Professional Documents
Culture Documents
Xemtailieu Nghien Cuu Dieu Che Thuy Tinh Long Tu Soda Va Cat
Xemtailieu Nghien Cuu Dieu Che Thuy Tinh Long Tu Soda Va Cat
QUYNHON
------------
LÊ TUẤN EM
Mã số: CN 262
------------
LÊ TUẤN EM
Mã số: CN 262
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3. Tên đề tài: Nghiên cứu điều chế thủy tinh lỏng từ soda và cát.
Địa điểm: Phòng thí nghiệm Vô cơ - CNHH, Khoa Công Nghệ, trường Đại học
Cần Thơ.
Khảo sát các điều kiện tối ưu để điều chế thủy tinh tan.
Tìm hiểu sự liên hệ tính chất của thủy tinh lỏng với module của chúng.
Hòa tan thủy tinh tan bằng nước nóng để tạo thành dung dịch thủy tinh
lỏng.
Khảo sát điều kiện tối ưu điều chế thủy tinh tan có module 1,6 và 2,6.
ii
Khảo sát các điều kiện cơ bản như nhiệt độ và thời gian lưu trong sản xuất
thủy tinh tan.
Hướng dẫn của cán bộ hướng dẫn, phòng thí nghiệm, thiết bị, hóa chất,
kinh phí và một số dụng cụ cần thiết khác.
8. Kinh phí dự trù cho việc thực hiện đề tài: 1,000,000 đồng
iii
LỜI CẢM ƠN
------o0o------
Đầu tiên em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô thuộc bộ môn Công Nghệ Hóa
Học – Khoa Công Nghệ đã trang bị cho em những kiến thức và những kinh nghiệm vô
cùng quý giá trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường để em có được những
kết quả như ngày hôm nay. Những kiến thức và kinh nghiệm ấy sẽ giúp ích rất nhiều
cho em trong cuộc sống và nghề nghiệp trong tương lai.
Em xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Lê Thanh Phước, thầy là người đã hướng
dẫn, quan tâm giúp đỡ và tạo động lực cho em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Em cũng xin gởi lời cảm ơn đến thầy Trương Chí Thành và thầy Nguyễn Việt
Bách đã tạo điều kiện tốt và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thời gian thực
hiện đề tài.
Con xin gởi lời cảm ơn đến gia đình thân yêu đã luôn bên cạnh ủng hộ cả về vật
chất lẫn tinh thần để con có thể vượt qua những khó khăn trong học tập.
Cảm ơn những người bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
iv
Sodium silicate hòa tan (hay còn gọi là thủy tinh lỏng là một loại chất lỏng chứa
thủy tinh hòa tan và có tính chất của một chất lỏng) được sử dụng rất phổ biến trong
thực tế. Chúng được sử dụng làm chất bít kín, chất gắn, chất chống kết bông, chất tạo
nhũ và chất đệm. Hầu hết các ứng dụng của thủy tinh lỏng là trong nghành công
nghiệp giấy và bột giấy (chúng tăng cường độ tẩy trắng) và trong nghành công nghiệp
chất tẩy rửa, chúng làm tăng cường hoạt động của chất tẩy rửa và làm giảm độ nhớt
của kem. Do đó việc sản xuất thủy tinh lỏng cũng như cần có một quy trình công nghệ
sản xuất thủy tinh lỏng hợp lý là một trong những yêu cầu vô cùng cấp bách và thiết
thực.
Ngày nay, thủy tinh lỏng được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến với nguyên liệu
ban đầu là cát và soda. Đầu tiên là cát và soda được cân theo đúng tỷ lệ và được trộn
đều để tạo thành hỗn hợp phối liệu, sau đó hỗn hợp phối liệu được nung ở nhiệt độ cao
để tạo thành thủy tinh hòa tan, và cuối cùng là hòa tan sodium silicate hòa tan thu được
trong nước và hơi nước nóng thì sẽ thu được dung dịch thủy tinh lỏng.
Do đó để hoàn thiện quy trình sản xuất cũng như tìm ra những thông số tối ưu
trong quy trình sản xuất thủy tinh lỏng thì cần phải khảo sát sự ảnh hưởng của nhiệt độ
phản ứng, thời gian phản ứng, tỷ lệ mol trong hỗn hợp phối liệu ban đầu đến quá trình
sản xuất và chất lượng sản phẩm thủy tinh lỏng thu được. Nhưng do thời gian thực
hiện đề tài có giới hạn nên tôi chỉ khảo sát các yếu tố, điều kiện cơ bản ảnh hưởng đến
quy trình sản xuất thủy tinh lỏng có module được sử dụng phổ biến trên thị trường
Việt Nam hiện nay đó là thủy tinh lỏng loại module thấp có module 1,6 và thủy tinh
lỏng loại module cao có module 2,6.
MỤC LỤC
2.1.1.2 Soda..............................................................................................20
2.1.1.3 Tiêu chuẩn nguyên liệu sản xuất thủy tinh tan ...............................22
PHỤ LỤC..................................................................................................................45
vii
viii
Hình 24 – Đồ thị hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 theo tỷ lệ SiO2/Na2O
ở cùng nhiệt độ phản ứng 1150ºC và thời gian lưu 120 phút.........................29
(SiO2/Na2CO3 = 1,6)....................................................................................35
(SiO2/Na2CO3 = 2,6).....................................................................................36
Hình 32 – Đồ thị hàm lượng Na2O và SiO2 của thủy tinh lỏng
Hình 33 – Đồ thị module thủy tinh tan theo thời gian ...................................41
Hình 34 – Đồ thị hàm lượng Na2O và SiO2 của thủy tinh lỏng
Hình 35 – Đồ thị module thủy tinh tan theo thời gian ...................................42
ix
Bảng 3 – Khảo sát chất lượng mẫu thủy tinh lỏng có module 1,6
Bảng 4 – Khảo sát chất lượng mẫu thủy tinh lỏng có module 2,6
Bảng 5 – Hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 trong điều kiện
Bảng 6 – Hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 trong điều kiện
Silicate của các kim loại khác được tạo nên khi nấu chảy thạch anh với oxide kim
loại tương ứng. Chúng không tan trong nước. Một số bị acid mạnh phân hủy giải
phóng acid silicic, còn các silicate khác chỉ chuyển sang dạng tan được khi nấu chảy
với carbonate kim loại kiềm.
Silicate thiên nhiên đứng hàng đầu trong các loại khoáng vật, chúng có đến hàng
trăm chất và chiếm phần lớn khối lượng vỏ Trái Đất. Những khoáng vật silicate không
có màu đặc trưng. Nhiều khoáng vật ở dạng trong suốt, cứng, khó nóng chảy và bề
ngoài trông giống đá.
Qua những nguyên tử O chung, những nhóm tứ diện đó liên kết với nhau tạo
thành mạch thẳng, mạch vòng, lớp hoặc mạng lưới.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc đó, người ta phân chia silicate thành các nhóm:
orthosilicate, silicate mạch thẳng, silicate mạch vòng, silicate lớp và silicate mạng
lưới.
Orthosilicate chứa ion đơn SiO 44 . Trong những silicate này, cation kim loại
được phối trí bởi những nguyên tử O và tùy theo số phối trí của cation mà tạo nên
những kiến trúc khác nhau. Trong mạng lưới tinh thể phenakite (Be2SiO4) và willemite
(Zn2SiO4), cation kim loại có số phối trí 4. Trong những khoáng vật kiểu M2SiO4 (ở
đây M là Mg, Mn,...) cation có số phối trí 6 và trong zircon (ZrSiO4), ziriconi có số
phối trí 8. Tuy liên kết M-O có tính ion hơn liên kết Si-O nhưng có một mức độ nhất
định tính cộng hóa trị. Bởi vậy những orthosilicate này không thể coi là hợp chất ion
M 22+SiO 44 .
Silicate mạch thẳng gồm có hai loại: Silicate mạch đơn chứa anion ( SiO 32 )n và
Anion ( SiO 32 )n được tạo nên bởi các nhóm tứ diện SiO4 liên kết với nhau qua
những nguyên tử O chung tạo thành mạch thẳng:
Trong những mạch đó, trừ nhóm ở hai đầu mạch, mỗi nhóm tứ diện SiO4 có hai
nguyên tử O chung. Những mạch ( SiO 32 )n liên kết với nhau bằng các cation kim loại.
