Professional Documents
Culture Documents
mục 1,2 - tố tụng cạnh tranh
mục 1,2 - tố tụng cạnh tranh
1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh (Khoản 8 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018)
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động điều tra, xử lí vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại
quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật cạnh tranh
2. Những đặc trưng cơ bản của tố tụng cạnh tranh
Tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết vụ việc cạnh tranh
Khác với các loại tố tụng khác, tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết vụ việc
cạnh tranh
Theo Khoản 9 Điều 3 Luật cạnh tranh 2018, vụ việc cạnh tranh là vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật về cạnh tranh bị điều tra, xử lí theo quy định của Luật cạnh tranh, bao
gồm vụ việc hạn chế cạnh tranh, vụ việc vi phạm quy định về tập trung kinh tế và vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh.
Tố tụng cạnh tranh được áp dụng đối với những vụ việc đáp ứng hai điều kiện cần và đủ
sau:
- Một là vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh là điều kiện cần để xem xét một vụ
việc có được coi là vụ việc cạnh tranh hay không. Các vụ việc không có dấu hiệu vi
phạm pháp luật cạnh tranh bị loại trừ khỏi nội hàm của khái niệm tố tụng cạnh tranh.
Tiêu chí " có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh" là tiền đề để loại bỏ một số hoạt
động của cơ quan quản lí nhà nước về cạnh tranh ra khỏi nội hàm của tố tụng cạnh
tranh, như hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét và quyết định
cho hưởng miễn trừ đối với các hành vi thảo thuận hạn chế cạnh tranh, các hoạt động
điều tra để xác định thị trường liên quan, xác định thị phần,...
- Hai là bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lí theo quy định của Luật
cạnh tranh
Cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lí theo quy định của pháp luật là các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội
đồng xử lí vụ việc hạn chế cạnh tranh, Hội đồng giải quyết khiếu nại xử lí vụ việc
cạnh tranh và cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Các cơ quan này khi tiến hành tố
tụng cạnh tranh được thực hiện bởi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh tranh,
bao gồm: Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng xử lí vụ việc hạn
chế cạnh tranh, thành viên Hội đồng xử lí vụ việc hạn chế cạnh tranh, thành viên Hội
đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh.
Như vậy, vụ việc tuy có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng không được cơ
quan có thẩm quyền điều tra, xử lí theo quy định của pháp luật cũng không thuộc vụ việc
cạnh tranh. Một vụ việc khi hội đủ cả hai điều kiện nêu trên (có dấu hiệu vi phạm pháp
luật cạnh tranh và bị cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lí theo Luật cạnh tranh và bị cơ
quan có thẩm quyền điều tra, xử lí theo Luật cạnh tranh) mới được coi là vụ việc cạnh
tranh và mới được giải quyết theo tố tụng cạnh tranh.
Tố tụng cạnh tranh áp dụng cho các loại hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có
bản chất không giống nhau, đó là hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đặc điểm này thể hiện sự khác biệt của tố tụng cạnh tranh ở Việt nam so với tố tụng cạnh
tranh của nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới quy định
tách bạch hoạt động tố tụng liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh được giải
quyết theo phương thức tố tụng tòa án.
Tố tụng cạnh tranh được tiến hành bởi các cơ quan hành pháp.
3. Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng cạnh tranh
Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng cạnh tranh là những tổ chức, cá nhân có quyền và
nghĩa vụ tiến hành hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, bao gồm:
cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh và người tham
gia tố tụng cạnh tranh.
4. Nguyên tắc tố tụng cạnh tranh (điều 54 Luật cạnh tranh 2018)
Hoạt động tố tụng cạnh tranh của cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố
tụng cạnh tranh, người tham gia tố tụng cạnh tranh và của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan phải tuân theo quy định tại Luật cạnh tranh
Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tham gia
tố tụng cạnh tranh, trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, phải giữ
bí mật về thông tin liên quan tới vụ việc cạnh tranh, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật.
Tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan
trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
5. Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh (điều 55 Luật cạnh tranh
2018)
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng cạnh tranh là tiếng Việt
Người tham gia tố tụng cạnh tranh có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình,
trong trường hợp này phải có người phiên dịch
6. Chứng cứ
a) Khái niệm: (điều 56 Luật cạnh tranh 2018)
Chứng cứ là những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
vi phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh
b) Thuộc tính của chứng cứ:
Chứng cứ trong cạnh tranh phải đảm bảo các thuộc tính vốn có gồm: tính khách quan,
tính liên quan, tính hợp pháp
- Tính khách quan: Chứng cứ được dùng là những tài liệu, sự kiện có thật, phản ánh
trung thực những tình tiết của vụ việc cạnh tranh, không bị xuyên tạc, bóp méo
theo ý chí chủ quan của con người. Tính khách quan đòi hỏi bản thân các nguồn
thông tin này phải có thật, không phụ thuộc vào khả năng con người có nhận biết
chúng hay không. Những thông tin, tài liệu làm chứng cứ tồn tại khách quan trước
khi có cuộc điều tra mà không phải là mới được tạo ra một cách giả tạo nhằm phục
vụ cho một mục đích nào đó. Những chứng cứ này cũng phải đảm bảo tính chất
gốc mà không thể làm lại hay mô phỏng lại, những gì là suy đoán, tưởng tượng,
không có thật thì không phải là chứng cứ.
