You are on page 1of 29

.......................

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ
-----------------------------------------------

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN: PHƯƠNG PHÁP HỌC ĐẠI HỌC VÀ ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
ĐỀ TÀI: Phương pháp học nhóm

Sinh viên thực hiện: Đỗ Ngọc Thiên Kim


MSSV: 22110098
Lớp: 221103 – Ngành: Kế toán
Giảng viên: THS. Nguyễn Thị Thu Hà

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ths. Nguyễn Thị Thu Hà. Trong quá
trình học tập và tìm hiểu về bộ môn Phương pháp học đại học và định hướng nghề
nghiệp, em đã nhận được nhiều sự quan tâm và giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình của cô.
Cô đã giúp em tích lũy được thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc hơn và hoàn
thiện hơn trong quá trình học sắp tới và cả trong cuộc sống. Từ những kiến thức mà cô
đã truyền tải, em đã dần trả lời được những câu hỏi trong học tập cũng như cuộc sống,
để mà hôm qua em có thể viết được bài tiểu luận về Phương pháp học nhóm này để gửi
đến cô.

Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn tồn tại
những hạn chế nhất định. Do đó, trong quá tình hoàn thành bài tiểu luận này, chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em mong nhận được những góp ý đến từ cô
để có thể ngày càng hoàn thiện bản thân hơn nữa.

Kính chúc cô sức khỏe, hạnh phúc, ngày càng thành công hơn trong con đường sự nghiệp
trồng người của chính mình.

i
LỜI CAM ĐOAN

Em xin giới thiệu với cô về đề tài mà em chọn “Phương pháp học nhóm”. Em chọn đề
tài này vì nó thiết thực và giúp ích khá nhiều cho các bạn sinh viên trong học tập cũng
như trong môi trường làm việc sau này.

Trong quá trình thực hiện đề tài này còn nhiều thiếu sót do kiến thức còn sơ sài, nhưng
những nội dung được trình bày dưới đây là biểu hiện kết quả mà em đạt được dưới sự
hướng dẫn của cô.

Em xin cam đoan rằng: Những nội dung được trình bày trong cuốn báo cáo tiểu luận
môn Phương pháp học đại học và định hướng nghề nghiệp này không phải là bản sao
chép có trước và phần nội dung đều là do em tự mình tìm kiếm, cấu tạo thành. Nếu
không đúng sự thật em xin chịu mọi trách nhiệm trước cô.

Người cam đoan

Đỗ Ngọc Thiên Kim

ii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................................iv

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU; CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ


KỸ NĂNG HỌC TẬP NHÓM CỦA SINH VIÊN ....................................................... 1

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề kỹ năng học tập theo nhóm...................................... 1
1.1.1 Nghiên cứu nước ngoài ............................................................................ 1
1.1.2 Nghiên cứu trong nước ............................................................................. 2

1.2 Cơ sở lý thuyết về kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên ............................. 2
1.2.1 Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu.................................. 2
1.2.1.1 Phương pháp....................................................................................... 2
1.2.1.2 Học tập ............................................................................................... 2
1.2.1.3 Nhóm ................................................................................................. 3
1.2.1.4 Học tập theo nhóm.............................................................................. 3
1.2.2 Những vấn đề cơ bản của việc học tập theo nhóm ................................... 4
1.2.2.1 Đặc điểm của học tập theo nhóm ........................................................ 4
1.2.2.2 Biểu hiện của học tập theo nhóm ........................................................ 4

1.3 Tổng quan về đối tượng nghiên cứu .................................................................. 4


1.3.1 Ưu điểm .................................................................................................. 5
1.3.2 Khuyết điểm ............................................................................................ 6

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỌC TẬP THEO NHÓM CỦA SINH VIÊN ............... 7

2.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên về hoạt động học tập theo nhóm .................... 7

2.2 Về mức độ hiểu biết của sinh viên về học tập theo nhóm ...................................... 7

2.3 Về thái độ của sinh viên đối với việc học tập theo nhóm ....................................... 8

2.4 Về mức độ quan tâm đối với hoạt động học tập theo nhóm ................................. 10

2.5 Về mục tiêu hướng tới khi học tập theo nhóm trong sinh viên ............................. 10

iii
2.6 Về mức độ hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên ............................................... 11

2.7 Thực trạng kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên .......................................... 12
2.7.1 Bỡ ngỡ với hình thức làm việc nhóm ..................................................... 13
2.7.2 Các nhóm hoạt động ít, không có nguyên tắc rõ ràng............................. 13
2.7.3 Kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên kém dẫn tới xung đột thường
xuyên ......................................................................................................................... 13
2.7.4 Hiệu quả làm việc nhóm không cao ....................................................... 14
2.7.5 Một thành viên “gánh team”, thành quả thì hưởng chung ...................... 14

2.8 Các yếu tố (nguyên nhân) ảnh hưởng đến kỹ năng làm việc nhóm ...................... 14
2.8.1 Yếu tố (nguyên nhân) chủ quan ............................................................. 14
2.8.2 Yếu tố (nguyên nhân) khách quan ......................................................... 15

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO KỸ NĂNG, NHẬN THỨC LÀM
VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN ............................................................................... 16

3.1 Đề xuất giải pháp với nhà trường ........................................................................ 16

3.2 Đề xuất giải pháp với giảng viên ......................................................................... 17

3.3 Đề xuất giảng pháp với sinh viên ........................................................................ 17