Những metasilicate tổng hợp như Na2SiO3, Li2SiO3 và những khoáng vật loại
pyroxen như enstatite (MgSiO3), diopside [CaMg(SiO3)2] và spodumene [LiAl(SiO3)2]
thuộc nhóm silicate mạch đơn.
Anion ngắn nhất có cấu tạo tương tự anion ( SiO 32 )n là anion disilicate Si 2 O 67
(hay còn gọi là pyrosilicate):
Anion Si 4 O116 được tạo nên bởi sự liên kết giữa hai mạch đơn qua những nguyên
tử O chung:
Như vậy trong mạch kép có một số nhóm tứ diện có ba nguyên tử O chung.
Thuộc nhóm silicate mạch kép là các khoáng vật loại amphibol như tremolite
[Ca2Mg2(Si4O11)2(OH)2], anthophyllite [Mg7(Si4O11)2(OH)2] và amiang
[Mg6(Si4O11)(OH)6.H2O]. Khác với pyroxen, trong amphibol thường có các nhóm OH–
nhưng kiến trúc của amphibol tương tự kiến trúc của pyroxen, nghĩa là những mạch
kép cũng liên kết với nhau bằng cation kim loại. Chính vì vậy trong pyroxen cũng như
trong amphibol thường có những cation kim loại khác nhau.
Liên kết trong các mạch ( SiO 23 )n và ( Si 4 O116 )n là rất bền nhưng liên kết giữa các
mạch đó với nhau lại tương đối yếu cho nên những khoáng vật thuộc nhóm mạch
thẳng dễ tách ra theo hướng song song với mạch, nghĩa là chúng có cấu tạo sợi.
diện SiO4 liên kết với nhau qua nguyên tử O chung tạo thành vòng kín:
Khoáng vật benitoit (BaTiSi3O9) chứa anion Si 3O 69 và khoáng vật beryl
(Be3Al2Si6O18) là thuộc nhóm silicate mạch vòng.
Silicate lớp chứa anion Si 2 O 52 n , được tạo nên nhờ các nhóm tứ diện SiO4 liên
kết với nhau theo hai chiều tạo nên tạo thành lớp:
Trong lớp, mỗi nhóm tứ diện SiO4 liên kết với ba nhóm tứ diện xung quanh qua
ba nguyên tử O chung.
Đá tan và kaolinite là những silicate đơn vì chúng được tạo nên hoàn toàn bởi các
nhóm tứ diện SiO4, còn mica là alumosilicate (silicate kép) vì trong đó một phần các
nhóm tứ diện SiO4 được thay thế bằng những nhóm tứ diện AlO4. Nhôm có hóa trị
thấp hơn silicon cho nên trong các alumosilicate, ngoài nhôm và silicon còn có những
cation kim loại khác nữa, thường là cation kim loại kiềm và kiềm thổ. Trong mica,
những lớp alumosilicate mang điện tích âm, chúng liên kết nhau qua những cation K+
nằn giữa các lớp. Lực tĩnh điện giữa các lớp tích điện âm và cation tích điện dương
làm cho mica cứng hơn đá tan và kaolinite. Tuy nhiên mica vẫn giữ kiến trúc lớp rõ rệt
cho nên dễ bóc thành những lớp rất mỏng. Trong thực tế người ta thường dùng những
lớp mica trong suốt để làm cửa của các lò đốt hay lò sấy và làm tấm cách điện trong
các thiết bị máy móc.
Silicate mạng lưới có kiến trúc tương tự như thạch anh, mỗi một tứ diện SiO4
liên kết với bốn tứ diện bao quanh đưa đến thành phần (SiO2)n, nhưng ở đây một số
nguyên tử Si được thay thế bằng nguyên tử Al tạo thành alumosilicate với khung
chung là [(Si, Al)O2]. Khung này tích điện âm nên cần có một số cation kim loại để
trung hòa điện tích. Khác với trường hợp mica, các cation kim loại ở đây được phân bố
đều ở trong khung đó.
Thuộc nhóm alumosilicate mạng lưới là những khoáng vật loại feldspar, các
zeolite và các ultramarine. Feldspar là những đá phún trào, chúng chiếm hơn một nữa
khối lượng vỏ Trái Đất. Những đại diện chính của khoáng vật loại feldspar là:
orthoclase (KAlSi3O8), albite (NaAlSi3O8), trong đó một phần tư số nhóm tứ diện SiO4
được thay thế bằng nhóm tứ diện AlO4 nên công thức được viết là
(Na,K)[(AlO2)(SiO2)3] còn trong anorthite (CaAl2Si2O8), số nhóm tứ diện AlO4 và
SiO4 bằng nhau nên công thức của chúng có thể viết là Ca[(AlO2)2(SiO2)2].
Gần đây, những hợp chất silicate của kim loại kiềm thổ được nghiên cứu để sử
dụng làm bột màu vô cơ trong công nghiệp. Đây là một ứng dụng rất nỗi bật của hợp
chất silicate bởi vì bột màu được tạo nên từ những hợp chất này có nhiều tính năng ưu
việt hơn so với các loại bột màu vô cơ thông thường, như có tính lấp lánh và đặc biệt
là có khả năng phát quang trong bóng tối.
Cho đến nay, thủy tinh lỏng đã được biết đến như là một nguyên liệu trong ngành
công nghiệp chất tẩy rửa. Bởi vì chúng có thể cung cấp một lượng kiềm lớn và khả
năng đệm pH rất tốt. Một số loại còn có thể hỗ trợ cho việc tổng hợp chất tẩy rửa với
khả năng chống keo tụ và ngăn ngừa sự lắng đọng trong dung dịch keo. Các loại khác
có thể tác động trực tiếp như là chất làm mềm nước và đáp ứng các tiêu chuẩn trong
công nghiệp chất tẩy rửa. Một tính chất quan trọng khác là khả năng ăn mòn thủy tinh
và các kim loại trong quá trình rửa và làm sạch. Trong quá trình sản xuất chất tẩy rửa,
chúng được xem là chất hỗ trợ xử lý quan trọng trong quá trình tích tụ của các hạt chất
tẩy rửa, điều chỉnh mật độ số lượng bột chất tẩy rửa.
Đặc trưng của thủy tinh lỏng là tỷ lệ SiO2/Na2O theo khối lượng. Giá trị đặc
trưng này thường được gọi là module. Tỷ lệ SiO2/Na2O cũng có thể được thể hiện trên
cơ sở phân tử. Việc chuyển đổi giữa module và tỷ lệ phân tử có thể được chuyển đổi
bằng trọng lượng công thức phân tử tương ứng. Trong trường hợp của sodium silicate,
module đã được nhân với hệ số chuyển đổi 1,032 để có được tỷ lệ phân tử.
Trong thương mại, sodium silicate là loại hóa chất quan trọng nhất trong số các
silicate kim loại kiềm. Chúng là loại hóa chất được sử dụng với nhiều dạng, mức độ và
thành phần khác nhau. Sodium silicate được bán trên thị trường không chỉ dưới dạng
dung dịch mà còn ở dạng bột mịn và dạng hạt với số lượng lớn. Dạng rắn thì được sử
dụng từ dạng vô định hình tới dạng tinh thể và từ khan cho tới các loại ngậm nước.
Cát được trộn đều với soda theo đúng tỷ lệ để tạo thành hỗn hợp phối liệu phản
ứng như mong muốn. Sau đó hổn hợp phối liệu này được nung ở nhiệt độ
1000-1200°C trong vài giờ. Sản phẩm thu được là thủy tinh tan vô định hình (thủy tinh
vụn hay còn gọi là cullet), nó được hòa tan vào nước để tạo ra các dạng silicate khác
nhau.
Phương trình phản ứng chung xảy ra trong quá trình nung:
Để biết được diễn biến, tốc độ và điểm kết thúc quá trình phản ứng thì người ta
theo dõi lượng CO2 thoát ra, nhưng không phân biệt được từng phản ứng riêng lẻ. Quá
trình này cũng tạo cho hỗn hợp nấu chảy nhiều bọt. Khi pha lỏng xuất hiện thì tốc độ
tạo silicate tăng do tăng bề mặt phản ứng. Do vậy cần cố gắng tìm cách tạo pha lỏng ở
nhiệt độ thấp. Do đó có thể thêm vào hỗn hợp phối liệu ban đầu một lượng chất khử
bọt thích hợp để tạo pha lỏng dễ dàng hơn.