- Tính liên quan: Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được tòa dựa vào để giải
quyết vụ việc cạnh tranh. Nó đòi hỏi những thông tin, tài liệu làm chứng cứ phải
có mối liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vụ việc cạnh tranh, là cơ sở để xác
định sự tồn tại hay không tồn tại của những vấn đề cần chứng minh, là yếu tố cần
thiết đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc cạnh tranh.
Ví dụ: Lời khai của người làm chứng rằng vào thời điểm tội phạm xảy ra, người bị
tạm giữ có mặt tại nơi xảy ra tội phạm. Mặc dù người làm chứng không thấy được
việc người bị tạm giữ có thực hiện hành vi phạm tội hay không nhưng lời khai đó
của họ cũng giúp cho cơ quan điều tra trong việc xác lập phương án điều tra, lời
khai đó cũng có thể dùng để bác bỏ lời khai của người bị tạm giữ về tình trạng
ngoại phạm của mình.
- Tính hợp pháp: Đòi hỏi những thông tin, tài liệu làm chứng cứ phải được thu thập,
kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật cạnh tranh, tức là phải được
thu thập một cách hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, các
chủ thể chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ.
Đối với những gì không được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không
được thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật
thì không được coi là chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ việc cạnh
tranh.
Ví dụ: Lời khai của người tham gia tố tụng được thể hiện trong các bản tự khai,
biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung hoặc biên bản phiên toà. Mặc dù Bộ Luật
Tố tụng hình sự 2015 có quy định khi hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất bắt
buộc hoặc có thể ghi âm, ghi hình có âm nhưng điều đó chủ yếu là để giám sát
hoạt động tố tụng. Các bản ghi âm, ghi hình có được coi là biên bản (tức nguồn
chứng cứ) hay không đang được bàn luận tiếp.
Trong quá trình điều tra xử lý các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền như cơ quan cạnh
tranh, hội đồng cạnh tranh, hội đồng xử lý, các điều tra viên và thành viên hội đồng xử lý
có nghĩa vụ phải xem xét, đánh giá các thuộc tính của chứng cứ để quyết định việc sử
dụng chứng cứ.
c) Nguốn gốc của chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh:
Theo Khoản 2, Điều 56 Luật cạnh tranh 2018 và Điều 76, Nghị định 116/2005/NĐ-CP
hướng dẫn Luật Cạnh tranh, chứng cứ được xác định từ các nguồn gồm: vật chứng; lời
khai của người làm chứng và giải trình của các tổ chức, cá nhân liên quan; các tài liệu
hoặc biên bản, kết luận giám định.
- Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện vi phạm, tiền và những vật
khác có giá trị chứng minh cho hành vi vi phạm. Vật chứng dùng làm chứng cứ
phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
- Lời khai của người làm chứng, giải trình của tổ chức, cá nhân liên quan được coi
là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình,
đĩa ghi hình và các thiết bị ghi âm, ghi hình khác kèm theo văn bản xác nhận về sự
việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó, hoặc khai bằng lời tại phiên điều trần.
- Tài liệu gốc, bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài liệu gốc được công chứng, chứng
thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận được
coi là chứng cứ nếu là tài liệu đọc được nội dung.
- Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
d) Vai trò của chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh
Trong thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định thông qua hoạt động chứng
minh được toà án và tất cả người tham gia tố tụng thực hiện và tuân thủ. Những thông tin,
chứng cứ thu thập được là căn cứ đầy đủ nhất giúp quá trình tố tụng cạnh tranh phản bác
một phần hay toàn bộ quan điểm của bên đối lập, khẳng định quan điểm của mình nhằm
bảo vệ quyền lợi của thân chủ. Đó có thể là điều kiện chứng minh bị can vô tội hoặc
chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ
sơ thể hiện.
Chứng cứ là cơ sở duy nhất, là phương tiện duy nhất để chứng minh trong tố tụng cạnh
tranh. Khi giải quyết tố tụng cạnh tranh, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng,
cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội
đang được tiến hành xem xét, cần phải khẳng định được rằng tội đã xảy ra, xác định được
người cụ thể đã thực hiện tội và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. Tất cả
các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm được
điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng cứ. Thông qua chứng cứ, kiểm sát
viên thực hành quyền công tố trước toà án đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn người
bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
- Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ
sở của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ được
những vấn đề cần chứng minh trong tố tụng cạnh tranh
- Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng,
kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng
có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp
của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan.
- Quá trình chứng minh thực chất và nói chung là quá trình giải quyết chứng cứ,
mọi giai đoạn của tố tụng hình sự đều được mở ra và kết thúc từ vấn đề chứng cứ,
xuất phát từ chứng cứ.
7. Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong giải quyết vụ việc cạnh tranh (điều 57 Luật
canh tranh 2018)
Cơ quan, người có thẩm quyền, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ quá trình điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh theo yêu
cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử
lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác và
kịp thời các thông tin, tài liệu đang quản lý, nắm giữ liên quan đến vụ việc cạnh tranh
theo yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội
đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.