương tác của video lan tỏa tác động rất mạnh đến thái độ của người tiêu dùng (mạnh thứ
hai) và đây cũng là điểm quan trọng được giải thích dựa vào lý thuyết hiệu ứng hào quang
(hiệu ứng hào quang, tầm ảnh hưởng của một người, sự vật, hiện tượng độc đáo trong video
có ảnh hưởng đến thái độ của người tiêu dùng). Do vậy, có thể cho thấy hiệu ứng hào quang
cũng được giải thích thông qua sự tương tác mạnh mẽ của video lan tỏa thể hiện ở lượt like,
chia sẻ và bình luận tạo cho người tiêu dùng một thái độ tích cực với video, tin tưởng sản
phẩm. Một video càng nhiều lượt tương tác tích cực thì hiệu ứng hào quang càng lan tỏa
mạnh mẽ, từ đó gia tăng thái độ tích cực của khách hàng đối với sản phẩm được quảng cáo
trong video (Nguyễn Hồng Quân, Hoàng Thị Hồng Nga, Nguyễn Thị Kiều Trang, Nguyễn,
2022). Nghiên cứu của (Davood Ghorbanzadeh, Hamidreza Saeednia, Atena Rahehagh,
2020), chỉ ra rằng các giá trị và tính cách của một thương hiệu có thể mang lại lợi ích cho
người tiêu dùng ảnh hưởng đến ý thức nhận diện thương hiệu. Nhận dạng này có thể đạt
được bằng nhiều cách (ví dụ: bao bì, tên thương hiệu và cửa hàng bán lẻ), do đó có thể cung
cấp các điều kiện lý tưởng cho niềm đam mê của người tiêu dùng đối với thương hiệu. Và
khi tạo ra sự ảnh hưởng về niềm đam mê của người tiêu dùng đối với truyền miệng và sẵn
sàng trả nhiều tiền hơn đồng thời niềm đam mê thương hiệu của người tiêu dùng gắn liền
với cảm xúc ấm áp và dễ chịu về thương hiệu, cảm xúc và sự xuất sắc của thương hiệu nằm
trong tâm trí người tiêu dùng.
Như vậy có thể thấy, giá trị nội dung trên mạng xã hội có thể tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến đời sống tinh thần, cũng như, có thể làm thay đổi hành vi, lối sống, nhận thức
của con người trong thời đại công nghệ hiện nay, đặc biệt là người tiêu dùng. Các giá trị
nội dung trên mạng xã hội hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến ý định, hành vi, mức độ nhận
diện thương hiệu,...đối với các sản phẩm tiêu dùng hằng ngày. Các thương hiệu, các doanh
nghiệp có nhiều nội dung truyền tải tích cực sẽ mang về một lượng khách hàng lớn và ngược
lại, họ có thể ghét, chán hoặc thậm chí là tẩy chay, không quan tâm.
1.1.3. Ví điện tử
Tại sao lại chọn thị trường ví điện tử ?
Hiện nay, bên cạnh các giao dịch thực hiện qua Mobile Banking, Internet Banking, cà
thẻ, quét QR Code, thanh toán bằng nhận diện gương mặt... ví điện tử cũng là phương thức
được nhiều người sử dụng. Theo khảo sát của Visa, trong bối cảnh dịch COVID-19, ví điện
tử lại càng "có đất để dụng võ”. Khảo sát cũng cho thấy, 57% người tiêu dùng có tới ba ứng
dụng ví điện tử trên điện thoại, 55% người tiêu dùng ưa thích ứng dụng có thể thực hiện tất
cả các giao dịch. Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hiện thị trường Việt Nam có
khoảng 43 ví điện tử và tổ chức trung gian thanh toán không phải ngân hàng được chính
thức cấp phép hoạt động. Con số này đã tăng gấp 7 lần so với năm 2015.