CHƯƠNG CUỐI: KẾT LUẬN .................................................................................. 19

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 20

iv
v
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Học đại học dường như đã trở thành một trải nghiệm mà hầu hết chúng ta đều phải
trải qua. Có người coi nó như là một trải nghiệm quý báu nhưng nhưng cũng có người
lại coi nó như là một trách nhiệm, một gánh nặng mà học phải làm cho xong. Nhưng có
thể bạn không biết cách đây 17 năm đã có một nghị quyết làm thay đổi suy nghĩ của
bạn, mang những thứ được coi là ấu trĩ, gánh nặng san sẻ ra xung quanh với tất cả các
người bạn của chính bạn. Làm thay đổi suy nghĩ của người học với triết lí “Tôn trọng
người học, lấy người học làm trung tâm”, để mang đến một nghị quyết mới khiến mọi
thứ xung quanh có thể trở nên liên kết chặt chẽ hơn giữa sự linh hoạt, mềm dẻo, khoa
học, việc này đòi hỏi cả người dạy và người học phải thay đổi tư duy, đổi mới một
phương pháp học, khiến sinh viên từ những người bị động để trở thành chủ động trong
việc tiếp thu kiến thức, giúp cho các trường đại học trong nước có thể theo kịp xu hướng
học đại học trên thế giới. Đó chính là đào tạo theo phương thức tín chỉ, sẽ giúp cách học
của sinh viên ngày càng được ổn định hơn và đi vào thế phát triển, biết cách phối hợp
với đội ngũ cán bộ nhà trường, đội ngũ giảng viên tham gia vào quá trình đào tạo một
cách nghiêm túc hơn, sinh viên nghiêm túc, tích cực, tự giác học tập. Như nghị quyết số
14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của chính phủ về đối mới cơ bản, toàn diện giáo dục
Đại học Việt Nam đã nêu rõ: “Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo tiêu chí:
trang bị cách học, phát huy tính tích cực chủ động của sinh viên”. Việc chuyển đổi theo
phương thức đào tạo tín chỉ, trước hết là để tạo một cơ chế mềm dẻo, thông qua đó sẽ
khiến sinh viên linh hoạt hơn, chủ động hơn trong việc tìm kiếm thông tin, giúp ích cho
việc học của chính mình. Từ đó, có thể tạo một nền tảng tốt cho các bạn sinh viên để khi
ra trường có thể hòa nhập tốt hơn vào môi trường làm việc, cũng như là để tạo tính cơ
động hơn trong môi trường mới, thích ứng cao hơn đối với thị trường lao động khắc
nghiệt như hiện nay. Và cũng từ năm 2008, việc đào tạo theo phương thức tín chỉ cũng
đã bắt đầu được áp dụng hầu hết cho tất cả các trường đại học trong nước. Hình thức
đào tạo hầu như đã làm thay đổi căn bản những hoạt động trong quá trình đào tạo từ chỗ
đối tượng quản lý, sinh viên hay là ngay cả đội ngũ cán bộ trong nhà trường. Đặc biệt
hơn hết ở đây là sinh viên phải thực hiện các hoạt động học tập theo nhóm như thảo luận
trên lớp, cùng nhau làm bài nhóm về nhà, cùng nhau chuẩn bị một bài thuyết trình hay

v
tiểu luận và thực hiện việc truyền đạt lại kiến thức trước lớp... Như vậy ta có thể thấy
việc học tập theo nhóm đã giúp cho sinh viên học hỏi thêm được rất nhiều kiến thức,
thông qua đó cũng có thể giúp đỡ nhau trong việc học tập, hợp tác với nhau trong các
bài tập khó, điều đó cũng khiến tình bạn của các sinh viên sẽ ngày càng khắng khít hơn
để tránh xảy ra các xô xát không đáng có trong quá trình học tập và làm việc tại trường,
vì ông cha ta ngày xưa đã có câu: “Học thầy không tày học bạn”, câu tục ngữ này đề cao
việc chúng ta không chỉ có thể tiếp thu các kiến thức thông qua các bài giảng ở trên lớp
mà chúng ta còn có thể chủ động trong việc học ở nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau mà
không chỉ là ở thầy cô hay là ngay cả bạn bè. Tuy nhiên, việc học tập theo nhóm vẫn
chưa được các sinh viên thực hiện một cách hiệu quả cho lắm, đâu đó vẫn còn khá nhiều
sự ỷ lại vào các sinh viên khác để tập trung vào công việc bên ngoài hay chỉ là không
thích hoạt động nhóm, hay là chưa biết cách để liên kết, hợp tác với các bạn của mình,
hay là dễ tranh cãi gây ra những cảm xúc tiêu cực khi mọi người không đồng quan điểm
với nhau dẫn đến những chia cắt, đứt rẽ trong tình bạn. Trong một số khảo sát thì có
50% sinh viên thích làm việc nhóm, tuy nhiên số sinh viên tỏ ra bàng quan, hoặc không
hứng thú với làm việc nhóm chiếm tỷ lệ khá lớn là 38%. Thậm chí có khoảng 2% sinh
viên hoàn toàn không thích làm việc nhóm và rất khó chịu khi làm việc nhóm. Đáng chú
ý hơn trong 2% đó thì 67% là sinh viên năm 2 và năm 3. Và gần đây nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rằng trong 38% số sinh viên tỏ vẻ thờ ơ, thì đa số là chưa có kỹ năng học tập
theo nhóm dẫn đến hiệu quả các giờ làm bài, thảo luận nhóm đa số là đạt kết quả thấp.
Vì vậy, dựa theo những lập luận đã nêu ra ở trên, tôi nghiên cứu về đề tài “Phương pháp
học nhóm” nhằm góp phần chỉ ra thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng, đề ra các giải pháp
giúp nâng cao kỹ năng học nhóm của các sinh viên, giúp sinh viên hoàn thành tốt các
nhiệm vụ, nhằm có thể hòa nhập một cách nhanh nhất với mô hình đào tạo theo phương
thức tín chỉ của các trường đào tạo đại học trong nước cũng như quốc tế, góp phần nâng
cao hiệu quả đào tạo đại học của nước ta hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên cụ thể là
trường Đại học, phân tích các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới
thực trạng đó. Trên cơ sở kết quả thu được, từ đó đề xuất ra giải pháp, một số cách thức
giúp cho việc rèn luyện, nâng cao kỹ năng học tập theo nhóm cho sinh viên.

vi
3. Đối tượng nghiên cứu

Gồm các sinh viên trường Đại học, bên cạnh đó còn có giảng viên, cán bộ của trường.

Nghiên cứu về biểu hiện mức độ kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên trường
Đại học và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kỹ năng này.

4. Phạm vi nghiên cứu

4.1. Về nội dung nghiên cứu

+ Chỉ tập trung nghiên cứu đến biểu hiện và mức độ thực hiện 3 thành tố thuộc kỹ năng
năng học tập theo nhóm của sinh viên đó là kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ năng trình
bày mạch lạc tri thức và kỹ năng tự điều chỉnh hành vi cảm xúc của mình khi học tập
theo nhóm.

+ Xem xét thêm một số yếu tố chủ quan và khách quan về kỹ năng học tập theo nhóm
của sinh viên đào tạo theo phương thức tín chỉ.

4.2. Về địa bàn nghiên cứu

Nghiên cứu tại các trường Đại học.

4.3. Về đối tượng nghiên cứu

Là sinh viên, giảng viên và cán bộ nhà trường.

vii
CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU;


CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KỸ NĂNG HỌC TẬP NHÓM
CỦA SINH VIÊN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về kỹ năng học tập theo nhóm
1.1.1 Nghiên cứu nước ngoài

Kỹ năng về học tập nói chung được các nhà khoa học quan tâm về nghiên cứu từ
rất sớm. Người đầu tiên có thể nói tới là Aristotx, trong cuốn sách Bàn về Tâm hồn đã
đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người. Theo ông nội dung của phẩm hạnh là: biết
định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi có nghĩa là con người có phẩm hạnh, là con người
có kỹ năng làm việc.

