You are on page 1of 33

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TẠI TP.HCM

ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU DÒNG CHẢY FDI
TRONG VÀ “HẬU” ĐẠI DỊCH COVID-19
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆT NAM

Nhóm: 01
Mã lớp: ML89
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
Giảng viên: Nguyễn Hạ Liên Chi
Môn: Đầu tư quốc tế

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 3 năm 2023


DANH SÁCH THÀNH VIÊN

MSSV Họ và tên Mức độ tham gia

2111113048 Võ Trà Duyên 100%

2111113079 Lê Trương Đức Hiếu 100%

2111510035. Nguyễn Thị Việt Hoài 100%

2111113112 Hoàng Khang 100%

2111113133 Nguyễn Thị Hải Lan 100%

2111113154 Trần Khánh Ly 100%

2111113170 Bùi Thiên Nam 100%

2111113172 Phạm Bá Nam 100%

2111113173 Chu Thanh Ngân 100%

2111113182 Võ Hoàng Ngọc 100%

2111113204 Lê Quang Phú 100%


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................. I
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................................... II
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .................................................................................................... III
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ........ 2
1.1. Khái niệm FDI .....................................................................................................................................2
1.2. Tầm quan trọng của FDI ..................................................................................................................... 2
1.2.1. Đối với các nước trên thế giới và trong khu vực ..........................................................................2
1.2.2. Đối với Việt Nam ......................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DÒNG CHẢY FDI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19
ĐẾN VIỆT NAM TRONG VÀ HẬU ĐẠI DỊCH .............................................................3
2.1. Tình hình dòng chảy FDI trong đại dịch COVID-19 .......................................................................... 3
2.1.1. Thế giới trong đại dịch ................................................................................................................. 3
2.1.2. Việt Nam trong đại dịch ............................................................................................................... 6
2.2. Tình hình dòng chảy FDI hậu đại dịch COVID-19 ...........................................................................10
2.2.1. Thế giới hậu đại dịch COVID-19 ...............................................................................................10
2.2.2. Việt Nam hậu đại dịch COVID-19 .............................................................................................12
2.3. Cơ hội và thách thức của đại dịch COVID-19 đến dòng chảy FDI Việt Nam ..................................14
2.3.1. Cơ hội ......................................................................................................................................... 14
2.3.2. Thách thức ..................................................................................................................................15
CHƯƠNG 3. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT
NAM VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VÀ SAU ĐẠI DỊCH COVID-19 ..........16
3.1. Các chính sách thu hút FDI vào Việt Nam ........................................................................................16
3.2. Các chính sách xúc tiến FDI từ Việt Nam ra nước ngoài ................................................................. 19
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG
CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI ................................22
4.1. Đánh giá chung ..................................................................................................................................22
4.2. Đề xuất giải pháp ...............................................................................................................................23
4.2.1. Các giải pháp ngắn hạn .............................................................................................................. 23
4.2.2. Các giải pháp dài hạn ................................................................................................................. 24
KẾT LUẬN .........................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 26
i
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. 1 Tình hình vốn đầu tư tại Việt Nam giai đoạn 2020-2021 .................................... 6
Bảng 1. 2 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2020 theo ngành ................................ 7
Bảng 1. 3 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2021 theo ngành ................................ 9
Bảng 1. 4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2021, 2022 ............................. 13
Bảng 1. 5 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo ngành năm 2022 ........ 13

ii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 1. 1 Biểu đồ về dòng chảy FDI toàn cầu và khu vực giai đoạn 2018-2021 ................ 3
Hình 1. 2 Thống kê dòng chảy FDI tại các khu vực giai đoạn 2019-2020 và ......................4
Hình 1. 3 Biểu đồ phần trăm tăng trưởng của FDI toàn cầu năm 2021 ............................... 6
Hình 1. 4 Xu hướng đầu tư từ quý 1 2019 đến quý 3 2022 ................................................ 10
Hình 1. 5 Xu hướng đầu tư Quý 1 năm 2019 – Quý 3 năm 2022 ...................................... 12

iii
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm 1980, sự di chuyển nguồn lực quốc tế bao gồm cả sự di chuyển
vốn trên toàn thế giới đã được tự do hóa. Kể từ đó, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã
không ngừng tăng trưởng và mở rộng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, sự xuất hiện của đại
dịch COVID-19 và sự bùng phát quy mô lớn của nó đã gây ra sự gián đoạn đáng kể về
kinh tế, xã hội và chính trị ngay cả trong và hậu đại dịch. Từ đó, tăng trưởng kinh tế toàn
cầu có sự thay đổi lớn, tác động đến xu hướng dòng vốn FDI, trong đó có dòng vốn FDI
vào Việt Nam và dòng vốn FDI từ Việt Nam ra nước ngoài.
Nhận thức được mối tương quan giữa sự biến động của dòng chảy FDI dưới tác
động của dịch bệnh COVID-19 và tình hình đầu tư quốc tế tại Việt Nam, nhóm chúng tôi
quyết định thực hiện bài nghiên cứu “Dòng chảy FDI trong và “hậu” dịch bệnh COVID-
19 và những tác động đến Việt Nam”.
Nghiên cứu nhằm trình bày thực trạng chuyển dịch của dòng vốn FDI toàn cầu,
FDI vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài trong và sau đại dịch COVID-19. Từ đó,
nghiên cứu đề ra các đánh giá trực quan các cơ hội, thách thức cũng như đề xuất một số
giải pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực do đại dịch COVID-19 toàn cầu gây ra đối
với dòng lưu chuyển vốn FDI.

1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm FDI
FDI (Foreign Direct Investment) là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu
tư của một nước đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác
nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó.
(PGS. TS. Vũ Chí Lộc, Giáo trình Đầu tư Quốc tế, 2012)
1.2. Tầm quan trọng của FDI
1.2.1. Đối với các nước trên thế giới và trong khu vực
FDI là một nguồn vốn quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến cả nước đi đầu tư và nước
nhận đầu tư.
Đối với nước đi đầu tư, FDI có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn do tận dụng được
lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ, nguyên liệu và thuế quan; kích thích sản xuất máy móc
thiết bị, tăng kim ngạch xuất khẩu,...
Đối với các nước nhận đầu tư, FDI là một nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển
của đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. FDI giúp nước nhận đầu tư tiếp cận với
nguồn công nghệ cao, giải quyết được vấn đề việc làm và trình độ chuyên môn, mở rộng
thị trường xuất khẩu và góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở các
nước này.
1.2.2. Đối với Việt Nam
Chính phủ Việt Nam đã xem FDI là một trong những yếu tố quan trọng đóng góp
vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Từ khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định Thương
mại tự do (FTA) với các nước và vùng lãnh thổ, các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là
từ các nước lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã dần dần tìm đến để đầu tư vào
các dự án lớn tại Việt Nam. FDI còn mang đến công nghệ, quản lý và truyền thông quốc
tế, giúp cho nền kinh tế Việt Nam có thể cải thiện năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm và dịch vụ, cũng như tạo ra những công ăn việc làm cho người dân Việt
Nam. Từ đó, FDI góp phần tăng trưởng GDP, thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa Việt Nam
và các nước phát triển, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy,
FDI đóng vai trò không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DÒNG CHẢY FDI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19
ĐẾN VIỆT NAM TRONG VÀ HẬU ĐẠI DỊCH
2.1. Tình hình dòng chảy FDI trong đại dịch COVID-19
2.1.1. Thế giới trong đại dịch