Các loại ví điện tử đang được dùng nhiều nhất hiện nay
Hiện nay, có trên 43 ứng dụng ví điện tử đang hoạt động tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên,
sự quan tâm của người dùng đang đổ dồn về 4 ông lớn là Ví Momo, Viettelpay, Zalo Pay
và Airpay (ShopeePay), chiếm hơn 90% thị trường ví điện tử hiện nay (Tính tại thời điểm
6/2021). Hơn nữa, mỗi thương hiệu trong bộ tứ này lại đang được người dùng nhắc nhớ đến
với những thế mạnh khác biệt:
• Momo được nhắc nhiều về hoạt động khuyến mãi hấp dẫn, mua hàng trên các trang
thương mại điện tử và thanh toán trực tuyến, thanh toán hóa đơn dịch vụ (điện, nước,
điện thoại trả sau,...).
• Viettelpay nổi bật với hoạt động chuyển khoản,mua thẻ cào trực tuyến,thanh toán
trực tuyến.
• Zalo Pay và Airpay (ShopeePay) được người dùng nhắc đến nhiều với hoạt động
mua thẻ cào Game Online. Đặt biệt đối với Airpay (ShopeePay) còn nổi bật lên với
hoạt động mua đồ ăn trực tuyến.
Hiện tại, MoMo đang là ví điện tử có thị phần lớn nhất ở Việt Nam khi nắm trong tay 53%
miếng bánh thị trường. Xếp sau đó là ViettelPay với 25,2% thị phần và AirPay (mới đổi tên
thành ShopeePay) với 10,6% thị phần.
Hình: Thị phần ví điện tử tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2021
(Nguồn: Vietnam Investment Review)
- Momo
Khởi đầu là một startup, năm 2007 Công ty M_Service (đơn vị sở hữu Ví điện tử MoMo)
chính thức ra đời và cung cấp dịch vụ nạp tiền điện thoại. 3 năm sau đó, tháng 10.2010
thương hiệu Ví MoMo (MoMo viết tắt của từ Mobile Money) có mặt trên thị trường.
Tổng lượt cài đặt từ 1/2019 – 6/2021 là gần 11,8 triệu.
Tổng lượt cài đặt tích lũy là 26,2 triệu và số người dùng hoạt động là hơn 11,8 triệu (Nguồn:
App Annie).
- Viettel Pay
Ngày 29/6/2018, ViettelPay chính thức ra đời – Ứng dụng ngân hàng số đầu tiên tại Việt
Nam cho phép người dân trên mọi miền đất nước có thể sử dụng với thao tác đơn giản, tiện
lợi, tương thích với mọi dòng điện thoại.
Tổng lượt cài đặt từ 1/2019 – 6/2021 ở mức 7,13 triệu lượt.
Tổng lượt cài đặt tích lũy là 13,9 triệu và số người dùng hoạt động 4,08 triệu (Nguồn: App
Annie).
- Airpay (ShopeePay)
Ví điện tử AirPay được Ngân hàng Nhà nước cấp phép theo Giấy phép số 29/GP-NHNN,
ký ngày 16/12/2015 về hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Và, “AirPay là
một trong những sản phẩm nằm trong hệ sinh thái đồng hành với Garena, Ocha, Foody,
Now Delivery và Shopee”. Từ ngày 8/6/2021, ví điện tử AirPay chính thức thông báo đổi
tên thành ví ShopeePay. Sau khi Airpay được đổi tên thành Shoppe Epay, Số lượng người
dùng ví điện tử này ở khu vực lân cận các thành phố lớn tăng gấp 2,5 lần.
Tổng lượt cài đặt từ 1/2019 – 6/2021 là 4,86 triệu lượt
Tổng lượt cài đặt tích lũy là 7,74 triệu và số người dùng hoạt động là hơn 4,86 triệu (Nguồn:
App Annie)
- Zalo Pay
Ra mắt từ năm 2016 thuộc sở hữu của VNG, không ngừng tích hợp nhiều tính năng độc
đáo, ZaloPay được xây dựng chuyên biệt nhằm thỏa mãn nhu cầu thanh toán hàng ngày và
nhu cầu kinh doanh.
Tổng lượt cài đặt 1/2019 – 6/2021 là 4,16 triệu.
Tổng lượt cài đặt tích lũy là 9,66 triệu và số người dùng hoạt động là hơn 11,8 triệu (Nguồn:
App Annie).