Tuy nhiên điều quan trọng nhất ảnh hưởng đến tốc độ và hiệu suất phản ứng này
là kích cỡ hạt cát cho vào. Vì nhiệt độ nóng chảy của cát là rất cao trên 1600ºC nên
10
muốn cát chảy lỏng ra thì phải tốn một nhiệt lượng rất lớn. Vì vậy để tiết kiệm năng
lượng ta sẽ cho phản ứng xảy ra khi cát vẫn còn ở trạng thái rắn. Do đó tốc độ phản
ứng và hiệu suất phản ứng sẽ phụ thuộc rất lớn vào diện tích bề mặt riêng của cát
nguyên liệu. Cho nên, cát trước khi được cho vào hỗn hợp phối liệu với soda để phản
ứng thì phải được nghiền mịn đến kích cỡ thích hợp. Thực tế thì nghiền càng mịn càng
tốt nhưng nếu như nghiền quá mịn thì sẽ tốn nhiều năng lượng cho quá trình nghiền
mà tốc độ phản ứng và hiệu suất phản ứng không tăng thêm bao nhiêu. Và hỗn hợp
phối liệu ban đầu phải được trộn thật đều vào nhau để tăng tối đa diện tích tiếp xúc bề
mặt giữa cát và soda.
Sau khi nung thì chúng ta sẽ thu được thủy tinh vụn màu trắng trong suốt hoặc có
màu do lẫn tạp chất bằng nước và hơi nước nóng ở áp suất 5 atm (nước nóng khoảng
151°C). Sau khi thủy tinh vụn tan hết thì tiến hành lắng và lọc để loại phần không tan
ra khỏi dung dịch thủy tinh lỏng.
Phần cặn không tan ở đây là cát chưa phản ứng hết. Do đó lượng cặn không tan
này có thể được dùng để tính hiệu suất phản ứng.
Thủy tinh lỏng thu được có thể được bán trực tiếp ra thị trường nhưng nếu muốn
thì người ta có thể thay đổi tỷ lệ SiO2/Na2O nhỏ xuống để thích hợp với yêu cầu của
thị trường. Để thực hiện điều này thì người ta thêm vào thủy tinh lỏng có module cao
xút hoặc soda với lượng thích hợp để tăng hàm lượng Na2O lên. Và kết quả là module
của thủy tinh lỏng bị giảm xuống.
Toàn bộ quy trình sản xuất thủy tinh lỏng có thể được tóm gọn trong sơ đồ sau:
11
Lò Nung
1000-1200ºC
Hòa Tan
Lắng Cặn
12
Bảng 1 - Tiêu chuẩn chung cho sản phẩm sodium silicate lỏng
Ngoại quan: chất lỏng đồng nhất, sánh, trong suốt, cho phép có màu
trắng đục hoặc ngà vàng
Module: 2,3-2,7.
Ngoại quan: chất lỏng đồng nhất, sánh, trong suốt, cho phép có màu
trắng đục hoặc ngà vàng
13
Module: 1,5-1,7.
Trong công nghiệp giấy và bột giấy thủy tinh lỏng có nhiệm vụ vận chuyển các
ion kim loại, đệm pH, làm chất ổn định, là tác nhân hoạt động bề mặt, làm chất trợ lọc
và hạn chế sự ăn mòn. Nó có thể giữ các nhóm peroxide để làm cho bột giấy trắng
hơn.
Trong công nghiệp chất tẩy rửa, nó làm nhiệm vụ phân tán đều hỗn hợp huyền
phù, tạo môi trường kiềm giúp tăng cường hiệu quả giặt tẩy, chất nhũ hóa các hệ dầu
mỡ hữu cơ, hạn chế sự ăn mòn kim loại trong quá trình hoạt động và vệ sinh thiết bị.
Những vật liệu gồm nhiều thành phần khi kết khối lại đòi hỏi một chất kết dính
để đạt được lực liên kết giữa các thành phần đủ lớn. Và nhìn chung chất kết dính có
thể được chia thành ba nhóm: dạng matrix, dạng film và chất kết dính hóa học.
Sodium silicate là độc đáo ở chỗ nó có thể đáp ứng được cả ba khả năng trên. Ví dụ,
như là một chất kết dính matrix, sodium silicate sẽ được sử dụng cùng với xi măng
Portland hoặc xi măng Pouzzolan để tăng thêm cường độ cho chúng.
Film hình thành chất kết dính như keo do sự bay hơi của nước hoặc các dung
môi. Sodium silicate thương mại sẵn có chứa 45-65% nước theo trọng lượng. Mất một
phần nhỏ của nước này, ngay cả trong điều kiện môi trường bình thường cũng có thể
tạo thành film thủy tinh mạnh mẽ và cứng nhắc. Thời gian phơi khô sẽ phụ thuộc vào
module, nồng độ, độ nhớt, độ dày màng của thủy tinh lỏng cũng như nhiệt độ và độ ẩm
của không khí. Có đôi khi người ta làm khô màng thông qua việc bổ sung nhiệt.
Chất kết dính hóa học có chức năng phản ứng với vật liệu thành phần hoặc làm
cho các vật liệu thành phần phản ứng với nhau để tạo thành một khối vững chắc. Ví dụ
14
rõ nhất là việc sử dụng của sodium silicate hòa tan với một nguồn calcium. Phản ứng
sẽ sinh ra các hydrate của calcium silicate. Đây là một chất kết dính rất tốt, thường gặp
nhất là trong bê tông cốt thép.
Một lĩnh vực mới được nghiên cứu gần đây đó là ứng dụng của thủy tinh lỏng
trong công nghệ chế tạo silica aerogel. Silica aerogel có giá bán trên thị trường rất đắt
bởi vì nguyên liệu để sản xuất nó là các hợp chất alkoxide, những hợp chất này vốn có
giá rất đắt trên thị trường nên khi dùng nó để sản xuất aerogel thì giá của silica aerogel
càng đắt hơn nữa. Do vậy thủy tinh lỏng là một hướng đi mới đầy triễn vọng để hạ giá
thành của silica aerogel.
15
Thạch anh (silicon dioxide, SiO2) là một trong số những khoáng vật phổ biến
nhất trên Trái Đất. Nó được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện SiO4, trong đó
mỗi nguyên tử O chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.
Ba dạng tinh thể của silicon dioxid ở áp suất thường là thạch anh, tridymite và
cristobalite. Mỗi một dạng đa hình này lại có hai dạng: Dạng α bền ở nhiệt độ thấp và
dạng β bền ở nhiệt độ cao. Dưới đây là sơ đồ biến đổi các dạng tinh thể của silicon
dioxide:
16
Tất cả những dạng tinh thể này đều bao gồm những nhóm tứ diện SiO4 nối với
nhau qua những nguyên tử O chung. Trong tứ diện SiO4, những nguyên tử Si nằm ở
tâm của tứ diện liên kết cộng hóa trị với bốn nguyên tử O nằm ở các đỉnh của tứ diện.
Như vậy mỗi nguyên tử O liên kết với hai nguyên tử Si ở hai tứ diện khác nhau và tính
trung bình cứ trên một nguyên tử Si có hai nguyên tử O và công thức kinh nghiệm của
silicon dioxide là SiO2.
Ba dạng đa hình của silicon dioxide có cách sắp xếp khác nhau của các nhóm tứ
diện SiO4 ở trong tinh thể. Trong thạch anh, những nhóm tứ diện được sắp xếp sao cho
các nguyên tử Si nằm trên một đường xoắn ốc. Nếu chiếu kiến trúc tinh thể của thạch
anh β lên trên mặt phẳng đáy của đường xoắn ốc thì được hình dưới đây:
17
Tùy theo chiều của đường xoắn ốc đó mà có thạch anh quay trái và thạch anh
quay phải. Còn trong tridymite, các nguyên tử Si chiếm vị trí của các nguyên tử S và
Zn trong mạng wurzite và trong cristobalite, các nguyên tử Si chiếm vị trí của các
nguyên tử S và Zn trong mạng lưới sphalerite; liên kết giữa các nguyên tử Si với nhau
đều được thực hiện qua nguyên tử O.