Đầu thế kỹ XX, ở Mỹ tâm lý học hành vi ra đời, đại diện là J.Watson, E.C
Tolman, K.Hull, B.F Skinner,... mặc dù xuất phát từ những quan niệm máy móc về con
người, nhưng nghiên cứu về kỹ năng trong lý luận dạy học do B.F Skinner khởi xướng
là một thành tựu lớn. Sau đó Tolman khi nghiên cứu quá trình luyện tập của động vật đã
đi đến kết luận là quá trình luyện tập theo cơ chế lấy hành vi làm tác nhân kích thích sẽ
hình thành trong não động vật bản đồ nhận thức, nhờ đó động vật sẽ thực hiện được hai
hành vi: bản năng và học tập. Từ đây ông đã xây dựng lý luận dạy học chương trình hóa
nổi tiếng. Vấn đề không chỉ là rèn luyện kỹ năng hành động mà cần phải hình thành kỹ
năng tổ chức hành động nhằm tìm ra được cách làm có hiệu quả nhất, có chương trình
thao tác, biết hình thành biểu tượng về kết quả cần đạt tới và giữ biểu tượng đó làm cái
để so sánh với kết quả của quá trình hành động. A.Bandura (1961) – nhà tâm lý học
người Mỹ đã đưa ra lý thuyết học tập xã hội. Ông cho rằng, học tập bao giờ cũng diễn
ra trong mối quan hệ với những người khác trong xã hội. Khái niệm học tập xã hội nhấn
mạnh đến mẫu hành vi chỉ dẫn hành vi của con người, cũng như cụ thể hơn là nói đến
các giảng viên, sinh viên hay cán bộ nhà trường. Ngoài ra, nhà nghiên cứu F.Murray
năm 1986 đã tổng hợp 4 lý thuyết làm cơ sở cho quá trình học tập theo nhóm: thuyết
học tập xã hội, thuyết Piaget về giải quyết mâu thuẫn, thuyết hợp tác nhóm của Vygotsky
và thuyết khoa học nhận thức mới – dạy lẫn nhau. Bốn thuyết khiến cho một nhóm

1
những con người từ những cá thể riêng biệt nay đồng nhất, khiến mọi mâu thuẫn trở nên
dễ dàng và làm việc hiệu quả hơn rất nhiều.

1.1.2 Nghiên cứu trong nước

Hiện nay trong nước có khá nhiều quan điểm trong việc nghiên cứu về kỹ năng
này. Là một kỹ thuật của hành động, là một phương thức giúp vận dụng tri thức để thực
hiện các hành động nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập để đạt được kết quả cao nhất
trong điều kiện hiện có.

Khi bàn về công nghệ giáo dục, Gs. Hồ Ngọc Đại cho rằng: kỹ năng học nhóm
chính là giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành trình độ phát triển công nghệ giáo
dục. Tiếp sau đó nó mới là nền tảng cho việc rèn luyện thành kĩ xảo và sau đó là quá
trình tự động hóa. Một số như: Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy đã chia sẻ
trong cuốn “Tâm lý học” rằng: các kỹ năng, kỹ thuật tổng hợp có vai trò quan trọng
trong việc chuẩn bị nghề nghiệp và lao động phổ thông cho sinh viên sau này. Đó là các
kỹ năng thường gặp như tính toán, lập đồ thị, đồ án, đo đạc, lắp ráp, điều chỉnh,... Các
kỹ năng kể trên đều sẽ được tích lũy trong quá trình học tập, một phần là được lĩnh hội
trong quá trình học, còn phần nữa là giao tiếp, tìm hiểu và hợp tác với bạn bè xung
quanh.

1.2 Cơ sở lý thuyết về kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên

1.2.1 Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.2.1.1 Phương pháp

Theo Lexicon de Padagogik: “Phương pháp giúp để trình bày có lý lẽ vững vàng
một chân lý đã xác định rồi hoặc để vạch ra một con đường tìm tòi một chân lý mới”.

Theo Hegel: “Phương pháp là ý thức về hình thức của sự vận động bên trong nội
dung”.

Như vậy có thể hiểu: Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện dễ dàng
nhất để đạt tới mục đích nhất định trong nhận thức và trong thực tiễn.

1.2.1.2 Học tập

2
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang, nghiên cứu dạy học theo quan điểm quá trình:
“Học là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học, bằng cách đó
hình thành cấu trúc tâm lý mới, phát triển nhân cách toàn diện. Vai trò tự điều khiển của
quá trình học thể hiện ở sự tự giác, tích cực, tự lực và sáng tạo dưới sự điều khiển của
thầy, cô, nhằm chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Học có hai chức năng kép là lĩnh hội và
tự điều khiển”.

Theo từ điển Tiếng Việt của Viên khoa học xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ
học: “Học tập là học và luyện tập để hiểu biết và có kỹ năng”.

Như vậy: “Học tập là một loại hình hoạt động được thực hiện trong mối quan hệ
chặt chẽ với hoạt động dạy, giúp người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những
phương thức hành vi nhằm phát triển nhân cách toàn diện.

1.2.1.3 Nhóm

Theo từ điển Tiếng Việt: Nhóm là tập hợp một số ít người hoặc sự vật được hình
thành theo những nguyên tắc nhất định.

Như vậy, có thể được đúc kết: Nhóm là tập hợp những người có tổ chức, hoạt
động theo những nguyên tắc nhất định, nhằm đạt tới mục tiêu và lợi ích chung.

1.2.1.4 Học tập theo nhóm

Học tập theo nhóm là một phương pháp học tập trong đó các thành viên cùng
phối hợp chặt chẽ với nhau để giải quyết một vấn đề học tập cụ thể nhằm hướng đến
mục tiêu chung, sản phẩm của nhóm là sản phẩm của trí tuệ tập thể.

1.2.2 Những vấn đề cơ bản của việc học tập theo nhóm

Chúng ta không thể phủ nhận cách học truyền thống cũng như hình thức thảo
luận theo sự hướng dẫn của giảng viên ở các trường đại học. Nhưng hiện nay với yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy cũng như phương pháp học mới theo hướng tăng cường
tính chủ động, tích cực, tự làm việc, tự tìm tòi, khám phá chân lý khoa học của người
học nhằm phát triển tri thức và các kĩ năng thiết thực cho người học thì phương pháp
học tập theo nhóm chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Học tập theo nhóm trong và
ngoài giờ học sẽ là một phần bổ sung quan trọng cho các bài giảng, giúp sinh viên nắm

3
vững các khái niệm và áp dụng vào các tình huống cần đến các kỹ năng đào sâu suy
nghĩ.