Thực trạng thị trường ví điện tử hiện nay tại Việt Nam
Theo báo cáo của các tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, trong 6 tháng đầu năm
2021, tổng số lượng giao dịch bằng ví điện tử được xử lý thành công đạt xấp xỉ 802,56 triệu
món, với tổng giá trị giao dịch đạt khoảng 302,16 nghìn tỷ đồng (tăng lần lượt là 85,38%
về số lượng giao dịch và 91,57% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2020).
Đến cuối tháng 3/2022, tổng số ví điện tử đã kích hoạt là khoảng 39,19 triệu ví (tăng
3,68% so với thời điểm cuối năm 2021, tương đương 10,37%). Tổng số lượng giao dịch
bằng ví điện tử của các tổ chức được xử lý thành công đạt xấp xỉ 583,84 triệu món với tổng
giá trị giao dịch đạt hơn 271,36 nghìn tỷ đồng (tăng 45,82% về số lượng và 105,76% về giá
trị).
- Tổng kết
Trong 6 tháng đầu năm 2021, tổng giá trị giao dịch đạt 302,16 nghìn tỷ đồng
Trong 3 tháng đầu năm 2022, tổng giá trị giao dịch đạt đạt 271,36 nghìn tỷ đồng
Như vậy, có thể thấy, chỉ mới 3 tháng đầu năm 2022 đã đạt hơn một nửa tổng giá trị giao
dịch của 6 tháng đầu 2021.
Dự báo tiềm năng và cơ hội trong tương lai
Theo nghiên cứu mới đây của Merchant Machine về xu hướng và tiềm năng của
Fintech (công nghệ tài chính), sẽ có 4,4 tỷ người dùng trên toàn thế giới sử dụng các loại ví
điện tử vào năm 2024. Và, Covid-19 là tác nhân thúc đẩy sự phổ biến của ví điện tử.
Đà tăng trưởng được nhóm nghiên cứu của Merchant Machine kỳ vọng tăng từ 44,50%
dân số vào năm 2020 lên 51,70% vào năm 2024. Đáng chú ý, từ năm 2015, tổng doanh thu
do các ứng dụng ví điện tử tạo ra đã tăng gấp 3 lần, và đến năm 2022, dự kiến đạt khoảng
1.639,5 nghìn tỷ USD.
Merchant Machine kỳ vọng đà tăng trưởng sẽ tiếp tục được đẩy mạnh và đến năm
2024, khoảng 4,4 tỷ (hơn 50% dân số thế giới) sẽ sử dụng ví điện tử. Ngoài Merchant
Machine, một nghiên cứu khác được Gartner công bố trước đó cũng ước tính 20% doanh
nghiệp hoặc tổ chức, công t6y lớn sẽ sử dụng tiền số để thanh toán vào năm 2024.
• Trong giai đoạn 2022 - 2025, thị trường thanh toán điện tử tại Việt Nam tiếp tục
được đánh giá có nhiều tiềm năng phát triển to lớn nhờ những dự báo về triển vọng
như sau:
- Sự gia tăng của số lượng và chất lượng người sử dụng thanh toán điện tử tại
Việt Nam
Theo báo cáo Cách mạng thanh toán: Định hướng đến 2025 và tầm nhìn tương lai của
PWC Việt Nam, hiện tại, Việt Nam chỉ có khoảng 30% số lượng người trưởng thành sử
dụng dịch vụ ngân hàng số, chính vì vậy, thị trường thanh toán điện tử tại Việt Nam còn
nhiều dư địa để tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới. Việc tăng cường sử dụng các dịch
vụ này, bao gồm cả thanh toán kỹ thuật số sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng khai phá tiềm
năng thị trường trong lĩnh vực này.
• Trong giai đoạn 2022 - 2025, số lượng và chất lượng người sử dụng thanh toán điện
tử Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng, được thể hiện ở các mặt sau đây:
Báo cáo Digital payment users in Vietnam 2017 - 2025, cập nhật năm 2022 của
Statista cho thấy, có 51,8 triệu người dùng thương mại kỹ thuật số tại Việt Nam vào năm
2021. Đến năm 2025, Statista ước tính số lượng người dùng trong phân khúc này sẽ tăng
lên 70,9 triệu. Số lượng người dùng thanh toán qua POS di động cùng lúc sẽ tăng từ 28,6
triệu lên khoảng 34,6 triệu.
