You are on page 1of 38

HỌC VIỆN TÒA ÁN

KHOA ĐÀO TẠO THẨM PHÁN




Đề tài:
KỸ NĂNG THU THẬP VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

Họ tên học viên: Hoàng Thị Thu Hường


Mã học viên: G32
Lớp : G khóa 4 - Đào tạo nghiệp vụ xét xử

Hà Nội, tháng 11 năm 2017


LỜI MỞ ĐẦU
Hiến pháp năm 2013 đã quy định vấn đề tranh tụng trong xét xử thành
một nguyên tắc “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Một trong
những đổi mới thủ tục tố tụng dân sự để hoạt động xét xử của Tòa án được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao, đưa vị thế của Tòa án trở thành trung tâm của
hệ thống tư pháp, là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, đồng thời có
nhiệm vụ kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước là đổi mới thủ tục tố tụng
dân sự theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, trên tinh thần cải cách tư
pháp để hoạt động tư pháp mà trọng tâm là xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; tạo điều kiện
cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, Tòa án hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong các trường hợp đưng
sự không thể tự mình thu thập hoặc khi xét thấy cần thiết…. Đây là vấn đề với
nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ
của các thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng khác giải quyết
đúng đắn và triệt để những vụ việc dân sự trên thực tế, đáp ứng lòng tin của
nhân dân đối với pháp luật nói chung và Tòa án nói riêng.
Hoạt động giải quyết các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có
sự tranh chấp về quan hệ nội dung giữa các bên có quyền lợi ích đối lập nhau và
các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau.
Chính sự bình đẳng về địa vị pháp lý của các chủ thể dẫn đến một quy tắc chung
cho cả hai bên đương sự là: người nào đề ra một yêu cầu đối với người khác thì
cần phải có chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình. Hoạt động thu thập
chứng cứ và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự thể hiện xuyên suốt trong
quá trình giải quyết vụ án và là vấn đề cốt lõi của nguyên tắc tranh tụng. Các
đương sự thực hiện quá trình tranh tụng ngay từ quá trình nộp đơn khởi kiện và
gửi đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ kèm theo cho các đương sự khác, là cơ sở
cho đương sự khác phản bác lại ý kiến của mình. Tòa án chỉ có thể giải quyết
đúng vụ án dân sự khi có đầy đủ các chứng cứ và các sự kiện, tình tiết của vụ án
đã được làm sáng tỏ. Chính vì vậy, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
1
được quy định là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng dân sự,
đặt cơ sở nền tảng cho quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thu thập và
đánh giá chứng cứ tại các Tòa án đã đảm bảo đúng các quy định của pháp luật,
đảm bảo giải quyết nhanh chóng các vụ án dân sự đang có xu hướng ngày càng
gia tăng trong xã hội, đảm bảo thấu tình đạt lý nhằm giữ gìn khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn còn khá nhiều vướng mắc, sai sót
trong quá trình áp dụng các quy định này. Phần vì nguyên nhân khách quan từ
phía các quy định của pháp luật còn nhiều vấn đề chưa quy định rõ, nhất là chế
tài đối với các đương sự, các cơ quan, tổ chức không thực hiện nghĩa vụ cung
cấp, giao nộp chứng cứ; phần vì nguyên nhân chủ quan từ phía các Thẩm phán
còn lúng túng trong việc xác định các chứng cứ cần thiết phải thu thập để giải
quyết vụ án nên thu thập còn thiếu những chứng cứ quan trọng, kỹ năng đánh
giá chứng cứ còn hạn chế nên đánh giá chứng cứ chưa đảm bảo khách quan,
toàn diện. Điều đó dẫn đến các vụ án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan trong thời gian
qua chủ yếu là án dân sự.
Với mục đích phân tích thực tiễn kỹ năng thu thập và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự, tìm ra các vấn đề vướng mắc, sai sót trong thực tiễn áp
dụng pháp luật và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết các vụ án dân sự trong Tòa án nhân dân, tác giả chọn đề tài: “Kỹ năng thu
thập và đánh giá chứng cứ trong việc giải quyết vụ án dân sự” làm tiểu luận
cho khóa học. Bố cục của tiểu luận gồm 03 phần:
Phần 1: Lời nói đầu.
Phần 2: Phần nội dung gồm có 02 mục:
- I: Một số vấn đề lý luận về chứng cứ và thu thập, đánh giá chứng cứ
trong giải quyết vụ án dân sự
- II: Thực tiễn áp dụng các quy định về kỹ năng thu thập và đánh giá chứng
cứ trong việc giải quyết vụ án dân sự
Phần 3: Kết luận và kiến nghị.