Học tập theo nhóm không những đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp học tập
mà còn rất ý nghĩa đối với việc tự học của mỗi người. Các nhà nghiên cứu đã từng tuyên
bố rằng: “Cho dù nội dung môn học như thế nào thì sinh viên làm việc theo từng nhóm
nhỏ cũng có khuynh hướng học được nhiều hơn những gì được dạy và nhớ lâu hơn so
với các hình thức dạy học khác”. (Theo Barbara Gross Davis, Tools for Teaching).

1.2.2.1 Đặc điểm của học tập theo nhóm

Học tập theo nhóm là một cách đòi hỏi mỗi thành viên trong nhóm đều phải cùng
thực hiện một cam kết làm việc nhất định không có sự hướng dẫn trực tiếp của giảng
viên mà dựa trên sự hợp tác và phân công công việc hợp lý trong nhóm.

1.2.2.2 Biểu hiện của học tập theo nhóm

+ Mọi thành viên trong nhóm đều hướng đến một mục tiêu nhất định.

+ Có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên.

+ Có trách nhiệm, lợi ích liên đới trong sản phẩm mà nhóm đã tạo ra.

1.3 Tổng quan về đối tượng nghiên cứu

“Tôi nghe thì tôi quên, tôi nhìn tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu nhưng khi tôi giảng
cho người khác hiểu thì đó là kiến thức của tôi” (Khuyết danh)

Nếu như tự học có thể giúp sinh viên tự mình chủ động mọi mặt cả về thời gian,
kiến thức và lịch học thì một trong những cách giúp khắc phục điểm yếu cá nhân, tăng
hiệu suất học tập đó chính là học theo nhóm. Thực chất của việc học nhóm là để những
bạn học tốt giúp đỡ cho những bạn học yếu hơn, mỗi thành viên đóng góp và giúp đỡ
nhau để cùng đạt được một mục đích chung. Đây chính là một môi trường lý tưởng để
rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm (team work skill) mà sẽ rất cần cho hầu hết tất cả
mọi người trong cuộc sống sau này. Những lợi ích của hình thức học nhóm có thể kể
đến như sau:

4
1.3.1 Ưu điểm

Thứ nhất, học nhóm sẽ giúp bạn phát huy được mặt manh và cải thiện mặt còn
chưa mạnh. Khó có một người theo kiểu “biết tuốt” như “Hiệu trưởng Goole”, có người
cso thể mạnh ở môn học này, có người lại có thế mạnh ở môn học khác. Và đó cũng là
quy luật bù trừ của những người trong cùng một nhóm. Nếu như có một người thật sự
đã quá giỏi rồi, vào nhóm chỉ để trở thành trung tâm, trở thành một kẻ biết tuốt, thì có
lẽ người đó thật sự chẳng tồn tại, vì một người khi được sinh ra trên thế gian này chẳng
ai là không thiếu sót cả và cũng chẳng có ai là có thể biết tất cả mọi thứ về xung quanh,
về vũ trụ cả. “Vũ trụ là vô tận” và cũng như vậy kiến thức cũng thế kiến thức sẽ mãi là
vô tận. Vì thế, chúng ta những sinh viên khi chấp nhận học nhóm luôn phải bỏ qua cái
tôi của mình để cùng nhau phát triển hơn.

Thứ hai, rèn luyện tư duy phản biện: học nhóm mang tính chất hỗ trợ, nhưng đôi
khi cũng cần có sự tranh luận về một vấn đề khi bất đồng quan điểm. Điều này sẽ khó
có được khi tự học ở nhà. Thông qua sự bất đồng này, các thành viên trong nhóm sẽ lập
luận, phân tích, chứng minh và thuyết phục làm sao cho các thành viên khác tin vào ý
kiến của mình. Việc thực hành như thế có thể giúp các thành viên rèn luyện cho não bộ
khả năng tư duy nhanh hơn, kỹ năng lập luận phản biện và cả sáng tạo. Môi trường học
tập theo nhóm đảm bảo việc học hiểu sâu hơn và đa chiều về các kiến thức mà nếu tự
học bạn có thể dễ dàng bỏ qua, đơn giản có thể vì lười, nhưng cũng có thể là vì quá khó
và ngần ngại đến với việc học nhóm.

Thứ ba, lấp đầy lỗ hổng kiến thức cho tất cả cá thành viên trong nhóm: đây cho
lẽ là điều cốt yếu nhất. Học nhóm mang lại một cơ hội tuyệt vời để mỗi người chúng ta
có thể gắn kết, thấu hiểu và đơn giản nhất là lấp đầy những thiếu sót của mình cũng như
hỗ trợ, bổ sung cho các bạn yếu hơn mình. Bằng cách so sánh ghi chép của bản thân với
các thành viên khác trong nhóm, có thể khiến bạn tìm ra được lỗi sai của bản thân, bạn
có thể đánh giá một cách chính xác, cải thiện những thiếu sót, và từ đó có thể phát sinh
thêm những ý tưởng tốt hơn, giúp ích nhiều hơn cho việc học sau này.

Tương tự như tự học hay tất cả các phương pháp học tập khác, nó đều mang lại
những hiệu quả cao nhưng đúng là không phải không có những mặt hạn chế riêng, tìm
hiểu cả những mặt hạn chế của một cách học nào đó sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về nó, từ đó
có thể thực hiện, áp dụng cách học đó một cách triệt để nhất.
5
1.3.2 Khuyết điểm

Thứ nhất, giảm sự linh động về mặt thời gian, do phải phụ thuộc vào các thành
viên khác trong nhóm, dễ bị phân tâm, chi phối hơn vào môi trường xung quanh, Nhiều
bạn nghĩ rằng học nhóm sẽ rất thoải mãi vì nó là kiểu hình thức vừa học vừa chơi, vừa
học vừa nói chuyện phiếm, hay “tạt ngang tạt ngửa” bàn chuyện này bàn chuyện khác...
Điều ấy đang làm hao tốn thời gian của bạn và cũng cả của những người trong nhóm
một cách vô ích.