Hình 1. 1 Biểu đồ về dòng chảy FDI toàn cầu và khu vực giai đoạn 2018-2021
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2022
Khủng hoảng COVID-19 khiến FDI năm 2020 sụt giảm nghiêm trọng.
Theo Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2020 (World Investment Report) của UNCTAD,
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu đã giảm 35% trong năm 2020, xuống
còn 1 nghìn tỷ USD từ 1,5 nghìn tỷ USD của năm trước. COVID-19 đã gây ra ảnh hưởng
sâu sắc đến nền kinh tế thế giới với vấn đề về lỗ hổng trong chuỗi sản xuất và sự đình trệ
do giãn cách xã hội. Việc đóng cửa trên toàn thế giới để đối phó với đại dịch COVID-19
đã làm chậm các dự án đầu tư hiện có và triển vọng, khiến các doanh nghiệp đa quốc gia
(MNE) gặp nhiều khó khăn, hạn chế đầu tư các dự án mới. Đại dịch COVID-19 tác động
đến dòng chảy FDI trên toàn cầu khá nghiêm trọng, song có sự khác biệt theo từng khu
vực.
COVID-19 cũng tạo ra làn sóng mới về các lĩnh vực do các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài đổ vốn vào. Lần đầu tiên, năng lượng tái tạo đã vượt qua dầu khí trở thành
lĩnh vực được ghi nhận thu hút nhiều vốn đầu tư nhất từ trước đến nay.

3
Hình 1. 2 Thống kê dòng chảy FDI tại các khu vực giai đoạn 2019-2020 và
2020-2021
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2021,2022
Năm 2020, COVID-19 gây ra sự sụt giảm FDI chủ yếu tại các quốc gia phát triển
(giảm 58%), một phần do các công ty buộc phải tái cấu trúc doanh nghiệp và dòng tài
chính nội bộ nhằm thích nghi trong điều kiện mới. Dòng vốn FDI vào châu Âu giảm 80%
trong khi Bắc Mỹ giảm ít hơn (-42%). Hoa Kỳ vẫn là nước tiếp nhận FDI lớn nhất dù đã
giảm đến 49% so với năm 2019, chủ yếu là do thu nhập tái đầu tư giảm.
Ngược lại, dòng vốn chảy vào châu Á tăng 4% vào năm 2020, khiến khu vực này
chiếm đến một nửa dòng FDI thế giới. Cụ thể đối với Trung Quốc, FDI vào quốc gia này
tăng 6%, đạt đến 169 tỷ USD, là quốc gia đứng thứ 2 thế giới. Ấn Độ cũng ghi nhận dòng
vốn FDI cao nhất từ trước tới nay, đạt 81,72 tỷ USD. Có được những tích cực này là nhờ
vào những điều chỉnh trong luật FDI tại Trung Quốc và sự hấp dẫn của môi trường đầu tư
tại các quốc gia châu Á, bất chấp ảnh hưởng của COVID-19.
FDI vào các nước đang phát triển giảm chỉ ở mức hơn 8%. Sự sụt giảm dòng vốn
FDI giữa các khu vực đang phát triển là không đồng đều, lần lượt rơi vào mức -45% ở Mỹ
Latinh-Caribe và -16% ở châu Phi. Tuy nhiên, FDI đổ vào các quốc gia đang phát triển
chiếm 2/3 vốn FDI toàn cầu năm 2020 phần lớn là nhờ vào sự ổn định từ châu Á.
4
Nhằm giải thích cho điều này, dịch COVID-19 khiến nhiều quốc gia phải đóng cửa
biên giới, giới hạn các hoạt động sản xuất và kinh doanh, làm trì hoãn các dự án đầu tư
hiện có. Bên cạnh đó, chính vì sự không đồng đều trong việc triển khai các biện pháp hỗ
trợ kinh tế cũng dẫn đến sự khác biệt trong dòng chảy FDI của các khu vực. Ngoài ra, suy
thoái kinh tế toàn cầu do đại dịch COVID-19 khiến các doanh nghiệp đa quốc phải gia
đánh giá lại và thu hẹp các dự án đầu tư, kết hợp với đó là sự trì hoãn trong hoạt động
mua bán và sáp nhập xuyên biên giới, dẫn đến dòng vốn đầu tư cổ phần giảm hơn 50%.
Đây là các nguyên nhân chính làm suy giảm đầu tư nước ngoài trên toàn cầu năm 2020.
FDI hồi phục mạnh mẽ vào năm 2021.
Trị giá dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2021 là 1,58 nghìn tỷ USD, tăng 64% so
với mức đặc biệt thấp của năm 2020. Gần ba phần tư mức tăng toàn cầu là do sự tăng
trưởng ở các nước phát triển, nơi dòng vốn vào đạt mức 746 tỷ USD – hơn gấp đôi so với
năm 2020, chủ yếu là nhờ các giao dịch M&A và lợi nhuận giữ lại của các MNE.
FDI chảy vào các nước đang phát triển tăng trưởng chậm hơn nhưng vẫn tăng 30%,
đạt 837 tỷ USD. Tỷ trọng của các nước đang phát triển trong dòng chảy toàn cầu vẫn chỉ
ở mức trên 50%. FDI chảy vào châu Phi đạt 83 tỷ USD, tăng từ mức 39 tỷ USD năm 2020.
Tại châu Á, bất chấp những đợt bùng phát liên tiếp của COVID-19, vốn FDI vào các quốc
gia đang phát triển đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại trong năm thứ ba liên tiếp, đạt
619 tỷ USD, khi FDI vào Mỹ Latinh và Caribe tăng 56% lên 134 tỷ USD.
Hầu hết các nền kinh tế đều chứng kiến dòng vốn chảy vào tăng trở lại. Có được sự
tăng trưởng này là nhờ vào các biện pháp kiểm soát dịch bệnh hiệu quả, đi kèm với đó là
các chính sách trợ giúp phục hồi kinh tế chặt chẽ kịp thời, phù hợp tại các quốc gia. Đồng
thời, chính phủ các quốc gia phát triển cũng đã tìm ra những biện pháp để ứng phó cũng
như phục hồi về kinh tế, khiến dòng FDI trở lại mạnh mẽ.

5
Hình 1. 3 Biểu đồ phần trăm tăng trưởng của FDI toàn cầu năm 2021
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2022
2.1.2. Việt Nam trong đại dịch
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/12/2020, tổng vốn
đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt
28,53 tỷ USD, bằng 75% so với cùng kỳ năm 2019. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài ước đạt 19,98 tỷ USD, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2019. Còn đối với
năm 2021, tính đến ngày 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn,
mua cổ phần, mua phần vốn góp đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm nhẹ 1,2% so với
cùng kỳ năm 2020.

Bảng 1. 1 Tình hình vốn đầu tư tại Việt Nam giai đoạn 2020-2021
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của đại dịch COVID-19, song vẫn có
những biểu hiện tích cực trong thu hút đầu tư nước ngoài.
6
Điểm nhấn trong năm 2020 là vốn đầu tư điều chỉnh đạt trên 6,4 tỷ USD, tăng
10,6% so với cùng kỳ năm 2019. Có 1.140 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư,
giảm 17,5% so với cùng kỳ. Về vốn đăng ký mới, có 2.523 dự án mới được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư, giảm 35% so với cùng kỳ, tổng vốn đăng ký đạt 14,65 tỷ
USD, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm 2019. Các nhà đầu tư đã đầu tư vào 19 ngành và
lĩnh vực, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt 13,6 tỷ
USD, chiếm 47,7%. Đứng thứ hai là sản xuất, phân phối điện với tổng vốn đầu tư trên 5,1
tỷ USD, chiếm 18% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là các lĩnh vực hoạt động kinh
doanh bất động sản, bán buôn bán lẻ với tổng vốn đăng ký lần lượt là gần 4,2 tỷ USD và
trên 1,6 tỷ USD.

