You are on page 1of 12

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KỲ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HÌNH THỨC THI TLOTT


HCM

Học phần: NHẬP MÔN LUẬT HỌC


25.1 22C2LAW51104101
Khóa: _____________________Mã lớp HP: _________________________
Luật kinh tế
Chuyên ngành: ______________
Thời hạn nộp bài: _________________
Hồ Quốc Dũng
Họ tên SV: _______
33221020230
Mã số SV: _______________
LK01
Lớp: ___________
Nhóm: 2___________

Đề tài tiểu luận:


Nghiên cứu tình huống pháp lý BẢN ÁN 56/2021/HS-ST NGÀY 09/09/2021
của TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

i
MỤC LỤC


I. Tóm tắt tình huống cần phân tích 1


II. Xác định những vấn đề đề pháp lý cần nghiên cứu giải quyết 3
III Xác định quy định của pháp luật có liên quan áp dụng cho việc giải
quyết tình huống 3
IV Cách thức giải quyết tình huống 7
V Kiến nghị của tác giả đối với vấn đề pháp lý mà mình nghiên cứu 8

ii
I Tóm tắt tình huống cần phân tích
B, sinh năm 1979, có vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1982
A, sinh năm 1970, có vợ PhA Thị H, sinh năm 1973
T , sinh năm 1969, có chồng T2, sinh năm 1971
Nguyễn Hữu V, có vợ C, sinh năm 1975
Ông H1, sinh năm 1978
Ông V3, sinh năm 1972
Ông V4, sinh năm 1967
Nội dung tình huống pháp lý
B, V, A, T cùng V3, V4, H1 có quen biết lẫn nhau
Thửa đất số 17, tờ bản đồ số 06, có diện tích 68.933 m2, tọa lạc tại xã M, huyện
D, tỉnh B Dương (gọi tắt là thửa đất số 17) do 4 người V,C, V3, V4 góp tiền
nhận để mua quyền sử dụng đất chung và đồng ý để V đứng tên với tư cách chủ
sỡ hữu. Sau đó, ông V4 giao cho ông H1 làm người môi giới, tìm khách hàng để
mua lại thửa đất này.
B, A và T có ý định góp tiền để nhận chuyển nhượng đất và giao cho B phụ
trách tìm nguồn đất, Tháng 4/2019, qua tìm hiểu thông tin thị trường thì B biết
thông tin ông H1 đang rao bán thửa đất số 17. B đã trao đổi với ông H1 và hai
bên thỏa thuận, đồng ý giá chuyển nhượng của thửa đất trên là 17.230.000.000
đồng. Khi B đồng ý mua lô đất, ông H1 đã điện thoại và báo V4 đến ký hợp
đồng và nhận tiền đặt cọc, nhưng ông V4 đề nghị ông H1 đại diện ký hợp đồng
và nhận tiền cọc thay ông V4. Ông H1 cũng đã thông báo cho B biết thửa đất
trên là của ông V4, ông H1 chỉ có vai trò là người môi giới.
Ngày 19/4/2019, ông H1 ký Hợp đồng đặt cọc với B về việc sang nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 17 với giá chuyển
nhượng là 17.230.000.000 đồng, hợp đồng được B và ông H1 ký tên, lăn tay xác
nhận. B đã đưa ông H1 số tiền 800.000.000 đồng để đặt cọc. Đến ngày
22/4/2019, B tiếp tục thanh toán cho ông H1 số tiền 1.200.000.000 đồng. Sau khi
nhận tiền, ông H1 đã đưa toàn bộ số tiền 2.000.000.000 đồng đã nhận cho ông