Thứ hai, học lệch trọng tâm: đôi khi những người bạn trong nhóm sẽ không có ý
kiến, kiến thức như bạn, họ muốn dành nhiều thời gian vô để nghiên cứu về một chủ đề
mà bạn đã biết rõ trong lòng bàn tay. Khác với tự học, bạn không thể tự do tìm hiểu
những gì bạn hiếu kì, không biết và dành ít thời gian hơn cho những kiến thức mà bạn
đã nắm rõ. Điều này có nghĩa việc học nhóm, tuy sẽ giúp bạn hiểu được ý đồng đội, học
được cách hợp tác, sẻ chia, nhưng bạn sẽ lại tốn thời gian vào những việc đơn giản cho
dù bạn đã biết rõ nhưng vẫn phải nghiên cứu nó một cách chuyên sâu hơn, vì quyền
quyết định đã không còn phụ thuộc vào chính bản thân bản nữa.

Thứ ba, hiệu quả sẽ không cao đối với các môn học cần sự yên tĩnh để ghi nhớ.
Nhiều sinh viên với khả năng tập trung không cao, họ khó có thể ghi nhớ mọi thứ nếu
không có không gian yên tĩnh. Và học nhóm sẽ không thích hợp với những môn học và
những người như thế.

6
CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG HỌC TẬP THEO NHÓM


CỦA SINH VIÊN

2.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên về hoạt động học tập theo nhóm

Nhận thức đúng đắn về học tập theo nhóm có vai trò rất quan trọng, là tiền đề để
hoạt động nhóm đạt được hiệu quả, bởi vì nếu nhận thức sai thì chắc chắn sẽ không thể
thực hiện hoạt động nhóm đúng được. Trên thực tế thông qua điều tra quan niệm của
các sinh viên về học tập theo nhóm, có tới 42% sinh viên cho rằng học tập theo nhóm là
sự đóng góp ý kiến để giải quyết công việc chung. Có 85% sinh viên phát biểu học tập
theo nhóm là phương pháp học tập hay, mang lại lợi ích cho các thành viên như: học hỏi
lẫn nhau, phát huy tinh thần – trí tuệ tập thể, rèn luyện nhiều kỹ năng mềm,... Các bạn
đều cho rằng đây là một phương pháp học cực kì cần thiết cho sinh viên đại học nên cần
được tăng cường sử dụng và phát huy trong học tập. Điều này cho thấy, phần lớn sinh
viên đã có quan niệm khá đúng đắn về hoạt động học tập theo nhóm và đã nhận thức
được vai trò học theo nhóm đối với việc học tập của mình.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít sinh viên suy nghĩa khá mơ hồ về phương pháp học
tập này. Các em cho rằng, học tập theo nhóm là chia bài tập của giảng viên cho thành
các phần nhỏ rồi chia cho mỗi thành viên về nhà làm, kết quả là phần chấp nối các phần
đó lại với nhau; hay học tập theo nhóm là giao bài tập nhóm cho một vài thành viên xuất
sắc trong nhóm thực hiện và coi đó là sản phẩm của tập thể... Đây là một số quan niệm
chưa đúng về phương pháp học nhóm đang tồn tại trong một bộ phận sinh viên tại một
vài trường Đại học trong các thành phố lớn.

2.2 Về mức độ hiểu biết của sinh viên về học tập theo nhóm

Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện khái niệm học tập theo nhóm của sinh viên đại học.

7
60%
51%
50%

40%

30%
19% 20%
20%
10%
10%

0%
Mỗi người làm tất cả công việc theo ý kiến riêng, rồi gộp chung lại lấy kết quả tốt nhất

Người nhóm trưởng chia nhỏ công việc, giao mỗi người một việc rồi tổng hợp lại.

Các thành viên cùng phối hợp chặt chẽ với nhau để giải quyết một vấn đề học tập cụ
thể nhằm hướng đến một mục tiêu chung, tạo ra một sản phẩm trí tuệ chung.
Ý kiến khác

Qua biểu đồ 2.2, nhóm nghiên cứu thống kê có 51% sinh viên cho rằng Học tập
theo nhóm là các thành viên cùng phối hợp chặt chẽ với nhau để giải quyết một vấn đề
học tập cụ thể nhằm hướng đến một mục tiêu chung, tạo ra một sản phẩm thuộc quyền
sở hữu trí tuệ chung. Nhận định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp, bởi nó mang tính
bao quát và rõ ràng hơn các nhận định khác. Có 20% sinh viên cho rằng Học tập theo
nhóm là người nhóm trưởng chia nhỏ công việc, giao cho mỗi người một việc rồi tổng
hợp lại; nhận định này cũng không sai, nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, bởi ngoài vai trò
quyết định là người trưởng nhóm thì các thành viên khác trong nhóm cũng hết sức quan
trọng. 19% sinh viên còn lại cho rằng Học tập theo nhóm là mỗi người làm tất cả công
việc theo ý kiến riêng, rồi chung lại lấy kết quả tốt nhất, nhận định nyaf không chiếm tỉ
lệ cao bởi nó cũng chưa hoàn toàn đầy đủ.

Vì thế suy ra, hầu hết các sinh viên đều có cái nhìn tương đối chính xác, đầy đủ
về khái niệm Học tập theo nhóm; từ đây ta có thể đánh giá được phần nào ý thức học
tập theo nhóm trong sinh viên.

2.3 Về thái độ của sinh viên đối với học tập theo nhóm

Biểu đồ 2.3: Biểu đồ khảo sát sự thích thú của sinh viên đối với việc học tập theo nhóm.

8
Bạn có thích học tập theo nhóm không ?
45%

40% 40%

35%

30%
29%
25%

20% 20%

15%

10% 11%

5%

0% 0 0 0 0
Rất thích Thích Bình thường Không thích

Qua khảo sát, có thể thấy 20% sinh viên cảm thấy rất thích việc học tập theo nhóm, 29%
sinh viên cảm thích thích, 40% cảm thấy bình thường và còn lại là 11% không thích.

Với số liệu đã cho ta thấy được mức độ sinh viên quan tâm đến việc học tập theo nhóm
là tương đối, thực tế trên xuất phát từ hành vi học tập theo hướng truyền thống từ trước
đến nay là phương pháp tự học (học một mình).

Việc học tập theo nhóm là vấn đề cần thiết, là chủ đạo trong việc dạy và học ở trường
đại học, các hoạt động then chốt trong việc học mà sinh viên nào cũng cần biết và tham
gia để tự đổi mới phương pháp học tập của mình. Nhưng theo số liệu đã thu thập được,
vẫn còn khá nhiều sinh viên cảm thấy việc học tập theo nhóm là bình thường, chưa cần
thiết là khá nhiều. Đây là vấn đề quan trọng, cần tìm ra hướng giải quyết, tuyên truyền,
tác động để cho tất cả các sinh viên đều biết tham gia vào việc học tập theo nhóm một
cách tích cực và hiệu quả hơn. Như vậy, thì chất lượng giảng dạy và học mới nâng cao
lên được.