- Thanh toán di động sẽ trở thành phương thức thanh toán chủ đạo tại Việt Nam
Báo cáo thống kê Visa consumer payment attitudes study 2021 của Visa cho thấy, với
một số phương thức thanh toán kỹ thuật số đang đạt được sức hút trên khắp Đông Nam Á,
người tiêu dùng hiện có nhiều sự lựa chọn. Sở thích thanh toán của người tiêu dùng Đông
Nam Á đang đa dạng hóa khi trải nghiệm thanh toán kỹ thuật số trở nên phân mảnh hơn.
Theo báo cáo này, hiện Việt Nam đang sử dụng một số phương tiện thanh toán điện tử, như:
thẻ phi tiếp xúc khoảng 7%; thanh toán bằng thẻ tiếp xúc chiếm 8%; thanh toán bằng mã
QR chiếm 7%; thanh toán di động không tiếp xúc chiếm 5%; thanh toán thẻ trực tuyến
chiếm 7%; thanh toán bằng ví điện tử trực tuyến chiếm 15%.
Mặc dù, Việt Nam đang tồn tại nhiều phương thức thanh toán điện tử khác nhau,
nghiên cứu của Allied Market Research về thanh toán điện tử tại Việt Nam giai đoạn 2020
- 2027 lại cho thấy, thanh toán di động sẽ trở thành xu hướng và tốc độ tăng trưởng kép
CAGR của thanh toán di động tại Việt Nam trong giai đoạn 2020 - 2027 là 30,2%. Thống
kê của Statista cập nhật tháng 10/2021 cho thấy, giai đoạn 2020 - 2025, có 5 loại hình của
thanh toán di động đáng chú ý và có sự phát triển mạnh nhất so với các phương thức thanh
toán điện tử khác là: MoMo, Viettelpay, Airpay, Zalo Pay và Grabpay. Theo đó, đến năm
2025, số lượng người Việt Nam sử dụng MoMo đạt khoảng 59 triệu người; Viettelpay có
khoảng 28 triệu người dùng; Airpay của Shopee có khoảng 12 triệu người dùng; Zalo Pay
có khoảng 6 triệu người dùng và Grabpay có khoảng 2 triệu người dùng.
- Sự tăng trưởng của số lượng người dùng điện thoại thông minh tại Việt Nam
Thống kê của Cục Viễn thông - Bộ Thông tin và Truyền thông, đến cuối năm 2021,
Việt Nam đã có 91,3 triệu thuê bao điện thoại thông minh. Đến tháng 3/2022, đã có thêm
hơn 2 triệu thuê bao sử dụng điện thoại thông minh, nâng tổng số thuê bao dùng điện thoại
thông minh tại Việt Nam lên con số 93,5 triệu. Theo Cục Viễn thông, ước tính tỷ lệ người
trưởng thành sử dụng điện thoại thông minh đạt khoảng 73,5%. Tuy nhiên, nghiên cứu của
Statista về số lượng người sử dụng điện thoại thông minh tại Việt Nam giai đoạn 2010 -
2025, cập nhật tháng 5/2021 lại ước tính năm 2021, tại Việt Nam số lượng người dùng là
72,46 triệu. Số lượng người dùng điện thoại thông minh tại Việt Nam được dự báo sẽ đạt
ngưỡng 82,17 triệu người vào năm 2025.
- Định hướng và những nỗ lực của chính phủ trong thúc đẩy thanh toán kỹ thuật
số
Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều sáng kiến, chương trình và dự án khác nhau
để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thanh toán điện tử. Chính phủ đã có những chủ
trương, chính sách phát triển hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, như: Quyết định số
2545/QĐ-TTg, ngày 30/12/2016, của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt Đề án phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số
241/QĐ-TTg, ngày 23/2/2018, của Thủ tướng Chính phủ, về việc phê duyệt Đề án đẩy mạnh
thanh toán qua ngân hàng với dịch vụ công: Thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả
các chương trình an sinh xã hội
Trong thời gian tới, để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bắt kịp xu hướng
tiêu dùng và kinh doanh hiệu quả, Thủ tướng đã phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số
quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ưu tiên các ngành nông nghiệp, tài chính
- ngân hàng, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất
công nghiệp.
