You are on page 1of 5

I.

Đọc - Hiểu :
1. Phương thức biểu đạt chính : Nghị luận
2. Hiệu quả nghệ thuật :
- Nghệ thuật : Làm cho câu văn trở nên chau chuốt và được nhấn mạnh hơn
- Nội dung : nhấn mạnh góc nhìn của mỗi con người đối với mọi thứ cụ thể ở đây là
suy nghĩ tiêu cực và tích cực qua hai từ “chỉ” và “vẫn” đối với nửa ly nước
3.
-Theo tôi hiểu : Con người ai sinh ra cũng đều có những điểm yếu và điểm mạnh
riêng và đặc biệt không một ai là hoàn hảo trong thế gian này.Thay vì chối bỏ và cố
gắng thay đổi những điểm xấu mà ta không thể thay đổi của bản thân thì việc chấp
nhận nó sẽ mang lại nguồn động lực tích cực cho bản thân để phát triển lẫn thay đổi
những xấu thành điểm mạnh được từ đó tạo thành điểm độc đáo cho riêng bản thân
mình.
4.
-Thông điệp tâm đắc nhất với tôi : Thái độ khác nhau sẽ tạo ra những cuộc đời khác
nhau.
- Vì :
+) Với tôi : Bài học đó mang ý nghĩa sâu sắc và tính thực dụng của nó trong cuộc
sống đời thường. Đông thời nó giúp tôi mở mang được tầm nhìn của mình với mọi
thứ xung quanh nếu thái độ tích cực hơn.
+) Với xã hội : Mọi người sẽ trở nên đoàn kết hơn, hiểu rõ nhau hơn và cũng như mọi
hoạt động, lao động sẽ được phát triển mạnh mẽ với thái độ tích cực, lạc quan hơn so
với việc ta thờ ơ mọi thứ xung quanh.
II. Làm Văn
1. Câu 1 :
Một nhân vật rất nổi tiếng Monkey.D.Luffy từng nói “Trong thế gian này, nếu
bạn không dám mạo hiểm, không dám chấp nhận rủi ro, không dám thay thay đổi bản
thân thì mãi mãi bạn sẽ không bao giờ tạo ra được tương lai”. Câu nói quả thật đúng
là như vậy khi mang một ý nghĩa rất sâu sắc và đặc biệt về việc thay đổi chính mình.
Việc thay đổi bản thân chính là ta can đảm bước ra khỏi vùng an toàn để hoàn toàn
đón nhận,tiếp thu những thứ mới mẻ và độc lạ đối với bản thân từ đó biến chúng
thành thứ độc bản riêng cho chính mình. Qua đó ta có thể dễ dàng chinh phục những
thử thách, khó khăn gian nan một cách mượt mà và dễ dàng. Bên cạnh đó việc thay
đổi giúp cho ta có thêm những phẩm chất tốt đẹp mà sau này chúng sẽ là bạn đồng
hành suốt với ta sau này trên mọi hành trình chinh phục đỉnh cao, thành công đặc biệt
như sự kiên trì, can đảm không ngại khổ, kiên định,ý chí , nghị lực…. Nhờ vào đấy
mà con người luôn biết cách tìm tòi, sáng tạo và cuộc sống vật chất lẫn tinh thần được
cải thiện, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ về mọi mặt lĩnh vực kinh tế, y tế, giáo dục cho
xã hội.Sâu xa hơn nữa thì xã hội càng ngày càng phát triển thì đời sống con người
càng ấm no, hạnh phúc và dù có xảy ra bất trắc thì vẫn có thể xử lý kịp thời. Chẳng
hạn như câu chuyện của anh sinh viên khuyết tật Nguyễn Đức Thuận có niềm đam mê
tin học lập trình từ hồi còn rất nhỏ nhưng luôn gặp phải những khó khăn trong việc di
chuyển cũng như giao tiếp với các bạn đồng trang lứa khác. Tuy khó khăn là vậy
nhưng anh lại sở hữu sự nghị lực cao lớn và quyết tâm thay đổi chính mình từ đó anh
đã giành rất nhiều giải tin học trong nước lẫn nước ngoài và kết thúc có hậu là việc
anh được tuyển dụng trong một tập đoàn công nghệ nổi tiếng nước ngoài là Google.
Thật đáng tiếc thay ở ngoài xã hội vẫn còn đó các bạn trẻ không thay đổi bản thân để
lại nhiều hậu quả đáng tiếc. Các bạn sống không có lý tưởng, ước mơ, hoài bão và dần
trở lên lạc hậu, bi quan, chán nản, luôn gặp những thất bại trên đường đời. Ví dụ
nhưng các bạn trẻ luôn được cha mẹ nuông chiều, được quan tâm chăm sóc, bảo vệ
quá mức và sau này các bạn khi tự lập lại luôn để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Với những con người này chúng ta hãy luôn giúp đỡ và chỉ hướng đi cho họ. Tóm lại
việc thay đổi chính mình có vai trò quan trọng cuộc sống bởi ý nghĩa sâu sắc và
những lợi ích nó mang lại đến cho xã hội con người nói chung và cho chính riêng bản
thân nói riêng.