Tỉ khối của thạch anh là 2,56, của tridymite là 2,3 và của cristobalite là 2,2. Sự
khác nhau giữa dạng α và dạng β của mỗi dạng đa hình đó là do sự quay một ít của các
tứ diện đối với nhau nhưng cách sắp xếp chung của các tứ diện không biến đổi. Do vậy
chúng ta có thể hiểu dễ dàng tại sao sự biến đổi giữa các dạng α và β xảy ra nhanh
chóng và ở nhiệt độ thấp hơn so với sự biến đổi từ dạng đa hình này sang dạng đa hình
18
kia: trường hợp thứ nhất không đòi hỏi sự phá vỡ liên kết còn trường hợp thứ hai đòi
hỏi sự phá vỡ và xây dựng lại tất cả liên kết. Vì quá trình biến đổi dạng đa hình này
sang dạng đa hình khác của silicon dioxide xảy ra chậm và cần năng lượng hoạt hóa
cao cho nên thạch anh, tridymite và cristobalite đều tồn tại trong thiên nhiên mặc dù ở
nhiệt độ thường chỉ có thạch anh là bền nhất và các dạng khác chỉ là bền giả.
Gần đây người ta chế tạo được hai dạng tinh thể mới của silicon dioxide thạch
anh là coesite (được tạo nên ở áp suất 35.000 atm và nhiệt độ 250°C) và stishovite
(được tạo nên ở áp suất 120.000 atm và nhiệt độ 1300°C). Hai dạng này về sau mới
được phát hiện ở các thiên thạch. Khi đun nóng ở 1200°C (coesite) và 400°C
(stishovite), chúng biến thành silicon dioxide dạng bình thường.
Khi để nguội chậm silicon dioxide đã nóng chảy hoặc đun nóng bất kì dạng nào
của silicon dioxide đến nhiệt độ hóa mềm, thu được một vật liệu vô định hình giống
như thủy tinh. Những vật liệu dạng thủy tinh như vậy, về một số mặt giống với chất
rắn và về một số mặt khác giống với chất lỏng. Ở nhiệt độ khá thấp, chẳng hạn như ở
nhiệt độ thường, vật liệu dạng thủy tinh tạo nên khối rắn có hình dạng xác định, đôi
khi có độ bền cơ học cao, độ cứng lớn,… Nhưng ở nhiệt độ cao hơn, vật liệu dạng
thủy tinh có tính chất giống như một chất lỏng chậm đông có độ nhớt rất lớn. Khác với
dạng tinh thể, chất dạng thủy tinh có tính đẳng hướng và không nóng chảy ở nhiệt độ
không đổi mà hóa mềm ở nhiệt độ thấp hơn nhiều so với khi chảy lỏng ra. Bằng
phương pháp nhiễu xạ tia X, người ta xác định được rằng trong trạng thái thủy tinh,
mỗi nguyên tử vẫn được bao quanh bởi những nguyên tử khác giống như trong trạng
thái tinh thể nhưng những nguyên tử đó sắp xếp một cách hỗn loạn hơn. Một ví dụ cụ
thể đã gặp trước đây là trường hợp của B2O3. Một số chất khác cũng cho trạng thái
thủy tinh là selenium, lưu huỳnh dẻo, beryllium fluoride, germanium dioxide, calcium
silicate (CaSiO3), chì silicate (PbSiO3), lithium metaborate (Li2B2O4), sodium
tetraborate (Na2B4O7) và cadmium diphotphate (Cd2P2O7).
Thạch anh nóng chảy ở 1600-1670°C. Nhiệt độ nóng chảy của nó không thể xác
định chính xác được vì có một phần biến hóa sang những dạng đa hình khác với tỉ lệ
khác nhau tùy theo điều kiện bên ngoài. Cristobalite nóng chảy ở 1710°C. Nhiệt độ sôi
của silicon dioxide là 2230°C.
19
Thạch anh thuộc loại khoáng hết sức phổ biến. Người ta thường gặp những tinh
thể thạch anh lớn và phát triển rất hoàn hảo. Có tinh thể nặng đến 70 tấn. Tinh thể
thạch anh tinh khiết nhất được làm lăng kính và thấu kính. Đá quaczit và cát là loại
thạch anh kém tinh khiết hơn. Cát thạch anh là sản phẩm chủ yếu của sự phân hủy
nham thạch dưới tác dụng lâu đời của khí CO2 và nước. Lượng cát rất lớn được dùng
làm vật liệu xây dựng cùng với vôi và xi măng. Cát thạch anh tinh khiết được dùng để
chế thủy tinh, sứ. Dọc theo bờ biển miền Trung nước ta có rất nhiều loại cát trắng này
để nấu thủy tinh.
2.1.1.2 Soda
Sodium carbonate khan là chất bột màu trắng, hút ẩm và nóng chảy ở 851°C. Nó
dễ tan trong nước, quá trình hòa tan tỏa nhiều nhiệt do sự tạo thành các hydrate. Từ
dung dịch ở nhiệt độ dưới 32,5°C, sodium carbonate kết tinh dưới dạng decahydrate
Na2CO3.10H2O. Đây là những tinh thể đơn tà trong suốt, không màu, dễ tan trong
nước và nóng chảy trong nước kết tinh ở 32,5°C. Giữa nhiệt độ đó và 35,4°C nó mất
nước biến thành heptahydrate Na2CO3.7H2O, trên 35,4°C biến thành monohydrate
Na2CO3.H2O và đến 107°C mất nước hoàn toàn biến thành soda khan. Độ tan của các
hydrate chứa nhiều phân tử nước tăng lên theo nhiệt độ, còn độ tan của monohydrate
giảm xuống. Khi để trong không khí, decahydrate mất bớt nước kết tinh trở nên trắng
vụn.
20
Soda được dùng rộng rãi trong các nghành công nghiệp thủy tinh, đồ gốm, xà
phòng và phẩm nhuộm. Nó cũng là chất đầu dùng để điều chế nhiều hợp chất quan
trọng của sodium như xút ăn da, borax, thủy tinh tan, chromate và dichromate.
Sodium carbonate đôi khi có trong một số hồ muối và trong tro của rong biển.
Cách đây 4000 năm người cổ Ai Cập đã biết lấy soda từ các hồ muối để sản xuất thủy
tinh. Từ các thế kỉ XV và XVI người ta dùng tro của rong biển để sản xuất xà phòng
và thủy tinh. Trước đây trong công nghiệp, soda được sản xuất theo phương pháp
sunfate do nhà hóa học người Pháp là N.Le Blanc (1742-1806) đề ra năm 1791: nung
hỗn hợp sodium sunfate, đá vôi và than ở 1000°C.
Hòa tan hỗn hợp sản phẩm phản ứng vào nước sẽ tách được CaS ít tan ra khỏi
Na2CO3.
Ngày nay soda hầu như chỉ được sản xuất theo phương pháp ammoniac do kĩ sư
người Bỉ là E.Solvay (1838-1922) đề ra năm 1864. Phương pháp này dựa chủ yếu vào
phản ứng hóa học:
Đây là một phản ứng thuận nghịch, cả bốn chất đều tan trong nước nhưng
NaHCO3 hơi ít tan hơn. Ở 20°C, độ tan (trong 100 g nước) của NaHCO3 là 10 g, của
NH4HCO3 là 21,5 g, của NaCl và NH4Cl còn lớn hơn nữa.
Thực tế trong công nghiệp người ta cho khí NH3 rồi khí CO2 đi qua dung dịch
NaCl bão hòa:
Lọc tách NaHCO3 ra và đun nóng để chuyển thành Na2CO3 khan. Quá trình này
giải phóng một nửa lượng CO2 đã sử dụng. Khí CO2 này được đưa lại vào quá trình
sản xuất. Chế hóa sản phẩm phụ NH4Cl với vôi tôi để tái sinh khí NH3 và đưa lại vào
quá trình sản xuất. Trong khi nung vôi khí CO2 giải phóng cũng được đưa vào quá
trình sản xuất. Như vậy từ những nguyên liệu ban đầu là NaCl và CaCO3 phương pháp
21
Solvay cho phép điều chế những sản phẩm là Na2CO3 và CaCl2 mà về mặt lý thuyết
phản ứng:
là không thể thực hiện được. Dưới đây là sơ đồ các phản ứng trong quá trình sản xuất
soda theo phương pháp Solvay:
CaO CaO
+ +
NaCl + CO2 + H2O + NH3 = NH4Cl + NaHCO3
2.1.1.3 Tiêu chuẩn nguyên liệu sản xuất thủy tinh tan
Soda
Trạng thái cảm quan: Bột màu trắng, không vón cục, không mùi.