Ngày 31/3/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký ban hành Quyết định
số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm
2025, định hướng đến năm 2030. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025 tỷ lệ dân số trưởng
thành có điện thoại thông minh đạt 80%; tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có tài khoản giao
dịch thanh toán tại ngân hàng hoặc tổ chức được phép khác đạt 80%; tỷ lệ dân số trưởng
thành có chữ ký số hoặc chữ ký điện tử cá nhân đạt trên 50%; tỷ lệ người dân trong độ tuổi
lao động được đào tạo kỹ năng số cơ bản đạt trên 70%;...
Có thể thấy, mức độ rộng lớn của thị trường thanh toán không dùng tiền mặt nói chung
và thị trường thanh toán trực tuyến, ví điện tử nói riêng sẽ là một trong những thị trường
tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ tài chính. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này
đã mở ra nhiều cơ hội để phát triển các phương thức thanh toán hiện đại, dễ sử dụng, chính
vì vậy, ví điện tử có đầy tiềm năng để phát triển. Cộng thêm, sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính
phủ cùng với trình độ khoa học, kĩ thuật ngày càng phát triển thì ví điện tử như được “mọc
thêm cánh" để trở thành một siêu ứng dụng được người tiêu dùng lựa chọn đông đảo trong
tương lai.
• Tài sản thương hiệu là một khái niệm vô cùng rộng. Tài sản thương hiệu gồm những
giá trị mà thương hiệu mang đến với khách hàng và những người liên quan như nhân
viên, cổ đông, cộng đồng,…
• Những yếu tố góp phần tạo nên tài sản thương hiệu gồm biểu tượng, slogan và logo
của công ty hoặc sản phẩm.…
• Các yếu tố này cũng chính là tài sản của công ty, tạo nên sự thành công của mỗi
doanh nghiệp. Bởi đó cũng là các yếu tố tiếp cận trực tiếp tới khách hàng.
• Những giá trị này được xác định bởi nhận thức của khách hàng và trải nghiệm của
họ liên quan tới thương hiệu đó.
• Nếu thương hiệu mang tới cho khách hàng sự trải nghiệm tích cực, độ nhận diện của
thương hiệu lớn, điều đó có nghĩa giá trị của thương hiệu đó là “Dương” (positive).
• Ngược lại, khi khách hàng tỏ vẻ thất vọng và có những trải nghiệm không tốt khi sử
dụng dịch vụ, sản phẩm của thương hiệu. Điều đó có nghĩa giá trị của thương hiệu
đó là “Âm” (negative).
Tầm quan trọng của tài sản thương hiệu
Việc sở hữu tài sản thương hiệu là yếu tố khác biệt của thương hiệu với đối thủ cạnh
tranh. Nhờ có tài sản thương hiệu, những chiến dịch marketing đạt được hiệu quả tốt hơn,
tăng được đáng kể độ nhận diện thương hiệu trong tâm trí khách hàng, qua đó thúc đẩy hành
vi mua hàng từ người tiêu dùng. Một tài sản thương hiệu bền vững không chỉ giúp doanh
nghiệp tăng doanh thu và hiệu quả bán hàng, mà nó đồng thời giảm trừ đi chi phí hoạt
động. Thêm vào đó, việc có một tài sản thương hiệu bền vững sẽ giúp thương hiệu có nhiều
lợi thế hơn trong việc phát triển và mở rộng thêm các dòng sản phẩm, ngành dịch vụ mới.
Bởi lẽ, khách hàng đã có sẵn sự nhận biết và tin tưởng với thương hiệu của doanh nghiệp,
từ đó, quyết định chọn lựa các dòng sản phẩm mới sẽ được cân nhắc nhanh hơn.
Theo một nghiên cứu vào tháng 8 năm 2021 trên ATP Web cho thấy rằng, số lượng
người tiêu dùng ngày càng tăng, khoảng 80% hiện từ chối hợp tác kinh doanh hoặc mua
hàng từ một thương hiệu mà họ không tin tưởng và gần 90% có ý định từ bỏ một thương
hiệu đánh mất lòng tin của họ. Bên cạnh đó, tài sản thương hiệu có tác động trực tiếp đến
khối lượng bán hàng và lợi nhuận của công ty bởi vì người tiêu dùng thu hút các sản phẩm
và dịch vụ có uy tín lớn.