Bảng 1. 2 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2020 theo ngành
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong năm 2020, trong
đó Singapore dẫn đầu với 9 tỷ USD, chiếm 31,5% tổng vốn đầu tư, Hàn Quốc đứng thứ
hai (3,9 tỷ USD) chiếm 13,8% tổng vốn đầu tư và Trung Quốc đứng vị trí thứ ba (2,46 tỷ
USD, chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông,…Nếu
xét theo số lượng dự án mới thì Hàn Quốc đứng vị trí thứ nhất với 609 dự án. Trung Quốc
đứng vị trí thứ hai với 342 dự án. Nhật Bản đứng thứ ba với 272 dự án. Hồng Kông đứng

7
thứ tư với 211 dự án. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi dẫn đầu về số lượng dự án (950 dự
án) lẫn tổng vốn đăng ký (đạt 4,36 tỷ USD, chiếm 15,3%).
Bên cạnh đó, trong năm 2020, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cũng đạt
trên 590 triệu USD, tăng 16,1% so với năm 2019, và được đầu tư ở 14 lĩnh vực. Trong đó
công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu, sản xuất phân phối điện đứng thứ 2, tiếp theo là
các lĩnh vực tài chính ngân hàng; bán buôn bán lẻ và hoạt động chuyên môn, khoa học
công nghệ. Có 29 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong năm 2020, dẫn
đầu là Lào với 4 dự án đầu tư mới và 5 dự án điều chỉnh, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt
181,3 triệu USD, chiếm 30,7% tổng vốn đầu tư. Úc đứng thứ hai, với 101,8 triệu USD,
chiếm 17,2%. Tiếp theo là Đức, Hoa Kỳ, Myanmar,…
Nhìn chung, theo chiều hướng giảm của thế giới dưới sự tác động của dịch bệnh
COVID-19, dòng vốn FDI vào Việt Nam không tránh khỏi việc giảm sút mạnh so với
năm 2019, đặc biệt khi Đảng và Nhà nước tập trung toàn ý chống dịch, liên tục đóng cửa,
thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách xã hội, các công ty, doanh nghiệp đã gánh
chịu không ít khó khăn trong năm 2020. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài quan tâm và có
nhu cầu đầu tư vào Việt Nam, nhưng đã gặp nhiều trở ngại do sự cản trở của dịch
COVID-19. Xét trong bối cảnh đầu tư toàn cầu thì kết quả này tốt hơn nhiều quốc gia
khác, thể hiện sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt giới đầu tư quốc tế.
Những điều chỉnh trong chính sách, những biện pháp chống dịch tác động to
lớn đến dòng FDI tại Việt Nam năm 2021.
Sang năm 2021, tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không có quá nhiều biến
động so với 2020. Nhờ vào sự điều chỉnh kịp thời các chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm nhanh chóng tháo gỡ và hỗ trợ khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp, FDI tại
Việt Nam được đánh giá là có những bước tiến vượt bậc, cụ thể:
Số lượng dự án quy mô nhỏ dưới 5 triệu USD và 1 triệu USD giảm mạnh. Quy mô
các dự án đầu tư mới hoặc điều chỉnh đều tăng cao so với năm 2020. Đây chính là tín hiệu
đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam, chứng tỏ rằng Việt Nam ngày càng hấp dẫn đối với
các đối tác nước ngoài, có tiềm năng và sức bật vượt trội trong tương lai.
Các đối tác đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đứng top đầu vẫn là các đối tác quen
thuộc như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các lĩnh vực đầu tư thu hút được nhiều FDI
8
vẫn là những ngành như: công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 58,25% tổng vốn đầu tư
đăng ký); sản xuất, phân phối điện (chiếm 18,3%); kinh doanh bất động sản; bán buôn,
bán lẻ.

Bảng 1. 3 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2021 theo ngành
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Năm 2021, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh giảm
trên 366,9 triệu USD (giảm 1,6 lần so với cùng kỳ). Trong tháng 12 năm 2021, Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã giảm gần 1,2 tỷ USD vốn đầu tư của dự án thăm dò
phát triển và khai thác dầu khí tại Nga. Lượng vốn giảm lớn đã vượt quá số vốn đầu tư
mới và tăng thêm của Việt Nam ra nước ngoài trong năm, gây ra sự giảm mạnh trong vốn
FDI Việt Nam ra nước ngoài.
Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 15 ngành. Trong đó hoạt động
chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 420,8 triệu USD,
tăng 6,7 lần so với năm 2020. Ngành bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, với tổng vốn đầu tư
gần 160,9 triệu USD, tăng trên 2,5 lần so với năm 2020; tiếp theo là các ngành nông, lâm
nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo,…Có 26 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận
đầu tư của Việt Nam trong năm 2021, dẫn đầu là Hoa Kỳ với 4 dự án đầu tư mới và 3 dự
9
án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 307,3 triệu USD, tăng 4,4 lần so với
năm 2020. Đứng ở vị trí thứ hai là Singapore, có tổng vốn đầu tư trên 141,7 triệu USD,
tăng gần 3,6 lần so với năm 2020, tiếp theo lần lượt là Campuchia, Israel.
Nhìn chung năm 2021 là một năm ghi nhận những nỗ lực kiên cường của toàn
Đảng và toàn dân, đặc biệt khi có những đợt dịch bùng lên mạnh mẽ với đợt dịch thứ 3 và
thứ 4, giáng nhiều đòn nặng nề vào nền kinh tế Việt Nam với nhiều lần đóng cửa hoàn
toàn, giãn cách xã hội trên toàn quốc. Tuy nhiên, với tinh thần thực hiện “mục tiêu kép”,
vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đã thành công trong việc đảm
bảo tính thông thoáng cho dòng đầu tư từ nước ngoài. Bên cạnh đó, ngoài ảnh hưởng từ
các biện pháp phòng chống dịch, một nguyên nhân khách quan là dòng vốn FDI toàn cầu
suy giảm mạnh, làm ảnh hưởng đến dòng vốn vào Việt Nam. Về chủ quan, đó là do chính
sách thu hút đầu tư có chọn lọc của Việt Nam (giảm số lượng, tăng về chất lượng) giúp
loại bỏ các dự án quy mô nhỏ, có ít giá trị gia tăng.
2.2. Tình hình dòng chảy FDI hậu đại dịch COVID-19
2.2.1. Thế giới hậu đại dịch COVID-19
2022 là năm nền kinh tế toàn cầu khôi phục sau ảnh hưởng mạnh mẽ của đại dịch
COVID-19 khi phần lớn các nước hầu như đã kiểm soát được dịch bệnh tương đối tốt.
Tuy nhiên, phần lớn mức tăng trưởng đến từ quý đầu tiên do tác động lạm phát, lãi suất
tăng cao và chiến tranh giữa Nga - Ukraine khiến FDI toàn cầu suy giảm trở lại.