1
V4. Tiếp theo ngày 16/5/2019, B đến nhà ông V4 để thanh toán số tiền
6.600.000.000 đồng, việc giao nhận tiền được ghi nhận thành Hợp đồng nhận
tiền đặt cọc đất lần 2.
Ngày 07/6/2019, vợ chồng V và C cùng với A, T và B ký hợp đồng chuyển
nhượng. A, T đồng ý đề B đứng tên và làm các thủ tục liên quan để hoàn thiện
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. B đã bàn bạc với V và C là do
bên mua chịu trách nhiệm nộp các loại thuế, lệ phí trước bạ nên đề nghị giảm số
tiền chuyển nhượng trên hợp đồng xuống để giảm nhẹ tiền thuế, lệ phí trước bạ
phải nộp cho Nhà nước, V và C đồng ý. Sau khi bàn bạc, hai bên nhất trị chọn
giá trị chuyển nhượng trên hợp đồng là 700.000.000 đồng. Khi ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, V, C, A và T đều được đọc lại nội dung hợp
đồng. Tiếp đó, B đã thanh toán nốt số tiền còn lại là 8.630.000.000 đồng cho V,C
Tháng 4/2019, V, C nghe ông V4 nói có người đồng ý mua thửa đất số 17 với
giá trị chuyển nhượng là 15.165.000.000 đồng nên V và C đã đồng ý chuyển
nhượng với mức giá nêu trên. Tại thời điểm giao kết hợp đồng chuyển nhượng,
V và C biết giá chuyển nhượng thực tế của thửa đất số 17 là 17.230.000.000
đồng nhưng do đã đồng ý chuyển nhượng thửa đất số 17 với mức giá là
15.165.000.000 đồng trước đó nên không phản đối hay có thêm bất cứ ý kiến,
yêu cầu nào và vẫn đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
B thông báo cho A và T biết là có người nhận chuyển nhượng thửa đất số 17 với
mức giá là 17.230.000.000 đồng và đã được sự đồng ý của A lẫn T. Số tiền
chênh lệch 2.065.000.000 đồng từ việc nhận chuyển nhượng thửa đất số 17 là do
B tự ý nâng giá chuyển nhượng lên 17.230.000.000 đồng nhằm để hưởng lợi giá
trị chênh lệch 2.065.000.000 đồng
Bộ phận một cửa huyện Dầu Tiếng - Chi cục thuế Bến Cát xác định giá chuyển
nhượng để làm căn cứ tính thuế là 4.365.640.000 đồng. A và T đã nộp đủ các
khoản thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ theo mức giá này với tổng sổ tiền là
109.141.000 đồng vào ngày 01/07/2019. B đã được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 20/07/2019

2
20/5/2021 Cơ quan thuế tỉnh Bình Dương xác định thuế thu nhập cá nhân mà
bên mua phải nộp theo căn cứ mức giá 15.165.000.000 đồng là 303.300.000
đồng. Ngày 28/5/2021, B đã tự nguyện nộp số tiền 257.287.200 đồng vào tài
khoản của Cơ quan điều tra mở tại Kho bạc nhà nước tỉnh Bình Dương để khắc
phục hoàn toàn hậu quả.
II Xác định những vấn đề đề pháp lý cần nghiên cứu giải quyết
Ông T, A, B và vợ chồng V,C đã bàn bạc và đồng ý kê khai giá trị của lô đất từ
15.165.000.000 xuống 700.000.000 đồng
Ông B thông báo với A, T giá trị mua lô đất là 17.230.000.000 nhưng thực tế chỉ
có 15.165.000.000
III Xác định quy định của pháp luật có liên quan áp dụng cho việc
giải quyết tình huống
Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Khoản 1 điều 200,
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây trốn thuế với số
tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới
100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy
định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202,
250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng
đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm
đ) Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số
tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn

Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

3
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc
phục hậu quả;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải

Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
một tội phạm.

2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người
xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực
hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
vượt quá của người thực hành

4
Điều 35. Phạt tiền
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp
sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm
khác do Bộ luật này quy định.
2. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người
phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật
này quy định.
3. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người
phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn
1.000.000 đồng.
4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy
định tại Điều 77 của Bộ luật này.

Điều 47. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm

1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy
được áp dụng đối với:

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy
mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

Điều 58.