Qua các đặc điểm quan trọng của tài sản thương hiệu có thể nhận ra rằng, trong bất
cứ ngành hàng, thị trường nào, tài sản thương hiệu cũng đóng một vai trò hết sức quan
trọng, là một phần mở rộng của sự công nhận thương hiệu. Khi một công ty, doanh nghiệp
có tài sản thương hiệu tích cực, khách hàng sẵn sàng trả giá cao cho các sản phẩm, dịch vụ
của công ty, doanh nghiệp đó.
Như vậy, có thể thấy được tầm quan trọng của tài sản thương hiệu đối với một thương
hiệu, một doanh nghiệp to lớn như thế nào khi nó là một trong những yếu tố tác động mạnh
mẽ đến hành vi, ý định sử dụng của khách hàng. Ngoài ra, tài sản thương hiệu còn là sức
mạnh của doanh nghiệp khi đứng trước đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp sử dụng các nội
dung truyền tải, quảng bá tích cực hay tiêu cực đều ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản thương
hiệu và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến tâm lý, nhận thức của người tiêu dùng về
thương hiệu đó.
Theo số liệu mới nhất của Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam, hiện nay nước ta có
hơn 22,1 triệu người trong độ tuổi thanh niên, chiếm khoảng 22,5% dân số cả nước và gần
36% lực lượng lao động; gần 60% thanh niên sống ở nông thôn; 98,7% người trong độ tuổi
lao động có việc làm.
- Nhóm tuổi được Nhà nước quan tâm, ưu tiên phát triển
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Thanh niên năm 2020, những người trẻ tuổi được Nhà
nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ,
bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động
sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc. Đây là nhóm tuổi nhận được sự ưu tiên, sự quan tâm đặc biệt
từ Nhà nước, họ nhận được những điều kiện phát triển tốt, thành thạo công nghệ và bắt
nhanh xu hướng, luôn biết cách khai thác tiềm năng của các sản phẩm công nghệ hiện đại.
Thanh niên hiện nay hầu hết đều sử dụng smartphone với tần suất khá cao trong một ngày.
Kết quả nghiên cứu do Công ty tư vấn toàn cầu TNS thực hiện trên 60.500 người dùng
Internet toàn thế giới cho thấy, thời gian trung bình của người trẻ Việt Nam (từ 16-30 tuổi)
dành cho điện thoại di động là 2,2 giờ, tương đương với 15,4 giờ/tuần.
Một báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới thực hiện năm 2018 cho thấy 58% sinh viên sẵn
sàng làm thêm giờ vào cuối tuần, 77% đang làm tự do hoặc bán thời gian để kiếm thêm thu
nhập, trong khi 35% cho biết đã hoặc sắp bước chân vào con đường khởi nghiệp. Chính vì
thế, thanh niên là nhóm đối tượng luôn phải tất bật và bận rộn với cuộc sống, họ rất cần các
sản phẩm hỗ trợ để tiết kiệm thời gian, tiện ích cho các hoạt động hằng ngày.
Như chúng ta đều biết, thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, rường cột của
quốc gia. Thanh niên có mạnh thì dân tộc mới mạnh; trong sức mạnh của dân tộc có sức
mạnh của thanh niên. Chính vì thế, họ là nhóm đối tượng luôn được ưu tiên học tập và phát
triển ở điều kiện tốt nhất. Được tiếp cận với công nghệ từ sớm nên các thế hệ thanh niên trẻ
tuổi dễ dàng thay đổi lối sống, tư tưởng mới để phù hợp với cuộc sống công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ngày nay. Từ đó, họ cũng trở thành nhóm khách hàng mục tiêu được các doanh
nghiệp “để mắt” đến, đầy đủ tiềm năng trong tương lai.