Hình 1. 4 Xu hướng đầu tư từ quý 1 2019 đến quý 3 2022


Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2022
10
Tính đến cuối quý 1 năm 2022, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi rõ rệt nhờ
vào các chính sách kiểm soát dịch bệnh hiệu quả của chính phủ các nước. Số lượng dự án
greenfield giảm 21%, hoạt động M&A xuyên biên giới thấp hơn 13% so với trung bình
năm 2021 và các giao dịch tài trợ dự án quốc tế đã giảm 4%. Tuy nhiên, xét về giá trị,
M&A xuyên biên giới đã tăng 59% so với năm trước đó. Các giá trị giao dịch tài trợ dự án
quốc tế được công bố thấp hơn 37% so với năm 2021 nhưng vẫn ở mức rất cao so với thời
kỳ trước đại dịch.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu trong quý 2 năm 2022 đạt
mức 357 tỷ USD, giảm 31% so với quý đầu tiên phản ánh sự thay đổi trong tâm lý nhà
đầu tư do tình hình chính trị không ổn định giữa Nga và Ukraine. Ở châu Âu, dòng vốn
chảy vào các nước EU tăng 7%, trong khi dòng vốn chảy vào các nước ngoài EU giảm
hơn 80%. Dòng vốn vào Bắc Mỹ thấp hơn 22% do hoạt động M&A xuyên biên giới của
các công ty Hoa Kỳ giảm hơn một nửa.
Vốn FDI chảy vào các nền kinh tế đang phát triển phục hồi ở mức nhất định, tăng
6% lên 220 tỷ USD. Dòng chảy đến Châu Mỹ Latinh và Châu Á phát triển tăng lên và
duy trì đà tăng mạnh. Tuy nhiên dòng chảy đến Châu Phi gần như cạn kiệt hoàn toàn.
Xu hướng FDI tại một số nền kinh tế mới nổi trong nửa đầu năm 2022.
- Trung Quốc báo cáo xu hướng tăng nhanh, với dòng vốn vào cao hơn 18% trong
quý 2 với các dòng đầu tư lớn vào ngành công nghệ cao.
- Hầu hết các nền kinh tế ASEAN có dòng vốn vào thấp hơn trong quý 2, ngoại trừ
Malaysia và Việt Nam (lần lượt tăng 37% và tăng 15% so với 2021).
- Dòng vốn FDI vào Ấn Độ cao hơn đáng kể trong cả quý 1 và quý 2, đạt mức kỷ
lục trong vòng 3 năm kể từ 2020.
- Dòng vốn đến Brazil tăng mạnh, cao hơn 80% so với nửa đầu năm 2021, chủ yếu
nhờ thu nhập tái đầu tư cao.
- Dòng vốn vào Nam Phi đã giảm 80% so với mức cao bất thường của 2021, nhưng
vẫn còn khá lớn trong lịch sử.

11
Hình 1. 5 Xu hướng đầu tư Quý 1 năm 2019 – Quý 3 năm 2022
Nguồn: UNCTAD, Global Investment Trends Monitor, No. 42
Tính đến cuối quý 3 năm 2022, FDI toàn cầu vẫn tiếp tục giảm 7% so với quý 2.
Dù vậy dòng vốn FDI toàn cầu trong 9 tháng đầu năm 2022 vẫn cao hơn 16% so với giai
đoạn đại dịch COVID-19. Hoạt động Greenfield và M&A cũng giảm nhẹ so với quý 2
dưới tác động từ lạm phát và lãi suất cũng như tình hình chính trị không ổn định.
Số lượng dự án đầu tư giảm trong hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy nhiên vẫn
tồn tại một vài ngành ngoại lệ, đặc biệt là trong lĩnh vực khai khoáng và hóa dầu. Giá trị
các dự án greenfield vẫn tăng đáng kể do sự thiếu hụt nguồn cung trong thời điểm diễn ra
chiến tranh giữa Nga và Ukraine.
Nhìn chung, FDI toàn cầu năm 2022 khá ảm đạm do nhiều cuộc khủng hoảng kinh
tế do các điều kiện tài chính thắt chặt hậu COVID của nhiều quốc gia và tình hình chính
trị căng thẳng. Tuy nhiên, đó cũng là cơ hội tăng trưởng cho các thị trường mới nổi riêng
lẻ, đặc biệt là tại các nước đang phát triển.
2.2.2. Việt Nam hậu đại dịch COVID-19
Trong năm 2022, dù đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế và điều kiện tài chính
thắt chặt hậu COVID, tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có nhiều khởi sắc khi vốn
thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm 2021.

12
Bảng 1. 4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2021, 2022
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/12/2022 (bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn
đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) ước đạt
gần 27,72 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm
2022 ước đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước, là số vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện cao nhất trong 5 năm kể từ 2018. Điều này nói lên rằng Việt Nam
đang phục hồi khá nhanh sau đại dịch , tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi cho các hoạt động
đầu tư, sản xuất và kinh doanh trong nước, cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Bảng 1. 5 Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo ngành năm 2022
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư

13
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 trong 21 ngành kinh tế quốc dân.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 16,8 tỷ USD,
chiếm 60,6% tổng vốn đầu tư đăng ký. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với
tổng vốn đầu tư hơn 4,45 tỷ USD, chiếm 16,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo lần
lượt là các ngành sản xuất, phân phối điện; hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ
với vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 2,26 tỷ USD và gần 1,29 tỷ USD.
Mặc dù năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó
lường làm gia tăng rủi ro đến thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh
lương thực toàn cầu, Việt Nam vẫn nhận được dòng đầu tư từ 108 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 6,46 tỷ USD, chiếm 23,3% tổng
vốn đầu tư vào Việt Nam. Hàn Quốc đứng thứ hai với gần 4,88 tỷ USD. Nhật Bản đã
vươn lên vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,78 tỷ USD, chiếm gần 17,3% tổng
vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, năm 2022 có 109 dự án được cấp mới giấy
chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 426,6 triệu USD, tăng 4,3% so
với năm trước; có 26 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn điều chỉnh tăng 107,4 triệu
USD (năm 2021 điều chỉnh giảm 776 triệu USD). Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt
Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt gần 534 triệu USD, so với điều chỉnh
giảm 367 triệu USD của năm 2021.
Nhìn chung, dòng vốn FDI năm 2022 của Việt Nam khởi sắc trên hầu hết các lĩnh
vực, nhiều ngành đã khôi phục mạnh mẽ với mức tăng trưởng cao hơn so với trước đại
dịch, phản ánh khả năng phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế hậu đại dịch.
2.3. Cơ hội và thách thức của đại dịch COVID-19 đến dòng chảy FDI Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu
nhất là trong việc thu hút FDI tại các nước trên thế giới bao gồm cả Việt Nam. Tuy nhiên,
đại dịch này cũng mang lại những cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong việc thu hút
thêm vốn đầu tư nước ngoài.
2.3.1. Cơ hội
Do ảnh hưởng của COVID-19 đã làm rõ hơn sự phụ thuộc giữa các quốc gia trong
thương mại toàn cầu, đặc biệt phụ thuộc Trung Quốc, từ đó các công ty đang cố gắng
14
chuyển dịch chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc và tìm kiếm các đối tác tin cậy
khác. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, cung cấp lao động giá rẻ và cơ sở hạ tầng ngày
càng được cải thiện, do đó có thể trở thành một lựa chọn hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
Nhu cầu về sản xuất và kinh doanh trực tuyến ngày càng tăng một cách đáng kể do
đại dịch COVID-19. Điều này tạo ra cơ hội cho các công ty công nghệ, trong đó Việt
Nam có một nền tảng công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Điển hình là việc doanh
thu của ngành vào năm 2019 đạt 120 tỷ USD, gấp 400 lần so với năm 2000 và tương ứng
mức tăng bình quân 37%/năm trong suốt 19 năm.
Với mức tăng 28% năm 2022, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có mức tăng
trưởng kinh tế số cao nhất khu vực Đông Nam Á, trong đó thương mại điện tử đó đóng
góp lớn với tốc độ phát triển nhanh nhất khu vực (tăng 26%) so với cùng kỳ năm ngoái
(2021). Việt Nam còn có một số ngành kinh tế đang phát triển mạnh mẽ như bán lẻ, dịch
vụ, du lịch, sản xuất điện tử, thực phẩm và nông nghiệp. Đây là cơ hội để Việt Nam thu
hút thêm nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
2.3.2. Thách thức
Cạnh tranh với các quốc gia khác là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Trong
bối cảnh trong và hậu đại dịch, không chỉ có Việt Nam muốn thu hút thêm nguồn đầu tư
nước ngoài mà còn có các quốc gia khác trong khu vực như: Thái Lan, Philippines,
Indonesia, Malaysia, ...
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để nâng cao cơ sở hạ tầng của Việt Nam, song vẫn còn
nhiều hạn chế như đường sá, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hệ thống vận chuyển. Nó sẽ là một
vấn đề lớn cần phải cân nhắc đối với các nhà đầu tư nước ngoài đang có ý định đầu tư vào
Việt Nam.
Giá sản phẩm của Việt Nam đang ngày càng tăng kể từ sau đại dịch COVID-19.
Mặc dù nhân công, lao động Việt Nam dồi dào, chi phí lao động rẻ. Tuy nhiên giá thành
nguyên vật liệu và chi phí sản xuất đang tăng từng ngày, khiến cho Việt Nam giảm đi sức
cạnh tranh so với đối thủ trong khu vực.