Qua một số đánh giá sơ bộ ngoài luồng, có 16% sinh viên cho biết nhóm làm việc của
mình luôn xảy ra mâu thuẫn, 19% thường xuyên xảy ra, 32% là thỉnh thoảng và 24%
còn lại là ít khi xảy ra. Mẫu thuẫn dù lớn hay nhỏ luôn là vấn đề mà nhóm cần phải hết
sức chú ý nếu muốn hợp tác tốt hơn và đạt được kết quả cao hơn.

2.4 Về mức độ quan tâm đối với hoạt động học tập theo nhóm
9
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ thể hiện mức độ quan tâm của sinh viên đối với việc học tập nhóm.

BẠN CÓ THƯỜNG XUYÊN HỌC TẬP THEO NHÓM VỚI CÁC BẠN
KHÔNG?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi học nhóm

28% 24%

48%

Theo số liệu được thể hiện trên biểu đồ, có 24% sinh viên thường xuyên học tập theo
nhóm, 48% thỉnh thoảng và 24% là ít khi.

Kết quả cho thấy hầu hết các sinh viên thỉnh thoảng mới học nhóm, và thực tế cho thấy
nó chỉ diễn ra trong các dự án, bài tập nhóm bắt buộc mà giảng viên giao.

Mức độ tỉ lệ 48% sinh viên thỉnh thoảng mới tham gia học nhóm, là một vấn đề cần phải
được bàn bạc, bởi con số này chứng tỏ thực trạng sinh viên chưa thực sự hứng thú với
phương pháp học này. Từ đó, giảng viên khoa, nhà trường phải có những biện pháp cụ
thể là để đốc thúc sinh viên tham gia nhóm nhiều hơn, thường xuyên hơn. Qua đó, giúp
họ chủ động tìm tòi, khám phá kiến thức nên tạo được sự thích thú, khơi dậy được niềm
niêm mê trong việc tìm kiếm kiến thức và từ đó sinh viên sẽ hiểu biết nhiều hơn.

2.5 Về mục tiêu hướng tới khi học tập theo nhóm trong sinh viên

Biểu đồ 2.5: Biểu đồ thể hiện mục tiêu sinh viên hướng tới khi học tập theo nhóm.

10
Mục tiêu mà bạn hướng tới khi học tập theo nhóm là gì?
60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%
Đạt điểm số cao Nâng cao kiến Có kỹ năng tốt Đạt điểm số, Có
thức thêm kiến thức và
Rèn luyện thêm
kỹ năng

Qua biểu đồ ta có thể thấy, có 13% sinh viên khảo sát đặt mục tiêu là điểm số lên hàng
đầu, một số khác lại cho viết đối với họ mục tiêu là kiến thức tỷ lệ này là 20%. Trong
khi đó, 14% sinh viên làm việc nhóm với mục tiêu sẽ có kỹ năng tốt và 53% sinh viên
hướng tới cả 3 mục tiêu là điểm số, kiến thức và kỹ năng.

Thống kê đã cho thấy rằng sự định hướng chung vè mục tiêu trong quá trình làm việc
nhóm của sinh viên là khác nhau, chưa có sự nhất quán.

2.6 Về mức độ hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên

Không hiệu quả Rất hiệu quả


18% 20%

Bình thường
Có hiệu quả 24%
38%

Rất hiệu quả Bình thường Có hiệu quả Không hiệu quả

11
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ thể hiện mức độ hiệu quả của việc làm việc nhóm đối với sinh viên.

Theo kết quả khảo sát, gần 38% sinh viên cho rằng kết quả thực hiện của nhóm sinh
viên là cao, nhưng có 24% sinh viên cho rằng kết quả đó ở ngưỡng bình thường, 20%
sinh viên cho rằng việc học tập theo nhóm rất hiệu quả và 18% sinh viên nhận thấy
không hiệu quả từ biệc học tập theo nhóm. Điều này cho thấy sinh viên chủ yếu quan
tâm đến kết quả công việc hoàn thành hơn là lượng kiến thức mà sinh viên thu được, do
đó ảnh hưởng khá nhiều đến thái độ và cách thức làm việc nhóm của sinh viên.

2.7 Về kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên

Dưới dây là kết quả khảo sát mức độ thực hiện các kỹ năng học tập theo nhóm
của sinh viên có thể cho thấy các kỹ năng là hạn chế khá lớn cho các sinh viên.

Bảng: tổng hợp đánh giá mức độ kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên.

Mức độ thực hiện các kỹ năng (%)


STT Các kỹ năng Thành Tương đối Chưa Không
thạo thành thạo thành thành
thạo thạo
1 Lập kế hoạch hoạt động nhóm 10 40 36 14
2 Xây dựng nội quy hoạt động nhóm 7 30 42 21
3 Phân công nhiệm vụ rõ ràng, hợp lý 15 54 39 2
4 Thảo luận, trao đổi 20 60 17 3
5 Nghiên cứu tài liệu 17 50 25 8
6 Chia sẻ trách nhiệm 14 32 49 5
7 Lắng nghe một cách chủ động, tích cực 17 37 40 6
8 Chia sẻ thông tin 18 50 30 2
9 Giải quyết xung đột 3 25 52 20
10 Tự kiểm tra, đánh giá hoạt động nhóm 5 38 42 15

Qua bảng này chúng ta có thể thấy hình thức làm việc nhóm đã rất phổ biến và
mang lại nhiều lợi ích tốt như: san sẻ công việc, tăng hiệu suất, tăng gắn kết,... Tuy
12
nhiên, các bạn sinh viên vẫn gặp phải rấy nhiều vấn đề với hình thức làm việc này, đã
thể hiện một cách khá rõ ràng trong bảng trên.

2.7.1 Bỡ ngỡ với hình thức làm việc nhóm

Các tân sinh viên thường bỡ ngỡ và gặp khá nhiều khó khăn khi bắt đầu làm việc
nhóm. Khi giảng viên yêu cầu làm việc nhóm, nhiều sinh viên đã không chọn được
nhóm cho mình. Và khi có nhóm rồi các thành viên phải mất rất nhiều thời gian để thích
nghi.

Lý do là bởi khi mới làm việc với nhau, ai cũng nghĩ mình là giỏi mình là nhất,
ai cũng có cái tôi cao nên chỉ khăng khăng và chỉ thật sự tin tưởng vào chính ý kiến mà
mình đưa ra. Điều này dẫn tới việc khó thống nhất ý kiến trong nhóm. Và việc tranh
luận để thống nhất ý kiến chiếm mất nhiều thời gian. Thậm chí, thời gian đó còn nhiều
hơn thời gian giúp cả nhóm hoàn thành một bài tập nào đó.