Simon & Sullivan lại cho rằng tài sản thương hiệu chính là phần lợi ích gia tăng; còn
Park & Srinivasan cho rằng tài sản thương hiệu chính là phần chênh lệch giữa sự yêu thích
thương hiệu tổng thể và sự yêu thích thương hiệu dựa trên các thuộc tính khác nhau nói
riêng; Tất cả những định nghĩa của các nhà khoa học đều cho rằng tài sản thương hiệu là
giá trị lợi ích tăng thêm từ một sản phẩm vì có tên hiệu.
Lassar & Ctg khi thực hiện nghiên cứu về tài sản thương hiệu dựa trên khía cạnh
khách thì cho rằng tài sản thương hiệu như sự gia tăng lợi ích cảm nhận của khách hàng đối
thương hiệu và bao gồm 05 thành phần: (i) Chất lượng cảm nhận (Performance), (ii) Giá trị
cảm nhận (Value), (iii) Ấn tượng thương hiệu (Social image), (iv) Lòng tin về thương hiệu
của khách hàng (Trustworthiness) và (v) Cảm tưởng của khách hàng về thương hiệu
(Commitment).
Theo CMI, Content Marketing chính là: “Tiếp thị nội dung là một kỹ thuật tiếp thị
dựa trên việc tạo ra và xuất bản nội dung có liên quan, có giá trị để thu hút và nhận được sự
hưởng ứng của khách hàng mục tiêu nhằm đạt được những hành động sinh lợi từ khách
hàng.”
Trong nghiên cứu của Aaker (1991) về tài sản thương hiệu cho rằng tài sản thương
hiệu được đo lường bởi bốn thành phần. Bao gồm: (i) Nhận biết thương hiệu (Brand
Awareness), (ii) Chất lượng cảm nhận (Perceived Quality), (iii) Liên tưởng thương hiệu
(Brand Associations), (iv) Lòng trung thành thương hiệu (Brand Loyalty).
Trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang (2011), khi thực
hiện nghiên cứu tài sản thương hiệu cho thị trường hàng tiêu dùng tại Việt Nam đã cho rằng
mô hình tài sản thương hiệu và các thang đo lường chúng của các tác giả Aaker, Keller,…
được xây dựng tại các thị trường phát triển nên sẽ không phù hợp với thị trường đang chuyển
đổi như Việt Nam. Vì thế, tác giả Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang xây dựng
mô hình, phát triển thang đo tài sản thương hiệu và các thành phần của tài sản thương hiệu
cho phù hợp với thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam đã cho rằng: tài sản thương hiệu đối
với sản phẩm tiêu dùng tại thị trường Việt Nam bao gồm 03 thành phần (i) Chất lượng cảm
nhận, (ii) Nhận biết thương hiệu, và (iii) Đam mê thương hiệu.
2.2.3. Ví điện tử
Theo Caldwell (2012), ví điện tử (e-Wallet) là một hệ thống dựa trên phần mềm
lưu trữ dữ liệu thanh toán an toàn và mật khẩu của người dùng trên máy tính hoặc thiết
bị di động để hỗ trợ không chỉ cho việc mua hàng trực tuyến mà còn cho việc thanh toán
tại các thiết bị đầu cuối (POS) của các cửa hàng truyền thống.
Theo Digital Wallet (2019), Thuật ngữ “ví điện tử” là một dạng ví kỹ thuật số cho
phép một cá nhân liên kết thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng của họ với ví điện tử để thực hiện
bất kỳ giao dịch nào.