Độ ẩm ≤ 1%
Cát trắng
Trạng thái cảm quan: màu trắng, không lẫn tạp chất.
22
Dung dịch chuẩn HCl 0,2N của chi nhánh công ty cổ phần hóa chất và vật
tư kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Dung dịch chuẩn NaOH 0,2N của chi nhánh công ty cổ phần hóa chất và
vật tư kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
23
Hình 20 – Tủ sấy
24
2.2.2. Dụng cụ
Các dụng cụ được sử dụng trong quá trình làm thí nghiệm:
Phễu lọc
Buret
25
Chất lượng thủy tinh lỏng được kiểm tra theo tiêu chuẩn 64-TCN 38-86 (xem
phụ lục).
26
Sau khi chuẩn độ dung dịch thủy tinh lỏng và cân phần cặn không tan trên giấy
lọc thì ta tính được hàm lượng Na2O, hàm lượng SiO2, pH dung dịch thủy tinh lỏng và
hàm lượng chất không tan trong sản phẩm. Toàn bộ kết quả được liệt kê trong bảng 2.
27
Bảng 2 – Hàm lượng Na 2O, hàm lượng SiO2 và pH dung dịch thủy tinh lỏng 1%
ở các tỷ lệ
VHCl 0,2N
SiO 2/Na 2O VHCl 0,2N VNaOH 0,2N %Na2O %SiO2 pH
thêm vào
28
%
50.00
45.00
40.00
35.00
30.00
25.00
20.00
15.00
10.00
5.00
0.00
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 n
Series1
%Na2O Series2
%SiO2
Hình 24 – Đồ thị hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 theo tỷ lệ SiO2/Na2O
ở cùng nhiệt độ phản ứng 1150ºC và thời gian lưu 120 phút
Theo đồ thị ta thấy, ở cùng một nhiệt độ và thời gian phản ứng thì hàm lượng
Na2O giảm và hàm lượng SiO2 của dung dịch thủy tinh lỏng tăng theo tỷ lệ mol
SiO2/Na2CO3 cho vào hỗn hợp phối liệu ban đầu. Điều này là hiển nhiên vì khi ta càng
tăng tỷ lệ mol cát cho vào hỗn hợp phối liệu ban đầu thì sản phẩm thủy tinh tan thu
được có module càng cao. Mà ở cùng một nồng độ, dung dịch thủy tinh lỏng có
module càng cao thì có hàm lượng SiO2 càng lớn, hàm lượng Na2O càng bé. Nên khi
ta tăng tỷ lệ mol SiO2/Na2CO3 cho vào ban đầu thì sản phẩm thủy tinh lỏng thu được
có hàm lượng SiO2 ngày càng tăng lên và hàm lượng Na2O ngày càng giảm xuống.
Mặt khác, dung dịch thủy tinh lỏng ở các tỷ lệ nếu như ở cùng một nồng độ thì sẽ
có các giá trị pH khác nhau.
29
pH
pH
13.00
12.95
12.90
12.85
12.80
12.75
12.70
12.65
12.60
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 n
pH
ở cùng 1 nồng độ 1%
Theo đồ thị thì pH của dung dịch giảm khi ta tăng tỷ lệ SiO2/Na2CO3 cho vào
hỗn hợp phối liệu ban đầu. Hàm lượng Na2O ảnh hưởng trực tiếp lên pH của dung
dịch. Nên khi ta tăng tỷ lệ SiO2/Na2CO3 lên thì hàm lượng Na2O giảm xuống. Vì vậy
pH của dung dịch sẽ giảm khi ta tăng tỷ lệ mol SiO2/Na2CO3 trong hỗn hợp phối liệu
ban đầu. Hay nói cách khác là ở cùng một nồng độ, thủy tinh lỏng có module càng cao
thì có pH dung dịch càng thấp.
Tùy theo mục đích sử dụng mà người ta sử dụng thủy tinh lỏng có module thích
hợp cho công việc đó. Ví dụ như sử dụng làm chất độn trong sản xuất chất tẩy rửa thì
người ta cần loại thủy tinh lỏng có pH cao để tạo môi trường kiềm tốt và dễ tan trong
nước, nên người ta có xu hướng chọn thủy tinh lỏng có module thấp, khoảng 1,5-1,7.
Còn sử dụng làm chất điện giải để làm giảm độ nhớt cho phối liệu trong tạo hình cho
gốm sứ thì cần module cao hơn khoảng 2,4-2,7 và làm chất tăng cường trong bê tông
thì cần thủy tinh lỏng có module cao hơn nữa khoảng 4-5,5. Ở Việt Nam thì có hai loại
được bán thông dụng cũng như được sử dụng nhiều nhất trên thị trường là thủy tinh
lỏng loại module thấp có module khoảng 1,5-1,7 và loại module cao có module
khoảng 2,4-2,7. Vì vậy sau đây chúng ta sẽ khảo sát sâu hơn ảnh hưởng của nhiệt độ
phản ứng và thời gian phản ứng cho hai loại thủy tinh tan này.
30
Chất lượng thủy tinh lỏng được kiểm tra theo tiêu chuẩn 64-TCN 38-86 (xem
phụ lục).
Sau khi tiến hành kiểm tra chất lượng thủy tinh lỏng thì thu được kết quả ở bảng
3 và bảng 4:
32
Bảng 3 – Khảo sát chất lượng mẫu thủy tinh lỏng có module 1,6 ở các nhiệt độ khác nhau
33
Bảng 4 – Khảo sát chất lượng mẫu thủy tinh lỏng có module 2,6 ở các nhiệt độ khác nhau
34
%
35
30
25
20
15
10
0
ºC
950 1000 1050 1100 1150 1200 1250
Series1
%Na2O Series2
%SiO2 %%c?n
Cặnkhông
khôngtan
tan
Hình 28 – Đồ thị hàm lượng Na2O, SiO2 và cặn không tan theo nhiệt độ
(SiO2/Na2CO3 = 1,6)
Theo đồ thị ta thấy nhiệt độ phản ứng càng lớn càng lớn thì hàm lượng SiO2 càng
lớn và hàm lượng Na2O thì ổn định, ít thay đổi. Điều này có thể được giải thích như
sau: Hàm lượng Na2O phụ thuộc vào không chỉ lượng silicate sinh ra mà còn cả lượng
soda chưa phản ứng hết, vẫn còn lại sau phản ứng. Mà tổng hàm lượng Na2O trong hai
thành phần này trước và sau phản ứng là không đổi. Cho nên dù nhiệt độ phản ứng là
bao nhiêu, hiệu suất phản ứng đạt bao nhiêu thì hàm lượng Na2O trong thủy tinh lỏng
thu được là không đổi. Hay nói cách khác, hàm lượng Na2O không phụ thuộc vào
nhiệt độ phản ứng. Nhưng hàm lượng SiO2 trong thủy tinh lỏng thì không như vậy.
Nhiệt độ phản ứng càng cao thì tốc độ phản ứng càng tăng, nên trong cùng một thời
gian phản ứng nhiệt độ phản ứng càng cao thì lượng silicate sinh ra càng nhiều. Tức là
hiệu suất phản ứng càng lớn. Vì vậy nhiệt độ phản ứng càng cao thì hàm lượng SiO2
thu được trong thủy tinh lỏng càng lớn.
Mặt khác, lượng cặn không tan thu được khi hòa tan thủy tinh vụn trong nước
nóng là cát chưa phản ứng hết. Do đó khi nhiệt độ phản ứng càng cao thì hiệu suất
35
phản ứng càng lớn, lượng cát tham gia phản ứng càng nhiều. Nên khi nhiệt độ phản
ứng tăng thì hàm lượng cặn không tan thu được trong thủy tinh tan càng ít.