2.7.2 Các nhóm hoạt động ít, không có nguyên tắc rõ ràng

“Đợt năm nhất, năm hai nhóm của mình là làm việc với nhau khá ok. Tuy nhiên,
từ năm ba trở đi, nhóm hoạt động thưa thớt dần. Ban đầu là một tuần hai lần nhưng đến
giờ tính ra chắc hai tuần hoặc thậm chí một tháng mới ngồi với nhau một lần. Chưa kể,
có những lần hẹn hôm nay họp nhóm rồi có người vẫn không đến hoặc bảo đến rồi lại
bảo bận việc này việc kia, ảnh hưởng tới mọi người”, Lan Hương – sinh viên năm ba
trường Đại học Hà Nội chia sẻ.

Việc các nhóm không có nội dung, kỷ luật rõ ràng sẽ khiến mọi người không có
ý thức rõng ràng được tầm quan trọng của làm việc nhóm. Việc không chuẩn bị nội dung
trước cho một buổi học nhóm cũng giống như một buổi lên lớp có giảng viên vậy, nếu
như bạn thật sự đã không có ý thức thì việc học nhóm sẽ chưa bao giờ là ổn đối với bạn
cả.

2.7.3 Kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên kém dẫn tới xung đột thường xuyên

Các thành viên trong nhóm mỗi người một cá thể mỗi một tính cách, nên vì thế
thường xuyên sẽ dễ có nhưng tranh luận, bất đồng quan điểm và thậm chí là va chạm
lẫn nhau. Khi có vấn đề, ai cũng muốn ý kiến của mình là đúng, không ai chịu lắng nghe
ai. Thậm chí, có những thành viên còn to tiếng khi tranh luận với nhau. Những người

13
khác còn “thêm dầu vào lửa” khiến không khí làm việc bỗng trở nên căng thẳng hơn.
Không ít các nhóm đã hoạt động kém, ít hiệu quả, thậm chí còn tan rã vì những lý do
này.

2.7.4 Hiệu quả làm việc nhóm không cao

Hiệu quả làm việc nhóm bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Đó có thể bắt nguồn từ
tính cách, thái độ tới cách làm việc của mỗi cá nhân, tập thể. Các thành viên không có
kỹ năng, không đặt mục tiêu của nhóm lên đầu đều khiến nhóm đó làm việc kém năng
xuất. Chưa kể, có nhiều thành viên còn không chịu hợp tác, hay ỉ lại, cái tôi quá cao,...

2.7.5 Một thành viên “gánh team”, thành quả thì hưởng chung

Việc thiếu kỹ năng hợp tác với mọi người, cộng thêm sự thiếu trách nhiệm, thiếu
chủ động,... dẫn tới tình huống một người làm công việc cho cả nhóm. Kết quả là đến
khi được cộng điểm tốt, khen thưởng thì nghiễm nhiên coi đó là việc của cả nhóm.

“Không hiểu là mình đang teamwork hay tao – work nữa. Việc thì biệc chung
của nhóm mà không hiểu sao cứ đổ hết lên đầu mình. Lên kế hoạch là mình, ý tưởng là
mình, thuyết trình cũng là mình. Người thì bận về quê, người thì bận chuyển nhà,...
Không hiểu tinh thần, ý thức làm việc tập thể của mọi người để đâu. Có khi bàn bạc
trong nhóm thì thấy mọi người xem mà không rep gì cả. Thật chả hiểu nữa. Cứ thể này
mình cũng xin rút nhóm sớm”, Vân Anh – sinh viên trường Đại học Ngoại Ngữ bức xúc
kể lại.

Ngoài những tình trạng trên, các nhóm còn gặp phải rất nhiều tình huống “dở
khóc dở cười” khác.

2.8 Các yếu tố (nguyên nhân) ảnh hưởng đến kỹ năng làm việc nhóm

Thực trạng kỹ năng làm việc nhóm của sinh viên như trên thường do nhiều yếu
tố (nguyên nhân) ảnh hưởng đến. Đó có thể là yếu tố chủ quan hoặc yếu tố khách quan:

2.8.1 Yếu tố (nguyên nhân) chủ quan

+ Không có tinh thần trách nhiệm, không có thái độ, ý thức hợp tác cùng mọi người

+ Lười biếng, ỉ lại, đùn đẩy, so bì, tỵ nạnh nhau

+ Bất đồng ý kiến


14
+ Cái tôi quá cao, bảo thủ, không có kỹ năng lắng nghe trong giao tiếp. Không chịu thấu
hiểu, thông cảm với người khác

+ Thiếu sự chủ động khi làm việc cùng các thành viên khác

+ Thiếu sự gắn kết, hòa nhập với mọi người, chia bè kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ

+ Không biết cách hoàn thành công việc

+ Nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về nhóm và cách làm việc nhóm.

2.8.2 Yếu tố (nguyên nhân) khách quan

+ Nhóm trưởng không có kỹ năng lãnh đạo, dẫn dắt mọi người, bảo thủ, áp đặt

+ Nhóm không thống nhất được cá nguyên tắc để cùng làm việc

+ Nhóm không có giờ giấc, kỷ luật

+ Nhóm trưởng không phân công rõ ràng công việc cho các thành viên

+ Các thành viên không tập trung vào công việc, thường xuyên ăn uống, nói chuyện,
dùng điện thoại giải trí,...

15
CHƯƠNG 3:

GIẢI PHÁP GIÚP NÂNG CAO KỸ NĂNG, NHẬN THỨC

LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN

Trong thời đại mới khi lượng tri thức ngày càng một nhiều lên, làm việc theo
nhóm dường như đã trở thành một yêu cầu quan trọng, cần thiết được đặt ra hầu hết với
tất cả mọi người. Với sinh viên, học tập theo nhóm là một trong những phương pháp
học tập hiệu quả để qua đó rèn cho sinh viên khả năng hợp tác, chia sẻ tình cảm, bồi
dưỡng, phát triển tư duy, nâng cao trình độ tri thức.

Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này chưa thật sự thu hút và có sức lan tỏa rộng,
nó chỉ dừng lại ở một bộ phận sinh viên nhất định. Không phải sinh viên nào cũng hào
hứng, tích cực tham gia các hoạt động học tập theo nhóm. Hoạt động học tập theo nhóm
nhìn chung còn ít nhiều mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Khi làm việc nhóm sẽ
không tránh khỏi những mẫu thuẫn khiến nhóm dễ tan vỡ. Vì vậy, rất cần các giải pháp
hữu hiệu để góp phần nâng cao hiệu quả học tập theo nhóm của sinh viên hiện nay, cụ
thể như:

3.1 Đề xuất giải pháp với nhà trường

Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, gặp gỡ, cuộc thi và ngoại
khóa bồi dưỡng cho sinh viên về kỹ năng làm việc nhóm cũng như mở các diễn đàn trao
đổi cho sinh viên về các kỹ năng cần thiết.

Thiết lập các phòng đọc theo chuyên đề nhằm để phục vụ công tác nghiên cứu
khoa học và các phòng học nhóm thuận lợi cho sinh viên, giúp sinh viên bàn luận sôi
nổi mà không ảnh hưởng tới xung quanh, cũng như hạn chế tối đa các yếu tố gây nhiễu
và sao nhãng trong quá trình thảo luận nhóm của sinh viên.

Khuyến khích các câu lạc bộ, đội, nhóm hoạt động mạnh mẽ, bởi chính những
hoạt động này sẽ giúp sinh viên cải thiện các kỹ năng làm việc, hợp tác với những thành
viên khác.

Chú trọng công tác bảo trì, nâng cấp và bổ sung trang thiết bị phục vụ dạy và học,
tạo môi trường để giảng viên và sinh viên có điều kiện thuận lợi phát huy hết hiệu quả

16
của phương pháp làm việc nhóm trong đào tạo tín chỉ như: các trang thiết bị tại phòng
học, giáo trình và tài liệu tham khảo, mạng internet,...

3.2 Đề xuất giải pháp với giảng viên

Giảng viên cần xây dựng các đề tài, bài tập nhóm một cách phong phú và đa dạng
và phù hợp với năng lực, khả năng của các nhóm sinh viên.

Giảng viên cần tăng cường sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong các tiết
giảng dạy trên lớp và ngoài giờ học nhằm nâng cap nhận thức về nhóm, giáo dục kỹ
năng làm việc nhóm cho sinh viên.

Trong mỗi nhóm cần có trưởng nhóm – người điều hành nhóm. Trưởng nhóm có
thể do các sinh viên trong nhóm tự đề cử hoặc được giảng viên chỉ định. Đồng thời
giảng viên phải phổ biến cho nhóm trưởng của các nhóm về nhiệm vụ của mình và cách
thức để thực hiện công việc tương ứng với từng giai đoạn của hình thành nhóm.

Bên cạnh đó, các giảng viên cần theo dõi khi các nhóm thảo luận trên lớp và
nghiêm khắc trong việc nhận xét, đánh giá kết quả làm việc nhóm của sinh viên năm thứ
nhất để tạo lập và hình thành thói quen, ý thức, tự giác, tích cực làm việc theo nhóm của
sinh viên.

3.3 Đề xuất giải pháp với sinh viên

Mỗi sinh viên cần tích cực, tự giác tham gia các hoạt động đội nhóm, các câu lạc
bộ học tập, văn nghệ, thể dục thể thao ở lớp, ở khoa và trong nhà trường; các hoạt động
tập thể, hoạt động xã hội để trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cũng như
các kỹ năng sống khác.

Trau dồi kỹ năng và rèn luyện tinh thần tự chủ trong học tập. Chủ động và tích
cực để hấp thụ được tối đa sự truyền đạt, hướng dẫn của giảng viên. Chính bản thân sinh
viên phải tự ý thức được mình phải chủ động lắng nghe, học hỏi các kỹ năng và kiến
thức từ giảng viên.

Sinh viên cần phải thay đổi lại cách tư duy, cách suy nghĩ trong học tập. Để làm
được điều đó thì cần có sự nhìn nhận, đóng góp ý kiến thẳng thắng của nhóm trưởng,
các thành viên tích cực ở trong nhóm và đặc biệt là sự nhận xét từ giảng viên.

17
Tự rèn luyện cho bản thân để đưa bản thân vào quy củ trong việc làm việc theo
nhóm, bắt đầu bằng việc tham gia đầy đủ và đúng giờ giấc khi hoạt động nhóm, cho đến
tham gia nghiêm túc vào thảo luận nhóm, không sao lãng trong thời gian hoạt động
nhóm và tự đặt cho bản thân các quy tắc khi làm việc nhóm.

18
CHƯƠNG CUỐI:

KẾT LUẬN

Trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, làm việc theo nhóm là tiền đề để sinh viên
có khả năng thích ứng cao với môi trường làm việc đa dạng, tạo cho sinh viên làm việc
một cách chuyên nghiệp, chủ động, sáng tạo và hiệu quả. Nhìn chung, các kỹ năng cá
nhân và kỹ năng quá trình làm việc nhóm của sinh viên năm nhất các trường đại học ở
Việt Nam hiện tại chỉ nằm ở mức trung bình. Chính vì vậy hiệu quả làm việc nhó vẫn
chưa cao cà cần được cải thiện thông qua nhiều giải quyết được đề xuất kết hợp từ ba
phía: Nhà trường, Giảng viên và Sinh viên.

19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lý học, NXB Khoa học xã hội


2. Trần Thị Minh Đức (2012), Cố vấn học tập trong các trường Đại học, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội
3. Phạm Minh Hạc (1989), Hoạt động – Ý thức – Nhân cách, NXB Giáo dục
4. Nguyễn Thị Oanh (2007), Làm việc theo nhóm, NXB Trẻ
5. Đặng Vũ Hoạt (2006), Lí luận dạy học đại học, NXB Đại học Sư phạm
6. Lê Minh (2018), Khó khăn tâm lí trong học tập nhóm theo học chế tin chỉ của
sinh viên sư phạm, Tạp chí giáo dục số 428, tr12 – 16
7. Phan Như Đại (2020), Thực trạng kỹ năng học tập theo nhóm của sinh viên
trường đại học Hồng Đức hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt 2, tr 244 – 248
8. Nhóm nghiên cứu do TS. Trần Văn Công hướng dẫn (2015), Thực trạng kỹ năng
hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên sư phạm vật lý trường đại học giáo
dục, Báo cáo khoa học môn phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục
9. Nhóm nghiên cứu khoa học (2015), Học tập theo nhóm trong sinh viên khoa
Quản lý, Học viện Quản lý giáo dục: thực trạng và giải pháp, Học viện quản lý
giáo dục
10. Đặng Danh Ngọc (2009), Phương pháp làm việc nhóm dưới góc nhìn của sinh
viên, Diễn đàn sinh viên, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội.

20

You might also like