15
CHƯƠNG 3. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VÀ SAU ĐẠI DỊCH COVID-19
3.1. Các chính sách thu hút FDI vào Việt Nam
Theo bảng xếp hạng “sức khỏe” tài chính 66 nền kinh tế mới nổi của tờ báo The
Economist (2020), Việt Nam đứng thứ 12 trong bối cảnh toàn cầu đang phải đối mặt với
đại dịch COVID-19, khi đã thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh và đảm bảo an toàn
cho người dân cũng như các nhà đầu tư. Cùng với các chính sách đầu tư thân thiện cũng
như sức hút từ nền chính trị ổn định, nguồn nhân lực dồi dào đã tạo ra cơ hội lớn để Việt
Nam thu hút FDI trong bối cảnh sau đại dịch các tập đoàn đa quốc gia đang tìm kiếm
những điểm đến an toàn để thiết lập lại cơ sở sản xuất. Những thành công này đã thu hút
được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài và giúp Việt Nam thu hút được lượng
lớn FDI, trở thành một trong những quốc gia thu hút FDI thành công nhất khu vực và trên
thế giới.
Trong thời kỳ đại dịch COVID-19 và căng thẳng chiến tranh thương mại Hoa Kỳ -
Trung Quốc leo thang, quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng và tái cơ cấu đầu tư của các
tập đoàn đa quốc gia được thúc đẩy nhanh hơn, với hai xu hướng xuất hiện: rút vốn đầu tư
quay trở lại và mở rộng đầu tư sang các quốc gia khác có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với
xu hướng phát triển mới của chuỗi giá trị toàn cầu và phân công giá trị chuỗi cung ứng.
Do đó, nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia trong khu vực ASEAN, đã đưa ra nhiều ưu
đãi và hỗ trợ để thu hút dòng vốn FDI dịch chuyển từ Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam
đã đưa ra nhiều biện pháp tích cực, chẳng hạn như thành lập một tổ công tác đặc biệt để
đón đầu làn sóng đầu tư khi thế giới dịch chuyển lại chuỗi cung ứng và sản xuất sau
COVID-19, thông qua Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp với những sửa đổi quan trọng về
đầu tư, cũng như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Ngoài ra,
việc Việt Nam ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định
Thương mại tự do Anh-Việt (UKVFTA) và các FTA lớn khác như FTA Việt Nam - EU
(EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
đang tạo ra cơ hội lớn cho Việt Nam hội nhập và tham gia sâu hơn vào mạng lưới sản
xuất toàn cầu, lựa chọn các dự án FDI chất lượng để tiến lên cao hơn trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
16
Bên cạnh sự hấp dẫn từ môi trường chính trị ổn định, kiểm soát tốt dịch COVID-19,
Việt Nam cũng đã có nhiều quy định như: Quy định hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc
biệt áp dụng đối với các dự án đầu tư thành lập mới (bao gồm cả việc mở rộng dự án
thành lập mới đó) các trung tâm đổi mới sáng tạo, R&D có tổng vốn đầu tư từ 3000 tỷ
đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 1000 tỷ đồng trong thời hạn 3 năm kể từ ngày
được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc chấp thuận chủ trương đầu tư; Trung tâm
đổi mới sáng tạo quốc gia được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Dự
án đầu tư thuộc ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 30000 tỷ
đồng trở lên, thực hiện giải ngân tối thiểu 10000 tỷ đồng trong thời hạn 3 năm… nhằm
khuyến khích phát triển một số dự án đầu tư có tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn hậu đại dịch, Bộ Chính trị đã ban hành chiến lược “chọn lọc”
trong Nghị quyết số 50-NQ/TW về việc hoàn thiện thể chế, chính sách, và nâng cao hiệu
quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 liên quan đến công nghệ và môi trường, đặc
biệt là cam kết hợp tác đưa doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt
Nam đã chuyển đổi chiến lược thu hút vốn FDI từ “thu hút bằng mọi giá” sang “thu hút
có chọn lọc”, từ “thu hút thụ động” sang “thu hút chủ động”, và từ “thu hút dựa trên hiệu
quả tài chính và quy mô dự án” sang “thu hút dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội - môi
trường” nhằm tăng năng lực sản xuất quốc gia và thúc đẩy tác động lan tỏa giữa FDI và
nền kinh tế trong nước.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), các ưu đãi về thuế hay gánh
nặng thuế thấp cũng không hấp dẫn bằng môi trường kinh doanh thuận lợi. Vì vậy, để cải
thiện môi trường kinh doanh và định hướng FDI theo đúng định hướng của Chính phủ,
Việt Nam đã tiến hành một số chính sách cải thiện khung pháp lý hợp lí và kịp thời. Thứ
nhất, “rà soát và bổ sung các quy định, điều kiện để thu hút, duy trì và sàng lọc các khoản
đầu tư hiệu quả để tối đa hóa tăng trưởng kinh tế”. Thứ hai, “tiếp tục tạo khung pháp lý
cho việc đa dạng hóa các hình thức đầu tư, hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết,
chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, trao đổi lao động kỹ thuật...; chú trọng một số
phương thức đầu tư mới trong thời gian gần đây như phương thức đầu tư xuyên biên giới
không góp vốn (NEM) và hình thức đầu tư mới (NFI) với các hình thức cụ thể như thuê
gia công, thuê ngoài dịch vụ, khoán nông nghiệp, nhượng quyền, cấp phép và quản lý
17
theo hợp đồng”. Đồng thời, Chính phủ hoàn thiện các quy định liên quan đến mua bán -
sáp nhập (M&A) qua đó số lượng các thương vụ M&A lớn trong những năm 2021, 2022
liên tục tăng, đóng góp không nhỏ vào dòng vốn FDI của Việt Nam. Một số thương vụ
M&A điển hình diễn ra trong thời gian hậu đại dịch như là tập đoàn SMBC của Nhật Bản
hoàn tất mua lại 49% cổ phần của FE Credit (2021), vào giữa tháng 6.2021 Alibaba và
Baring Private Equity đã chính thức tham gia vào thị trường bán lẻ Việt sau thương vụ
đầu tư 400 triệu USD vào Crownx (Masan),...Thứ ba, “xây dựng các quy định, tiêu chuẩn
như một bộ lọc mới nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân
thiện với môi trường và có năng lực; đồng thời ban hành các quy định để bảo vệ uy tín và
hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư nghiêm túc, luôn tuân thủ pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Rà soát và hoàn thiện hệ thống chính sách về chuyển giao công nghệ,
chính sách về nghiên cứu phát triển; thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp trong nước hướng
tới khai thác tốt các cơ hội, lợi thế; giảm thiểu các tác động không mong muốn trong thu
hút FDI”.
Trong Nghị quyết số 02/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia và Luật Đầu tư năm 2020, các quy định dần cởi bỏ các thủ
tục hành chính không cần thiết trong quản lý hoạt động đầu tư. Trong đó, Luật Đầu tư sửa
đổi mang tính hỗ trợ cho các dự án về đầu tư khởi nghiệp, dự án đầu tư nước ngoài vào
hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam. Nhà đầu tư các dự án lớn (ví dụ: sân golf, casino…)
sẽ chỉ cần xin chấp thuận từ UBND cấp tỉnh, thành phố so với trước đây phải xin chấp
thuận của Thủ tướng chính phủ. Về gia hạn tiến độ đầu tư, Luật quy định không được gia
hạn tiến độ dự án quá 24 tháng so với tiến độ ban đầu, trừ những trường hợp bất khả
kháng theo quy định của pháp luật và các trường hợp khác thì được gia hạn quá 24 tháng.
Qua đó, tạo ra “lối thoát” cho nhiều dự án treo tại Việt Nam.
Ngoài việc điều chỉnh các quy định pháp lý, Chính phủ cũng thực hiện các chính
sách ưu đãi đầu tư tập trung vào những ngành, nghề, lĩnh vực có tiềm năng tạo ra “ngoại
ứng tích cực cho nền kinh tế”. Những lĩnh vực ưu tiên được chú trọng bao gồm công nghệ
cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, y
tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục - đào tạo, logistic, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao,
nông nghiệp thông minh, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại và các ngành nghề
18
mới trên nền tảng công nghiệp 4.0. Chính sách ưu đãi được điều chỉnh theo hướng tập
trung vào ưu đãi theo ngành nghề và lĩnh vực, cùng với việc xác định ưu đãi dựa trên hiệu
quả kinh tế, xã hội và môi trường, thay vì chỉ tập trung vào địa bàn đầu tư.
Kết quả của một cuộc khảo sát nhanh do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) thực hiện vào tháng 9/2022 cho thấy thông tin
tích cực về hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hơn 90%
doanh nghiệp đạt mức hiệu quả kinh doanh và tình hình tài chính ở mức trung bình và cao.
Hầu hết các doanh nghiệp bày tỏ sự lạc quan và tin tưởng vào Việt Nam, cam kết tiếp tục
mở rộng đầu tư và kinh doanh lâu dài, trong đó khoảng 66% doanh nghiệp dự định mở
rộng đầu tư trong năm 2023. Khoảng 76% doanh nghiệp đánh giá hiệu quả các chính sách
hỗ trợ sản xuất kinh doanh của Chính phủ ở mức trung bình và cao. Những thành tựu của
nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là sau đại dịch COVID-19, là bằng
chứng quan trọng cho thấy tính hợp lý và kịp thời của các chính sách Chính phủ để thu
hút vốn FDI vào Việt Nam.
Việc cải thiện môi trường kinh doanh, sản xuất, đầu tư và thương mại quốc tế trong
và sau đại dịch COVID-19 đã tạo ra nhiều điểm sáng, đó là cơ sở để nhiều tổ chức quốc tế
uy tín tiếp tục đánh giá tích cực về tình hình kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Điều này đang tạo ra niềm tin rất lớn từ phía nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu
tư và vị thế kinh tế của Việt Nam, dự báo cho thấy triển vọng rất tích cực cho đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Các chính sách xúc tiến FDI từ Việt Nam ra nước ngoài
Giai đoạn từ năm 2019 cho đến nay, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới gặp nhiều
khó khăn dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vẫn cho thấy nhiều tín hiệu tích cực. Một
phần không nhỏ là nhờ sự cởi mở của môi trường pháp lý đầu tư và hệ thống chính sách
hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp Việt đầu tư ra nước ngoài ngày càng được hoàn thiện hóa.
Một trong những chính sách đáng chú ý là việc sửa đổi và ban hành Luật Ðầu tư
2020 có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 với những thay đổi, bổ sung tạo cơ hội thuận lợi thúc
đẩy và hỗ trợ hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể, Luật đầu tư 2020 tạo điều kiện cho
hoạt động đăng ký đầu tư; cắt giảm chi phí và thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư,
19
kinh doanh. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa các cơ quan trung ương
và cơ quan địa phương trên cơ sở đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Những quy định này đã giúp doanh nghiệp Việt
Nam mở rộng đầu tư vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng khả năng hội nhập quốc
tế. Bên cạnh đó để khắc phục những rủi ro trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài, cuối
năm 2021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã kiến nghị Chính phủ giao cơ quan chức năng
rà soát, đánh giá xu hướng đầu tư ra nước ngoài đối với một số lĩnh vực kinh doanh bất
động sản, đầu tư của cá nhân, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đầu
tư ra nước ngoài để có giải pháp quản lý và xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh.
Đồng thời, thúc đẩy đàm phán, sớm ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
với các nước có nhiều hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam hoặc đối tác tiềm
năng nhằm tạo khuôn khổ pháp lý, thúc đẩy hợp tác đầu tư thuận lợi, an toàn và hiệu quả.
Thực tế cho thấy, Nghị định số 83/2015/NĐ-CP hướng dẫn về đầu tư ra nước
ngoài được Chính phủ ban hành là bước đệm giúp doanh nghiệp Việt mở rộng phạm vi
đầu tư, kinh doanh ở nước ngoài. Bên cạnh việc tham mưu, ban hành luật và các nghị
định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 03/2021/TT-BKHĐT quy định mẫu
văn bản, báo cáo liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam, đầu tư từ Việt Nam ra
nước ngoài và xúc tiến đầu tư góp phần chuẩn hóa thủ tục pháp lý cho hoạt động đầu tư ra
nước ngoài, vừa tạo môi trường thông thoáng, vừa giúp cơ quan quản lý nhà nước tăng
cường hiệu lực quản lý với các dự án ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Nhờ đó, đến nay, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã tạo được những dấu ấn nhất
định. Đánh giá về bức tranh đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong
năm 2021, các chuyên gia kinh tế cho rằng, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn
biến phức tạp trên thế giới nhưng số vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt
Nam tăng lên cho thấy các nhà đầu tư Việt Nam vẫn nhìn thấy rất nhiều cơ hội ở bên
ngoài. Cụ thể, năm 2021, có 88 dự án đầu tư ra nước ngoài phát sinh doanh thu với tổng
doanh thu là 7,78 tỷ USD, tăng tới 40% so với năm 2020. Theo Tổng cục thống kê, trong
năm 2022, có 109 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn
đăng ký đạt gần 426,6 triệu USD, tăng 78,7% số dự án và tăng 4,3% số vốn so với cùng
kỳ năm 2021; có 26 lượt dự án điều chỉnh vốn (tăng 18,2%) với tổng vốn đầu tư tăng
20
thêm gần 107,4 triệu USD. Các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đầu tư vào những thị
trường truyền thống quen thuộc mà còn đầu tư vào những thị trường lớn, có trình độ công
nghệ, khoa học kỹ thuật cao như: Mỹ, Canada, châu Âu... Theo các chuyên gia đây là tín
hiệu tốt, cho thấy chất lượng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đang
dần được cải thiện. Nhiều tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn đăng ký đầu tư ra
nước ngoài đã vượt ngưỡng 1 tỷ USD như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Viễn
thông Quân đội (Viettel), Công ty Cổ phần Hoàng Anh - Gia Lai…
Mặc dù có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam,
cho các quốc gia và cộng đồng tiếp nhận đầu tư, đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Các doanh nghiệp nhà
nước đầu tư ra nước ngoài với số vốn lớn nhưng chỉ hơn một nửa số dự án thu hồi được
vốn trong khi các dự án lỗ phát sinh và lỗ luỹ kế tăng. Ngoài ra, những thể chế chính sách
mặc dù có nhiều cải thiện, nhưng nhìn chung chưa hoàn chỉnh, còn đi chậm so với thực tế,
tác động đến sự phát triển hoạt động đầu tư ra nước ngoài chưa mạnh, thậm chí còn gây
trở ngại cho hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam cần
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện cho
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.