Cũng vì khi nhiệt độ phản ứng tăng thì hiệu suất phản ứng tăng theo nên khi đó
module thực tế của thủy tinh lỏng thu được sẽ càng gần với lý thuyết, tức là càng gần
với tỷ lệ mol SiO2/Na2CO3 cho vào ban đầu.
n
1.8
1.6
1.4
1.2
1
0.8
0.6
0.4
0.2
0
ºC
950 1000 1050 1100 1150 1200 1250
n lýn thuy?t
lí thuyết n th?c t? tế
n thực
(SiO2/Na2CO3 = 1,6)
%
60
50
40
30
20
10
0 ºC
950 1000 1050 1100 1150 1200 1250
Series1
% Na2O Series2
%SiO2 %% Cặn
c?n khôngtan
không tan
Hình 30 – Đồ thị hàm lượng Na2O, SiO2 và cặn không tan theo nhiệt độ
(SiO2/Na2O = 2,6)
36
Với lập luận tương tự ta cũng dễ dàng giải thích được tại sao hàm lượng SiO2
tăng, hàm lượng Na2O không thay đổi và hàm lượng cặn không tan giảm khi nhiệt độ
phản ứng tăng. Vấn đề lưu ý ở đây là hàm lượng cặn không tan trong sản phẩm thủy
tinh tan thu được. Mặc dù hàm lượng cặn không tan trong sản phẩm vẫn giảm theo
nhiệt độ phản ứng nhưng nếu so với thủy tinh tan có module là 1,6 trên kia thì hàm
lượng cặn không tan trong thủy tinh tan có module là 2,6 cao hơn tại mọi nhiệt độ
phản ứng. Điều này này là do sự khó nóng chảy của cát. Cát có nhiệt độ nóng chảy cao
nên hỗn hợp phối liệu ban đầu càng nhiều cát thì càng khó phản ứng. Tức là nhiệt độ
phản ứng để tạo thành thủy tinh tan có module càng cao thì càng cao. Điều này được
thể hiện rõ hơn trong đồ thị dưới đây:
n
3
2.5
1.5
0.5
0 ºC
950 1000 1050 1100 1150 1200 1250
n lí thuyết
Series1 n thực tế
Series2
(SiO2/Na2CO3 = 2,6)
So sánh đồ thị module thực tế và lý thuyết của thủy tinh lỏng có module 1,6 và
2,6 ta thấy: ở thủy tinh lỏng có module 1,6 thì đến 1200ºC thì module của nó gần như
bằng với lý thuyết, tức là hiệu suất phản ứng đạt gần 100%; trong khi ở thủy tinh lỏng
có module là 2,6 thì đến 1200ºC module của nó cũng còn cách với lý thuyết khá xa.
Điều này chứng tỏ thủy tinh tan có module cao khó tạo thành hơn thủy tinh tan có
module thấp. Mặt khác, thủy tinh tan module cao có hàm lượng cặn không tan lớn một
phần là do nó khó bị hòa tan hơn thủy tinh tan module thấp. Tức là thủy tinh tan có
module càng lớn thì nhiệt độ phản ứng và nhiệt độ hòa tan càng cao.
37
Từ hai đồ thị module thủy tinh lỏng thực tế theo nhiệt độ của hai trường hợp trên
ta thấy: Đối với hỗn hợp phối liệu phản ứng có tỷ lệ SiO2/Na2CO3 là 1,6 thì từ nhiệt độ
1075ºC và đối với hỗn hợp phối liệu phản ứng có tỷ lệ SiO2/Na2CO3 là 2,6 thì từ nhiệt
độ 1150 ºC trở đi sản phẩm thủy tinh tan thu được của chúng có module tăng chậm
theo nhiệt độ. Nghĩa là từ những giá nhiệt độ đó trở đi, mặc dù nhiệt độ phản ứng vẫn
tăng thêm 25ºC nhưng giá trị của module thì tăng lên rất ít. Do đó để sản xuất có hiệu
quả kinh tế thì ta nên dừng lại ở nhiệt độ đó là hợp lý nhất. Vì từ nhiệt độ đó trở đi nếu
ta tăng cao nhiệt độ nữa thì chất lượng sản phẩm tăng ít nhưng chi phí năng lượng lại
tăng nhiều. Vì vậy nhiệt độ phản ứng thích hợp cho hai trường hợp này lần lượt là
1075ºC và 1150ºC.
Chất lượng thủy tinh lỏng được kiểm tra theo tiêu chuẩn 64-TCN 38-86 (xem
phụ lục).
38
Bảng 5 – Hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 trong điều kiện tỷ lệ phối liệu SiO2/Na2CO3 là 1,6 và được nung ở 1075ºC
Thời gian lưu VHCl 0,2N VHCl 0,2N thêm vào VNaOH 0,2N %Na 2O %SiO2 m1 (g) m2 (g) % cặn không tan
(phút) (ml) (ml) (ml)
Bảng 6 – Hàm lượng Na2O và hàm lượng SiO2 trong điều kiện tỷ lệ phối liệu SiO2/Na2CO3 là 2,6 và được nung ở 1150ºC
Thời gian lưu VHCl 0,2N VHCl 0,2N thêm vào VNaOH 0,2N %Na2O %SiO2 m1 (g) m2 (g) % cặn không tan
(phút) (ml) (ml) (ml)
39
%
50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
0 20 40 60 80 100 120 140
phút
Series1
%Na2O Series2
%SiO2 %%c?n
Cặnkhông
không tan
Hình 32 – Đồ thị hàm lượng Na2O, SiO2 và cặn không tan theo thời gian lưu
(SiO2/Na2CO3 = 1,6)
Theo đồ thị thì hàm lượng Na2O không đổi và hàm lượng SiO2 thì tăng theo thời
gian phản ứng. Do hàm lượng Na2O trong thủy tinh lỏng thu được phụ thuộc vào cả
vào lượng thủy tinh tan sinh ra và lượng Na2CO3 chưa phản ứng hết còn lại sau phản
ứng. Nên tổng hàm lượng Na2O là không đổi. Nói cách khác là hàm lượng Na2O trong
thủy tinh lỏng thu được chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ SiO2/Na2CO3 cho vào hỗn hợp phối
liệu ban đầu chứ không phụ thuộc vào thời gian phản ứng. Còn hàm lượng SiO2 trong
thủy tinh lỏng thì chỉ phụ thuộc vào lượng silicate sinh ra nên thời gian phản ứng càng
lâu, hiệu suất phản ứng càng lớn, lượng silicate sinh ra càng nhiều nên hàm lượng SiO2
trong sản phẩm càng lớn. Điều này còn làm cho hàm lượng cặn không tan trong sản
phẩm thủy tinh tan giảm xuống rõ rệt theo thời gian.
Mạt khác, module của thủy tinh lỏng phụ thuộc cả vào hàm lượng Na2O lẫn hàm
lượng SiO2. Nhưng hàm lượng Na2O lại không đổi nên module của thủy tinh lỏng chỉ
còn phụ thuộc vào hàm lượng SiO2. Cụ thể là module của thủy tinh lỏng thu được sẽ
tăng cùng với hàm lượng SiO2 theo thời gian phản ứng. Nhưng thời gian phản ứng
càng lâu thì độ tăng của hiệu suất phản ứng cũng như độ tăng hàm lượng SiO2 và
module thủy tinh lỏng thu được sẽ giảm xuống. Do đó, trong sản xuất để có hiệu quả
40
kinh tế thì phải chọn thời gian lưu vừa phải. Vì nếu như chọn thời gian lưu quá lâu thì
chi phí năng lượng sẽ tăng lên nhiều trong khi chất lượng sản phẩm không tăng thêm
bao nhiêu. Điều này được thể hiện rõ hơn trong đồ thị dưới đây:
n
1.65
1.60
1.55
1.50
1.45
1.40
1.35
0 20 40 60 80 100 120 140
phút
Series1
n lý thuyết n thực tế
Series2
Hình 33 – Đồ thị module thực tế thủy lỏng theo thời gian lưu
(SiO2/Na2CO3 = 1,6)
Theo đồ thị ta thấy thì từ phút 90 trở đi module của thủy tinh tan không tăng
thêm bao nhiêu. Do đó trong trường hợp này thì thời gian lưu thích hợp là 90 phút.