2. Câu 2 :
Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là mộ là một vị lãnh tụ kiệt
xuất của dân tộc Việt Nam màcòn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của thế
kỷ XX. Di sản thơ ca mà bác để lại có vị trí và ý nghĩa lớn đối với nền văn học nước
nhà. Trong đó “Nhật ký trong tù’’ là tác phẩm có giá trị nhất, được Người sáng tác khi
bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Tập thơ này như một cuốn nhật ký
bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan và vất vả của người tù.
Nhưng với bản lĩnh cách mạng và ý chí kiên cường Người đã vượt qua hoàn cảnh tù
đày để hướng tới ánh sáng. Bài thơ “Chiều tối” là một trong tác phẩm tiêu biểu nhất
được trích trong tập “Nhật ký trong tù” và thể hiện rõ nét qua bốn câu thơ bằng chữ
Hán :
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
Tháng 8/1942, Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của
bạn bèquốc tế về cuộc cách mạng ở Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ khi vừa tới
thị trấn Túc Vinh, tỉnh QuảngTây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam
vô cớ và bị “mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh
Quảng Tây. Trong thời gian này, Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134
bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) được xem là áng thơ tuyệt bút, được
Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Trong lịch sử văn học Việt Nam có hai loại văn chương đó là cổ điển và hiện
đại. Cổ điển là quan điểm văn chương mang tính điển hình, được phôi thai từ văn học
trung đại và trở thành mực thước để hướng các tác phẩm theo một công thức sẵn có
cho nên đòi hỏi tính chuẩn mực trong các sáng tác văn chương. Còn hiện đại dùng để
chính những sáng tạo, mới mẻ, những cách tân nghệ thuật được thể hiện trong một tác
phẩm cụ thể. Qua đó ta thấy được 2 tiêu chí trên có sự mâu thuẫn và đối lập nhau.
Song ở “Chiều tối” - Hồ Chí Minh, 2 đặc điểm này lại kết hợp hài hòa, làm nên vẻ
đẹp của tác phẩm. Ở bài Chiều tối, mỗi hình ảnh thơ luôn có sự vận động trong sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Tuy mang dáng vấp
của những hình ảnh trong thơ cổ nhưng ý thơ, cảm hứng tho và nhân vật trữ tình lại
hoàn toàn hướng về ánh sáng, hướng tới thiên nhiên, cuộc sống và con người. Chất cổ
điển và hiện đại thể hiện ở thi đề “Chiều tối” khi nội dung trữ tình của bài thơ thuộc
về một trong những đề tài khá quen thuộc trong thơ ca cổ phương Đông đó là buổi
hoàng hôn và nỗi niềm cô đơn. Bên cạnh đó là sự chuyển dịch không gian vũ trụ
mang tính chất vĩnh viễn, vĩnh hằng đậm màu sắc ước lệ ở hai câu thơ đầu sang không
gian đời thường mang tính chất sinh hoạt vừa cụ thể vừa sống động ở hai câu thơ sau,
điều mà trong thao tác tư duy thơ, các nhà thơ trung đại ít khi thể hiện.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị
giải lao. Hai cầu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn
cước ở thời điểm “chiều tối” mang phong cách cổ điển rõ nét chỉ qua vài nét chấm
phá qua :
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẽ giữa tầng không)
Qua hai hình ảnh “quyện điểu”, “cô vân” là những thi liệu quen thuộc trong thơ cổ
thường để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Trong thơ xưa,
hình ảnh cánh chim, áng mây cô đơn và bầu trời thường đi liền với nhau như những
biểu tượng ước lệ và thường ẩn dụ tâm trạng cô đơn, nhỏ bé của nhân vật trữ tình
nhưng ở đây thì tạo nên không giang khoáng đãng, cao rộng mang ý nghĩa rằng luôn
ngẩng cao đầu trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Ở đây Người đã sử dụng bút pháp ước
lệ để vẽ lên nền trời chiều đang chuyển động, hình ảnh cánh chim bay về rừng tìm
chốn ngủ là bút pháp quen thuộc của thơ xưa. Trong thơ cổ khi viết về buổi chiều, các
tác giả thường điểm xuyết bằng hình ảnh cánh chim để gợi nỗi buồn hiu quạnh, lấy
không gian để gợi tả thời gian. Ta từng gặp cánh chim trong ca dao xưa “chim bay về
núi tối rồi”, cánh bay mỏi trong thơ bà Huyện Thanh Quan : “Ngà mai gió cuốn chim
bay mỏi”; hay cánh chim thoi thóp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du : “Chim hôm
thoi thót về rừng”. Và một lần nữa cánh chim mỏi xuất hiện trong thơ Hồ Chí Minh
mang nhiều giá trị biểu đạt sâu sắc. Đó chính là nỗi niềm cô đơn, mệt mỏi, gian khổ
của Bác trong những tháng ngày chuyển lao triền miên. Điều mới mẻ có tính hiện đại
ở đây là cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm,
phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần
gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài
mỏi mệt kiếm ăn, nó ý thức về rừng tìm nơi ngủ cũng như người tủ mỏi mệt sau một
ngày lê bước trên đường xa cồn chỗ nghỉ chân. Từ đây ta thấy được là nhà thơ nhìn
thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo
của Người đối với cảnh vật, dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì Người tìm đến thiên
nhiên trong sự hòa hợp.Bài dịch khá uyển chuyển nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi
nổi của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của
hai từ láy “man mạn”. Hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu
trời và nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, khoáng đãng mà còn goiwjl ên nỗi
buồn, buân khuâng của người tù nơi đất quê khách. Có lẽ Người buồn vì đang xa tổ
quốc, nhớ tới đồng bào, đồng chí, nhớ tới nhiệm vụ của mình với tổ quốc chưa hoàn
thành. Tâm hồn Bác mang vẻ đẹp của một tấm lòng luôn gắn bó với cuộc đời, với dân
tọc. Hình ảnh cánh chim và chòm mây trong thơ Bác gợi ta nhớ đến thơ Lý Bạch đời
Đường :
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
(Chim bầy vút bay hết
Mây lẻ đi một mình)
Cánh chim trong thơ Đường của Lý Bạch bay vút vào không gian, như tan biến vào
cõi vĩnh hằng. Cánh chim trong thơ Bác không bị hút vào không gian chiều tối mà nó
chỉ chuyển từ trạng thái bay sang nghỉ để rồi lại tiếp tục cái vòng tuần hoàn của sự
sống.
Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng
khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh
chóng xóa đi cái hu hắt vốn có của núi rừng. Đó chinhslaf lúc mà đôi mắt yêu thương
và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động :
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô đĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Câu thơ “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” mang hình ảnh con người giữa núi rừng bao
la, tạo ra cảm giác hiu quạnh, thưa thớt, thiếu vắng sự sống. Đây là nét vẽ quen thuộc
trong thơ xưa, cảnh chiều tối có thấp thoáng bong người, cô đơn, lẻ bóng :
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người
dân lao động trong công việc hằng ngày xay ngô để chuẩn bị cho bữa cơm gia đình
vất vả mà ấm cúng với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng
nhân đạo. Hình ảnh ấy mang đến cho bức tranh cuộc sống buổi chiều tối một vẻ đẹp
khỏe khắn lạc quan.Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của
Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một
tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn
nhận ra chữ tối. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàng (điệp ngữ vòng) “ma bao túc - bao
túc ma hoàn” được tác giả vận dụng một cách tài tình cho người đọc cảm nhận được
thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô và từ vòng
quay của đời sống lao động ấy gợi lên sự luân chuyển của thời gian từ chiều vào tối.
Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt vì trong thơ Đường thì nó
có ý nghĩa là nhãn tự là co mắt thần. Từ đó hình ảnh lò than rực hồng đã trở thành
trung tâm, tâm điểm của bức tranh, làm cho bức tranh cuộc sống không còn u tịch,
tĩnh lặng như những bức họa về cuộc sống trong thơ cổ. Một chữ hồng mà đem đến
ánh sáng sang, hơi ấm, niềm vui để xua tan bóng đêm, không khí lạnh và nỗi buồn hiu
quạnh.Ở hai câu cuối, sự tài ba của nhà thơ một lần nữa được thể hiện qua bút pháp
hiện đại khi dùng ánh sáng để gợi tả bóng tối. Lò than rực hồng từ trước nhưng khi
trời còn sáng nhìn chưa rõ, khi bóng đêm buông xuống thì ánh lửa lò than bỗng rực
lửa. Bên cạnh đó còn là thể hiện qua tình cảm của nhân vật trữ tình trước bức tranh
thiên nhiên và bức tranh cuộc sống. Trước cuộc sống con người nơi xóm núi, nhà thơ
dạt ào cảm xúc. Cảm xúc ấy nói lên được vẻ đẹp tâm hồn Người. Vẫn là vẻ đẹp của
tấm lòng yêu đời nhưng ở hai câu thơ sau thật cảm động: tấm lòng nhân hậu, lạc quan
của Bác. Người đã quên đi cảnh ngộ của bản thân để hòa mình vào niềm vui của
người lao động nơi thôn dã, trên quê lạ, xứ người.
Bài thơ “Chiều tối” để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về một bức tranh thiên
nhiên vùng sơn cước qua những nét vẽ vừa cổ thi vừa hiện đại. Bài thơ đã làm người
đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí
Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khcas quê người nhưng Người vẫn vượt lên
trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa dày về thể xác để đưa đến cho người đọc những vần
thơ tuyệt đẹp.

You might also like