21
CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG
CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
4.1. Đánh giá chung
Trong giai đoạn đỉnh điểm của đại dịch COVID-19, Việt Nam đã nhận ra được xu
hướng dịch chuyển FDI quốc tế từ Trung Quốc -vốn là “công xưởng thế giới - sang các
nước lân cận có lợi thế cạnh tranh. Không đứng ngoài thời cuộc, chính phủ Việt Nam đã
có nhiều chính sách ưu đãi và những thay đổi phù hợp, tạo ra 1 môi trường đầu tư hấp dẫn,
kết hợp với việc kiểm soát dịch bệnh nhanh chóng, giúp Việt Nam được đánh giá là một
trong những quốc gia thu hút FDI nổi bật trên thế giới.
Sau khi COVID-19 được khống chế thành công và hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã chuyển sang giai đoạn “bình thường mới”, Việt Nam dần thay đổi tiêu chí lựa
chọn FDI sang lựa chọn một cách “có chọn lọc”, ưu tiên những nguồn vốn đầu tư chất
lượng, đạt hiệu quả xã hội - kinh tế - môi trường. Chính phủ cũng đã có những điều chỉnh
kịp thời, hợp lý cho nhiều mặt của môi trường đầu tư để đưa ra những chính sách phù hợp
hơn với định hướng mới này, tạo cơ sở cho niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều
này cũng đồng nghĩa với dòng FDI hứa hẹn ngày càng tăng về quy mô lẫn chất lượng, tạo
đà cho sự phục hồi, phát triển kinh tế hậu COVID-19. Bên cạnh đó, dòng FDI từ Việt
Nam ra nước ngoài cũng có sự tiến bộ đáng kể, bắt đầu thâm nhập sâu rộng hơn các thị
trường mới với lượng FDI tăng cao, nhờ vào sự cởi mở hơn của luật đầu tư nước ngoài và
quá trình hoàn thiện khung pháp lý.
Nhìn chung, những chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn trong và sau
đại dịch COVID-19 được chính phủ thực hiện khá linh hoạt, được điều chỉnh để phù hợp
với thực trạng và xu hướng chung của nền kinh tế trong nước, khu vực và quốc tế. Tuy
nhiên, để duy trì và phát huy hơn nữa những thành quả này và tiếp tục là điểm đến tiềm
năng của FDI toàn cầu trong tương lai gần, chính phủ Việt Nam chắc chắn sẽ cần phải
xây dựng đường lối, chính sách phát triển mang tính chiến lược để quá trình thu hút, quản
lý và sử dụng FDI đạt hiệu quả và mang tính đồng bộ cao hơn.