%
60
50
40
30
20
10
0 ºC
0 20 40 60 80 100 120 140
Series1
%Na2O Series2
%SiO2 %%c?n
Cặnkhông
không tan
tan
Hình 34 – Đồ thị hàm lượng Na2O, SiO2 và cặn không tan theo thời gian lưu
(SiO2/Na2CO3 = 2,6)
41
Tương tự cho trường hợp này, hàm lượng SiO2 và module thủy tinh tan cũng
tăng theo thời gian phản ứng. Nhưng thủy tinh tan có module càng cao thì thì tốc độ
phản ứng càng chậm. Vì theo đồ thị thì hàm lượng SiO2 có tăng nhưng khá chậm theo
thời gian phản ứng. Điều này còn được thể hiện trong đồ thị dưới đây:
%
2.65
2.6
2.55
2.5
2.45
2.4
2.35
2.3
2.25
0 20 40 60 80 100 120 140
phút
Series1
n lý thuyết n thực tế
Series2
Hình 35 – Đồ thị module thực tế thủy tinh lỏng theo thời gian lưu
(SiO2/Na2CO3 = 2,6)
Nếu như so với trường hợp module là 1,6 thì trường hợp này có độ tăng hiệu suất
phản ứng (tức là module thủy tinh tan thu được) chậm hơn. Nên nếu muốn thu được
sản phẩm có cùng chất lượng với trường hợp trên thì trường hợp này phải cần có thời
gian phản ứng lâu hơn. Vì vậy thời gian phản ứng thích hợp cho trường hợp này là 120
phút.
42
Thủy tinh lỏng module thấp: có module 1,6 được sản xuất từ soda và cát trắng
được nghiền mịn, sau khi cát và soda được cân và trộn đều với nhau để tạo thành hỗn
hợp phối liệu thích hợp thì được đem đi nung ở 1075ºC trong thời gian 90 phút. Thủy
tinh vụn thu được được đem đi hòa tan trong nước và hơi nước nóng ở áp suất 1 atm.
Thủy tinh lỏng module cao: có module 2,6 được sản xuất từ soda và cát trắng
được nghiền mịn, sau khi cát và soda được cân và trộn đều với nhau để tạo thành hỗn
hợp phối liệu thích hợp thì được đem đi nung ở 1150ºC trong thời gian 120 phút. Thủy
tinh vụn thu được được đem đi hòa tan trong nước và hơi nước nóng ở áp suất 1 atm.
Mặt khác, vì điều kiện phản ứng cho loại thủy tinh tan có module càng cao thì
càng khắc nghiệt, hay nói cách khác là nhiệt độ phản ứng càng cao và cần thời gian
phản ứng càng lâu. Điều kiện hòa tan thủy tinh tan vào nước cũng như vậy. Nên cần
phải khảo sát cụ thể nhiệt độ phản ứng, thời gian phản ứng và nhiệt độ hòa tan cho
từng loại thủy tinh lỏng.
43
(1) Hoàng Nhâm (2002), Hóa học vô cơ, tập 2, trang 47-48 và 134-141.
44
PHỤ LỤC
Hình ảnh các mẫu thủy tinh vụn thu được sau khi khảo sát thủy tinh lỏng theo tỷ
lệ mol hỗn hợp phối liệu SiO2/Na2CO3, nung ở nhiệt độ 1150ºC và thời gian lưu là 120
phút:
45
46
Hình ảnh các mẫu thủy tinh vụn thu được khi khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
lên chất lượng thủy tinh lỏng cho tỷ lệ mol hỗn hợp phối liệu SiO2/Na2CO3 = 1,6 và
thời gian lưu là 120 phút:
47
Hình ảnh các mẫu thủy tinh vụn thu được khi khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
lên chất lượng thủy tinh lỏng cho tỷ lệ mol hỗn hợp phối liệu SiO2/Na2CO3 = 2,6 và
thời gian lưu là 120 phút:
48
49
Hình ảnh các mẫu thủy tinh vụn thu được khi khảo sát ảnh hưởng của thời gian
phản ứng lên chất lượng thủy tinh lỏng cho tỷ lệ mol hỗn hợp phối liệu SiO2/Na2CO3
là 2,6 và nhiệt độ phản ứng là 1150ºC:
Hình 69 – Thời gian phản ứng 30 phút Hình 70 – Thời gian phản ứng 60 phút
Hình ảnh các mẫu thủy tinh vụn thu được khi khảo sát ảnh hưởng của thời gian
phản ứng lên chất lượng thủy tinh lỏng cho tỷ lệ mol hỗn hợp phối liệu SiO2/Na2CO3
là 1,6 và nhiệt độ phản ứng là 1075ºC:
Hình 72 – Thời gian phản ứng 30 phút Hình 73 – Thời gian phản ứng 60 phút
50
51
SODIUM SILICATE
Tiêu chuẩn này áp dụng cho sodium silicate dạng lỏng sản xuất từ xút và cát
thạch anh, dùng để sản xuất xà phòng, kem giặt, bột giặt tổng hợp và các mục đích
khác.
Các chỉ tiêu lý hoá và ngoại quan của sodium silicate dạng lỏng phải phù hợp với
các quy định sau:
1. Trạng thái bên ngoài Chất lỏng đồng nhất, sánh, trong suốt
cho phép có mầu trắng đục hoặc ngà
vàng
52
2.1.1 Nước dùng khi phân tích, nếu không có chỉ dẫn nào thêm thì phải dùng
nước cất phù hợp với TCVN 2117-77.
2.1.2 Các thuốc thử dùng khi tiến hành thử nếu không có quy định thêm thì phải
dùng loại tinh khiết phân tích.
2.2.1 Lô hàng là sodium silicate dạng lỏng, do cùng một nhà máy sản xuất, có
cùng các chỉ tiêu chất lượng, nhưng không quá 10 tấn.
2.2.2 Nếu sodium silicate dạng lỏng được chứa vào các bể, thùng, xi-téc thì lấy
mẫu ở các điểm khác nhau về cả chiều sâu và bề mặt. Số điểm lấy mẫu ít nhất là ba,
lượng mẫu lấy ở mỗi điểm không nhỏ hơn 500 g.
Nếu sodium silicate dạng lỏng chứa ở các thùng phuy, thùng nhựa thì lấy mẫu ở
10% đơn vị chứa của lô hàng. Nếu số đơn vị chứa nhỏ hơn 10 thì lấy mẫu, ít nhất ở ba
đơn vị chứa. Mỗi đơn vị chứa lấy mẫu trung bình không nhỏ hơn 500 g.
2.2.3 Mẫu trung bình được chia thành hai phần, một nửa tiến hành xác định các
chỉ tiêu quy định trong điều I, phần còn lại chứa vào lọ nhựa có nắp, lưu mẫu ba tháng
để khi cần thiết phân tích trọng tài.
Lấy khoảng 10 g mẫu cho vào cốc thủy tinh dung tích 250 ml và quan sát trực
tiếp bằng mắt. Nếu là chất lỏng đồng nhất, sánh, trong suốt, ngà vàng hoặc trắng đục là
sản phẩm đạt yêu cầu.
Mẫu lấy về được thuần hoá đến nhiệt độ phòng rồi cho vào ống đong hình trụ
dung tích 250 ml đã được sấy khô. Loại bỏ các bọt khí tạo thành trong sodium silicate
và giữ ống đong ở vị trí thẳng đứng, nhẹ nhàng thả tỷ trọng kế vào và cẩn thận loại bỏ
các bọt khí nếu có. Để tỷ trọng kế đứng yên và quan sát ở vị trí nằm ngang mặt thoáng
của chất lỏng để ghi nhận vạch khắc của tỷ trọng kế tiếp xúc với mức chất lỏng. Song
53
song với việc xác định tỷ trọng dùng nhiệt kế để xác định nhiệt độ của dung dịch. Tỷ
trọng của sodium silicate ở 20ºC được tính theo công thức:
Trong đó:
Cốc cân sứ
Chỉ thị bromthymol xanh, dung dịch 0,1% trong ethanol 20%.
Cân khoảng 3-5 g mẫu với độ chính xác 0,0002 g trong cốc cân sứ, dùng 100 ml
nước nóng, hoà tan mẫu rồi chuyển hết sang bình định mức 250 ml, trong cốc cân
bằng nước ít nhất ba lần. Thêm nước đến vạch mức, lắc đều. Hút 50 ml mẫu vừa chuẩn
bị cho vào cốc nhựa, thêm 3-5 giọt chỉ thị bromthymol xanh. Tiến hành chuẩn độ bằng
dung dịch acid chlohydric 0,5N cho đến khi màu chuyển từ xanh sang vàng. Trong quá
tình chuẩn độ cần khuấy liên tục bằng que khuấy nhựa. Dung dịch sau khi chuẩn độ
giữ lại để xác định hàm lượng SiO2.