Ngoài thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng, ví điện tử cho phép người tiêu dùng lưu trữ
thông tin thẻ và số tài khoản ngân hàng để thực hiện một số hành động đối với thanh
toán (Ray, 2017). Nó được chỉ ra rằng thanh toán được thực hiện bằng ví điện tử thuận
tiện hơn và nhanh hơn so với thông thường hệ thống ngân hàng vì nó tiết kiệm thời gian
và tiền bạc (Blockchains, 2018). Hệ thống thanh toán dựa trên di động đang được sử
dụng rộng rãi cho các giao dịch và thanh toán đang được thực hiện thông qua việc sử
dụng các ứng dụng di động bởi vì người tiêu dùng xem phương pháp này là có lợi
(Gokilavani và cộng sự, 2018). Thanh toán bằng ví điện tử không chỉ mang lại mức độ
dễ dàng và nhanh chóng mà còn mang lại cho người tiêu dùng cảm giác thoải mái và
cảm giác an toàn trong giao dịch ở bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào (Liébana-Cabanillas và
cộng sự, 2014). Việc sử dụng ví điện tử cung cấp các giao dịch quy mô nhỏ rất dễ vận
hành (Punwatkar, et al., 2018).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng đã khẳng định khách hàng thích những công nghệ
có thể cung cấp dịch vụ hữu ích, nhanh chóng trên nền tảng di động. Các dịch vụ thanh
toán di động, trong đó ví điện tử là một trong những tiến bộ mới nhất của nền kinh tế kỹ
thuật số, đã tích hợp các tính năng này (Thakur & Srivastava, 2014). Ví điện tử là một
trong những công nghệ có nhiều cơ hội phát triển trong điều kiện của nền kinh tế kỹ
thuật số (Kapoor & cộng sự, 2015). Ví điện tử có thể thay thế ví vật lý (thanh toán truyền
thống) và thậm chí cả thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín dụng trong việc mua hàng trực tuyến và
trực tiếp. Công nghệ này là một cuộc cách mạng lớn trong nền kinh tế kỹ thuật số vì
trong thời đại cách mạng công nghệ, các vấn đề về tốc độ, khả năng tương tác, bảo mật
và quyền riêng tư của công nghệ di động đã được giải quyết.
7 Nghiên cứu các thành Lê Quốc Nghi Trường (Đại Biến độc lập:
phần của tài sản học Kinh tế - Luật, ĐHQG- 2018 • Nhận biết
thương hiệu thanh long HCM - nghilq@uel.edu.vn) thương
Bình Thuận hiệu
Nguyễn Viết Bằng (Trường • Liên tưởng
Đại học Tài chính – thương
hiệu
Marketing)
• Trung
thành
Đinh Tiên Minh (Trường thương
Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí hiệu
Minh) • Chất lượng
cảm nhận
• Tính an
toàn cảm
nhận
Biến phụ
thuộc:
• Giá trị
thương
hiệu tổng
thể
8 Using Tik Tok in Social Santi Rimadias 2021 Biến độc lập:
Media Marketing to • Giải trí
Create Brand Nesta Alvionita • Tương tác
Awareness, Brand • Xu hướng
• Tuỳ biến
Image, and Brand Adinda Putri Amelia
• Truyền
Loyalty onTourism
miệng
Sector in Indonesia Biến phụ
(tạm dịch: Sử dụng Tik thuộc:
Tok trong Tiếp thị • Nhận thức
Truyền thông Xã hội để thương
Tạo Nhận thức về hiệu
Thương hiệu, Hình ảnh • Hình ảnh
Thương hiệu và Mức độ thương
Trung thành Thương hiệu
hiệu trong Ngành du lịch • Lòng trung
ở Indonesia) thành
thương
hiệu
Biến trung
gian:
• Tương tác
với thương
hiệu của
người tiêu
dùng có
nhận thức
• Tương tác
với thương
hiệu của
người tiêu
dùng có
tình cảm
• Hành vi
tương tác
với thương
hiệu của
người tiêu
dùng
Biến phụ
thuộc:
- Hoạt động
của các doanh
nghiệp vừa và
nhỏ
11. Measuring Consumer Mayank Yadav , Zillur 2017 Biến độc lập:
Perception of Social Rahman - Tương tác
Media Marketing - Thông tin
Activities in E- - Cá nhân hoá
Commerce Industry: - Xu hướng
Scale Development & - Truyền
Validation miệng
(Tạm dịch: Đo lường
nhận thức của người tiêu
dùng về tiếp thị truyền Biến trung
thông xã hội hoạt động gian:
trong ngành thương mại - Trải nghiệm
điện tử: Phát triển quy thương hiệu
mô & Thẩm định )
Biến phụ
thuộc:
- Tình yêu
thương hiệu
- Giá trị
thương hiệu
1 Nghiên cứu định tính Định tính Thảo luận nhóm TP.HCM
2 Nghiên cứu định Định lượng Phỏng vấn bằng bảng câu TP.HCM
lượng hỏi