22
4.2. Đề xuất giải pháp
4.2.1. Các giải pháp ngắn hạn
Thứ nhất, tích cực rà soát, kịp thời điều chỉnh khung chính sách đầu tư nước ngoài
trong ngắn hạn cho phù hợp với những biến động của nền kinh tế toàn cầu cũng như
những thay đổi trong chiến lược thu hút doanh nghiệp FDI của các nước trên thế giới.
Đây là chiến lược quan trọng nhằm tạo ra sự thích ứng nhanh chóng, linh hoạt cho việc
xây dựng và điều chỉnh các chính sách cạnh tranh thu hút FDI trong bối cảnh kinh tế - xã
hội thế giới và khu vực có những chuyển biến phức tạp, khó lường hậu đại dịch.
Thứ hai, triển khai các động thái nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ phục hồi nhanh chóng
hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh dựa trên
cơ sở hài hòa lợi ích giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước, bước đầu tạo động lực cho
các hoạt động tái đầu tư, khôi phục hiệu quả kinh doanh, tạo bàn đạp cho việc thu hút FDI
trong dài hạn.
Thứ ba, đại dịch đã chỉ ra những lĩnh vực đầu tư quan trọng cần tập trung để phát
triển như năng lượng, công nghệ cao … Do đó, cần huy động ngoại lực bổ sung vốn, công
nghệ, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, khả năng tổ chức và tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu để nắm bắt những cơ hội đầu tư tiềm năng, tập trung phát triển những
ngành nghề đem lại giá trị đầu tư cao.
Thứ tư, xóa bỏ tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng về lao động thông qua việc hỗ trợ
các mạng lưới đào tạo nghề (các trường cao đẳng, trường nghề) và hệ thống tuyển dụng
của các doanh nghiệp để tạo ra nguồn lao động dồi dào, tay nghề ngày càng cao. Từ đó,
đảm bảo ổn định về các mặt đời sống kinh tế - xã hội nhằm tạo niềm tin cho các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia đầu tư FDI sau giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của COVID-19.
Thứ năm, khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thể chế chính
sách quản lý, giám sát đầu tư nước ngoài phù hợp với quan hệ kinh tế mới, mô hình và
phương thức kinh doanh mới, bảo vệ thị trường trong nước. Đồng thời, tạo điều kiện cho
khu vực trong nước phát triển phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế trong thời đại
“bình thường mới”.