54
Trong đó:
V : lượng HCl 0,5N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ, tính bằng ml.
0,0155 : lượng Na2O tương ứng với 1ml HCl, tính bằng g.
2.6.1 Xác định hàm lượng silicon dioxide bằng phương pháp khối lượng (phương
pháp trọng tài)
Lò nung 1000ºC
Cân 2 g mẫu với độ chính xác 0,0002 g trong cốc cân sứ dung tích 50 ml. Thêm
từ từ 10 ml acid chlohydric HCl (d = 1,19 g/ml) khuấy đều và để yên hỗn hợp 10 phút.
Chuyển hết mẫu sang bát sứ dung tích 250 ml, tráng cốc cân ít nhất 3 lần bằng nước,
pha loãng hỗn hợp bằng nước tới thể tích 100 ml. Gia nhiệt trên nồi đun cách thủy,
khuấy đều; đun sôi trong 10 phút để kết tủa acid silicic. Lấy ra làm nguội đến nhiệt độ
phòng rồi lọc qua giấy lọc định lượng không tro. Rửa kết tủa nhiều lần bằng axit
clohiđric HCl 1%; sau đó rửa bằng nước nóng cho đến khi hết Cl¯ (kiểm tra nước rửa
bằng dung dịch AgNO3 1% đến khi không xuất hiện tủa trắng là được).
Chuyển kết tủa và giấy lọc vào cốc nung bằng sứ, đã được nung trước ở nhiệt độ
900-1000ºC tới khối lượng không đổi, gia nhiệt cốc nung trên bếp điện 1000W cho
cháy giấy lọc, sau đó đưa vào lò nung, gia nhiệt tới 900-1000ºC rồi duy trì một giờ
55
(mẫu đạt yêu cầu khi trong cốc tro không còn màu đen). Mẫu lấy ra làm nguội trong
bình hút ẩm tới nhiệt độ phòng rồi cân. Lặp lại đến khi mẫu đạt tới khối lượng không
đổi.
Hàm lượng SiO2 trong mẫu tính bằng %, theo công thức:
m 2 m1
X2 100
m
Trong đó:
2.6.2 Xác định hàm lượng SiO2 bằng phương pháp thể tích.
Chỉ thị bromthymol xanh, dung dịch 0,1% trong ethanol 20%.
Thêm vào cốc nhựa chứa dung dịch sau khi xác định Na2O (trong mục 2.5.2) 4 g
KF, lắc nhẹ cho tan hết. Lúc này dung dịch có màu xanh trở lại. Thêm tiếp 50ml acid
chlohydric HCl 0,5N và 20 g KCl, khuấy đều đến khi tan hết thì để yên hỗn hợp
khoảng 30 phút. Sau khi thêm HCl, dung dịch phải có màu vàng. Dùng NaOH 0,5N
chuẩn độ lượng HCl dư, khi dung dịch chuyển màu từ vàng sang xanh thì kết thúc
chuẩn độ.
56
Hàm lượng silicon dioxide SiO2 chứa trong mẫu (X3), tính bằng %, theo công
thức:
X3
V1 V2 0,0075 250 100
m 50
3,75 (V1 V2 )
m
Trong đó:
V1: lượng HCl 0,5N thêm vào (=50), tính bằng ml.
V2: lượng NaOH 0,5N tiêu tốn khi chuẩn lượng HCl dư, tính bằng ml.
0,0075: lượng SiO2 tương ứng với 1ml HCl 0,5N, tính bằng g.
Module silicon M (hoặc hiệu suất silicon) được tính theo biểu thức:
CSiO 2
M 1,0323
C Na 2 O
Trong đó:
M Na 2 O
K 1,0323
M SiO 2
Trong đó:
57
2.8.1 Dụng cụ
Cân 20 g mẫu với độ chính xác 0,0002 g trong chén cân sứ, dùng 100 ml nước
nóng hoà tan và chuyển hết mẫu sang cốc thuỷ tinh 500 ml, thêm 200 ml nước nóng,
khuấy đều rồi lọc nhanh qua chén lọc xốp G4 (đã được sấy ở nhiệt độ 105-110ºC tới
khối lượng không đổi), rửa sạch cặn trên chén lọc xốp bằng nước nóng. Đưa chén lọc
xốp vào tủ sấy, sấy ở nhiệt độ 105-110ºC tới khối lượng không đổi (khoảng 1-2 giờ).
Lấy chén ra làm nguội trong bình hút ẩm đến nhiệt độ phòng và cân với độ chính xác
0,0002 g.
Hàm lượng cặn không tan trong nước (X4) tính bằng % theo công thức:
m 2 m1
X4 100
m
Trong đó:
m2: khối lượng chén lọc xốp G4 và cặn không tan trong nước, tính bằng g.
3.1 Sodium silicate dạng lỏng được chứa vào các thùng phuy bằng tôn có thể tích
100, 200 lít hoặc các thùng nhựa có thể tích tương tự, có nút chặt. Ngoài ra có thể
dùng téc sắt để chứa, song khối lượng không vượt quá khối lượng lô hàng.
Trường hợp đặc biệt, bao bì do hai bên người sản xuất và người tiêu thụ thõa
thuận, nhưng phải bảo đảm chất lượng sản phẩm.
58
3.2 Sản phẩm xuất xưởng phải có phiếu chứng nhận chất lượng trong đó có ghi:
3.3 Sodium silicate dạng lỏng được vận chuyển bằng các phương tiện giao thông
thường dùng, yêu cầu phải che đậy cẩn thận tránh nắng mưa.
3.4 Sodium silicate dạng lỏng bảo quản trong các thùng phuy, thùng nhựa, bể
chứa sạch và yêu cầu phải có nút, nắp hoặc mái che để tránh nắng, mưa.
59
Trường Đại học Cần Thơ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khoa Công nghệ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bộ môn Công nghệ Hóa học --------------
Cần Thơ, ngày 05 tháng 01 năm 2012
1. Tên đề tài thực hiện: Điều chế sodium silicate từ soda và cát.
Sodium silicate hòa tan (hay còn gọi là thủy tinh lỏng là một loại chất lỏng chứa
thủy tinh hòa tan và có tính chất của một chất lỏng) được sử dụng rất phổ biến trong
thực tế. Chúng được sử dụng làm chất bít kín, chất gắn, chất chống kết bông, chất tạo
nhũ và chất đệm. Đặc biệt là trong các nghành công nghiệp giấy và bột giấy, nghành
công nghiệp chất tẩy rửa. Do đó việc sản xuất thủy tinh lỏng là một trong những yêu
cầu vô cùng cấp bách và thiết thực.
Ngày nay, thủy tinh lỏng được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến và trải qua hai
giai đoạn: đầu tiên là sản xuất sodium silicate hòa tan từ cát và soda, giai đoạn hai là
hòa tan sodium silicate hòa tan thu được trong nước siêu nóng 100-150°C (1-5 atm).
Khảo sát các yếu tố như nhiệt độ, tỷ lệ mol SiO2/Na2O, thời gian lưu,… Ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm như thế nào trong quá trình điều chế Na2SiO3. Từ đó
đưa ra các điều kiện tối ưu để ứng dụng sản xuất trong thực tế.
Địa điểm: Phòng thí nghiệm Hóa vô cơ – CNHH, bộ môn Công nghệ hóa, khoa
Công nghệ, trường Đại học Cần Thơ.
60
61
Tiến hành nung hỗn hợp soda và cát với các tỷ lệ mol khác nhau, nhiệt độ nung
khác nhau, thời gian nung khác nhau,… Lấy sản phẩm thu được đem đi kiểm tra hàm
lượng SiO2, hàm luợng Na2O, pH của dung dịch khi hòa tan sản phẩm trong nước,
lượng chất không tan còn lẫn trong sản phẩm.
Tuần 3-6 (16/01/2012-12/02/2012): Khảo sát ảnh huởng của tỷ lệ mol SiO2/Na2O
lên chất luợng sản phẩm.
Tuần 7-10 (13/02/2012-11/03/2012): Khảo sát ảnh huởng của nhiệt độ lên quá
trình điều chế sodium silicate.
Tuần 11-15 (12/03/2012-15/04/2012): Khảo sát ảnh huởng của thời gian lưu và
các yếu tố khác lên quá trình điều chế sodium silicate.
62