5
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải
xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm
tội của từng người đồng phạm.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự
thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó . 1

Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về


thuế, hóa đơn.
Điều 17. Xử phạt hành vi trốn thuế
1. Phạt tiền 1 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế có từ một tình
tiết giảm nhẹ trở lên khi thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau
đây:
đ) Sử dụng chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp chứng
từ; sử dụng chứng từ, tài liệu không phản ánh đúng bản chất giao dịch
hoặc giá trị giao dịch thực tế để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số
tiền thuế được miễn, giảm, số tiền thuế được hoàn; lập thủ tục, hồ sơ
hủy vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp
hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm;
2. Phạt tiền 1,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện
một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này mà không có tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
3. Phạt tiền 2 lần số thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện một
trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này mà có một tình tiết
tăng nặng.

1
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung nám 2017

6
4. Phạt tiền 2,5 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện
một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có hai tình tiết
tăng nặng.
5. Phạt tiền 3 lần số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế thực hiện
một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này có từ ba tình tiết
tăng nặng trở lên.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp đủ số tiền thuế trốn vào ngân sách nhà nước đối với các
hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2,3,4,5 điều này.2

Điều 124, Bộ luật dân sự 2015

1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che
giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu,
còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có
liên quan.

2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.3

IV Cách thức giải quyết tình huống

Trong trường hợp này, B, T và A biết rõ ràng việc mình kê khai giá trị chuyển
nhượng làm căn cứ tính các loại thuế thấp hơn giá trị thực tế và số tiền trốn thuế
là 215.987.200. 2 bị cáo A va T có vai trò giúp sức tích cực cho B thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật trốn thuế nên A và T bị xem là đồng phạm với B. Nên 3

2
Nghị định 125/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn
3
Bộ luật dân sự 2015

7
người phải bị xử phạt theo khoản 1 điều 200, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 nhưng mức hình phạt cao nhất của tội này chỉ là 1 năm ( tội
phạm ít nghiêm trọng) và B cũng đã tự nguyện giao nộp số tiền hưởng lợi bất
chính nên có thể chỉ cần áp dụng hình phạt tiền với B, T và A mà không áp dụng
hình phạt bổ sung là hình phạt tù có thời hạn
Ông B kiếm lợi nhuận từ việc kê khống giá trị căn nhà từ 15.165.000.000 đồng
lên thành 17.230.000.000. Qua đó ông B phải đóng số tiền thuế thu nhập cá nhân
phát sinh là 41.300.000 đồng. Vì số tiền trốn thuế dưới 100 triệu đồng và ông B
chưa bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế nên ông B sẽ bị xử phạt theo
khoản 17 nghị định 125/2020 NĐ-CP
257.287.200 đồng là số tiền thu lợi bất chính nên phải bị tịch thu, sung công quỹ
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi nhận giá trị chuyển nhượng
700.000.000 đồng giữa vợ chồng V,C và ông T là 1 hợp đồng giả tạo nhằm che
giấu hợp đồng thực tế với giá chuyển nhượng là 15.165.000.000. Việc làm này
giúp ông V,C và T trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước tức là một bên thứ
3 xủa giao dịch dân sự này . Vậy theo khoản 2 điều 127, Bộ luật dân sự 2015,
Hợp đồng này phải bị tuyên bố là vô hiệu nhưng trong thực tế khi đưa ra bản án
thì tòa án các cấp hầu như không tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất khi kê khai hai giá là vô hiệu. Ngay cả trong chính bản án này, Tòa Án
chỉ đưa ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính chứ không hề tuyên bố
hợp đồng này là vô hiệu
V Kiến nghị của tác giả đối với vấn đề pháp lý mà mình nghiên
cứu
Hành bi kê khai hai giá trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiện nay rất
phổ biến và càng ngày càng phức tạp, các thủ đoạn trốn thuế càng ngày càng
tinh vi. Hành vi vi phạm phát luật này dẫn tới rất nhiều hệ lụy cho xã hội và
cộng đồng, đồng thời làm ngân sách nhà nước thất thoát một số lượng tiền thuế
lớn. Các cơ quan nhà nước cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau và ban hành
những biện pháp đồng bộ, đồng thời cần phải tuyên truyền để người dân khi

8
tham gia các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ phải thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ của mình để tránh những rủi ro pháp lý liên quan.

You might also like