23
4.2.2. Các giải pháp dài hạn
Thứ nhất, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh thông thoáng, tháo
gỡ các vướng mắc, có các thể chế bảo vệ tài sản và các quyền giao kết hợp đồng, đơn giản
hóa thủ tục hành chính, minh bạch hóa các giấy phép, tạo ra sự đồng bộ hóa và giảm bớt
sự chồng chéo của các thủ tục đầu tư nhằm cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực để
dễ dàng và nhanh chóng thu hút FDI, có nguồn vốn để triển khai tái đầu tư các dự án chất
lượng cao hướng đến khôi phục và phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, thúc đẩy các doanh nghiệp nội địa hợp tác nghiên cứu với các đối tác
nước ngoài, chủ đầu tư FDI để chia sẻ thông tin, nâng cao hiệu quả, có sự chuyển giao
kiến thức và hiểu biết, cũng như cởi mở hơn với các hoạt động M&A nhằm hỗ trợ các
công ty nội địa phục hồi khả năng cạnh tranh sau và có sự tham gia dễ dàng hơn của các
đối tác nước ngoài khi tận dụng được các nền tảng có sẵn và ưu thế địa phương.
Thứ ba, chính phủ cần xây dựng các quy định, tiêu chuẩn như bộ lọc mới nhằm lựa
chọn các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, "Sản
xuất xanh, phát triển xanh là xu hướng chung, xu hướng tất yếu mà Việt Nam nên đi
theo”. Lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài cũng cần có năng lực, khả năng chống chịu
với sức ép từ bên ngoài để phát triển bền vững và bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước.
Thứ tư, củng cố môi trường vĩ mô vững mạnh, ổn định, không ngừng cải thiện môi
trường sống và cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường sá, hệ thống vận chuyển, xử lý nước thải,…)
cũng như rà soát, bổ sung quỹ đất sạch và các dự án điện.
Thứ năm, xác định cụ thể các ngành, lĩnh vực, các đối tác ưu tiên dựa trên định
hướng quốc gia, ưu tiên FDI dành cho các lĩnh vực công nghệ cao, thân thiện môi trường,
năng lượng sạch, sản xuất thiết bị y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, logistics và
nông nghiệp thông minh, qua đó dần dần cải thiện khung chính sách, dịch chuyển vốn đầu
tư từ những ngành nghề truyền thống sang những lĩnh vực mới, đem đến hiệu quả sử dụng
vốn cao theo định hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

24
KẾT LUẬN
Đại dịch COVID-19 đã tác động đáng kể đến dòng vốn FDI trên toàn cầu, trong đó
có Việt Nam. Trong ngắn hạn, dòng vốn FDI vào Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại
dịch do hạn chế đi lại và gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam đã
thành công trong việc kiểm soát đại dịch và thể hiện khả năng phục hồi trong hoạt động
kinh tế, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường chính
trị ổn định, lực lượng lao động lành nghề và vị trí chiến lược ở Đông Nam Á khiến quốc
gia này trở thành địa điểm lý tưởng cho các công ty muốn mở rộng kinh doanh trong khu
vực. Đồng thời cũng gia tăng nhiều cơ hội để Việt Nam có thể phát huy thế mạnh và tiềm
năng vốn có để đầu tư ra nước ngoài.
Ngoài việc thu hút FDI mới, Việt Nam còn có cơ hội tận dụng các mối quan hệ
FDI hiện có để tăng cường chuyển giao công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng sản xuất
trong nước và thúc đẩy đổi mới.
Nhìn chung, mặc dù đại dịch COVID-19 đặt ra những thách thức đối với dòng vốn
FDI vào Việt Nam, nhưng Việt Nam có vị thế thuận lợi để hưởng lợi từ sự dịch chuyển
trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai. Đồng
thời tận dụng cơ hội và lợi thế để từng bước trở thành “quốc gia đi đầu tư” thay vì chỉ
nhận đầu tư từ các nước khác. Điều quan trọng đối với Việt Nam là đạt được sự cân bằng
giữa việc tối đa hóa lợi ích của FDI và giảm thiểu các tác động tiêu cực tiềm ẩn của nó.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bách Khoa Luật, 2021. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam. Truy cập tại: <https://bachkhoaluat.vn/cam-nang/9813/hoat-dong-dau-tu-truc-
tiep-ra-nuoc-ngoai-cua-cac-doanh-nghiep-viet-nam > [truy cập ngày 16/02/2023]

[2] Báo Đầu tư, 2023. Đầu tư nước ngoài: Con đường chông gai. Truy cập tại:
<https://baodautu.vn/dau-tu-ra-nuoc-ngoai-con-duong-con-chong-gai-d175924.html>
[truy cập ngày 19/02/2023]

[3] Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư - Cục Đầu tư Nước ngoài, 2023. Đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp, cá nhân người Việt Nam. Truy cập tại:
<https://fia.mpi.gov.vn/Detail/CatID/3bdcb27f-403e-4f36-901e-
1e9c71aa14cb/NewsID/9bbdd069-b4a6-43fa-b8e8-645e7a04428a> [truy cập ngày
08/03/2023]

[4] Bộ Tài chính, 2021. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2021. Truy
cập tại: <https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-
ttpltc?dDocName=MOFUCM198685> [truy cập ngày 05/03/2023]

[5] Bộ Tài chính - Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, 2018. Chính sách tài chính
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Truy cập tại:
<https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-
tin?dDocName=UCMTMP129683> [truy cập ngày 06/03/2023]

[6] Bộ Tài chính, 2021. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2021. Truy
cập tại: <https://mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-
ttpltc?dDocName=MOFUCM198685> [truy cập ngày 07/03/2023]

[7] Ban Quản lý khu Kinh tế Tỉnh Kon Tum, 2021. Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn
ngân sách nhà nước giai đoạn 2021 - 2025. Truy cập tại: <http://kkt.kontum.gov.vn/ke-

26
hoach-dau-tu-cong-trung-han-von-ngan-sach-nha-nuoc-giai-doan-2021-2025.p-
2568.html> [truy cập ngày 01/03/2023]

[8] Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2023. Truy cập tại:
<https://www.mpi.gov.vn/Pages/chuyenmuctin.aspx?idcm=208> [truy cập ngày
10/03/2023]

[9] Đào Duy Thuần, 2021. Thúc đẩy đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào
các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN. Truy cập tại:
<https://hvtc.edu.vn/Portals/0/2021/4_2021/1.TTTV.pdf> [truy cập ngày 16/02/2023]

[10] Tạp chí Con số Sự kiện, 2021. Doanh nghiệp Việt đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài.
Truy cập tại: <https://consosukien.vn/doanh-nghiep-viet-day-manh-dau-tu-ra-nuoc-
ngoai.htm> [truy cập ngày 18/02/2023]

[11] Tổng cục Thống kê, 2022. Giải ngân vốn đầu tư công, trực tiếp nước ngoài, kỳ vọng
những tháng cuối năm 2022. Truy cập tại: <https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-
thong-ke/2022/10/giai-ngan-von-dau-tu-cong-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-ky-vong-
nhung-thang-cuoi-nam-2022/> [truy cập ngày 10/03/2023]

[12] UNCTAD, 2022. World Investment Report: International tax reforms and sustainable
investment. Truy cập tại: <https://unctad.org/publication/world-investment-report-2022>
[truy cập ngày 26/02/2023]

[13] UNCTAD, 2022. Investment and Enterprise Division: Publications List (2000-2022).
Truy cập tại: <https://unctad.org/system/files/information-
document/diae2022_Bibliography_en.pdf> [truy cập ngày 26/02/2023]

27
[14] Vietnamnet, Vietnam Report 500 (2015). Chính sách thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài.
Truy cập tại: <https://vnr500.com.vn/Chinh-sach-thuc-day-Dau-tu-ra-nuoc-ngoai-4219-
1006.html> [truy cập ngày 28/02/2023]

[15] UNCTAD, 2021. World Investment Report: Investing in sustainable recovery. Truy
cập tại: <https://unctad.org/publication/world-investment-report-2021> [truy cập ngày
26/02/2023]

[16] Giáo trình Đầu tư Quốc tế, PGS Vũ Chí Lộc (2012) [truy cập ngày 16/02/2023]

28

You might also like