2
PHẦN NỘI DUNG

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU THẬP, ĐÁNH


GIÁ CHỨNG CỨ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Khái niệm về chứng cứ và việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự
1.1. Chứng cứ
Điều 93 BLTTDS năm 2015 quy định: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là
những gì có thật được đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao
nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm
căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu
cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Trên cơ sở kế thừa BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, Bộ
BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định các tài liệu sau đây được coi là
chứng cứ của vụ việc dân sự:
“1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc
bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình
kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ
tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người
xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu
âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu
điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương
tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ
nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình,
3
thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc
khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm
định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng
cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật
quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại
chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý
được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công
chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo
điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.”.
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.”.
1.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp, đưa vào
hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân
4
sự. Nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là hoạt động tiếp theo của quá trình cung
cấp, thu thập chứng cứ và nằm trong quá trình chứng minh. Nghiên cứu chứng
cứ là một chuỗi hoạt động của quá trình nhận thức được chủ thể chứng minh tiến
hành thông qua việc xem xét, tìm hiểu chứng cứ trong hồ sơ vụ việc dân sự cũng
như tại phiên tòa để chấp nhận hoặc không chấp nhận các tình tiết, sự kiện được
xem xét, xác định là chứng cứ của vụ việc. Mục đích của hoạt động nghiên cứu
chứng cứ là xác định giá trị chứng minh của chứng cứ để làm tiền đề cho việc
đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự. Hoạt
động nghiên cứu chứng cứ được thực hiện trong suốt quá trình chứng minh,
trong từng giai đoạn tố tụng. Thuật ngữ “đánh giá” trong Đại từ điển tiếng Việt
được giải thích là “nhận xét, bình phẩm về giá trị”. Nếu như nghiên cứu chứng
cứ là việc trực tiếp thụ cảm, xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ nhằm nhìn
nhận chứng cứ để bước đầu xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ, thì
đánh giá chứng cứ là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ và tính
hiệu quả của chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ. Để xác định được giá trị
chứng minh của chứng cứ thì Tòa án phải đánh giá chứng cứ. Việc đánh giá
chứng cứ được Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ việc tiến hành trước
phiên tòa và các thành viên của Hội đồng xét xử tiến hành tại phiên tòa. Có thể
nói đánh giá chứng là một quá trình tư duy logic, là hoạt động suy luận dựa trên
cơ sở nhận thức và tri thức của người đánh giá về đối tượng đánh giá. Như vậy,
đánh giá chứng cứ của Tòa án là hoạt động tư duy logic của Thẩm phán và các
thành viên của Hội đồng xét xử tiến hành trên cơ sở những hiểu biết về những
tình tiết, sự kiện đã thu thập được, dựa trên cơ sở các quy định pháp luật và niềm
tin nội tâm để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng
như tất cả các chứng cứ trong vụ việc dân sự nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ
việc dân sự một cách khách quan toàn diện.
2. Các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
Về nguyên tắc, khi tham gia tố tụng các đương sự phải có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, do
vậy các đương sự phải thu thập các chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, Tòa án có
5
trách nhiệm xem xét các tình tiết của vụ án, căn cứ vào quy định của pháp luật
để giải quyết yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên khi xét thấy các tài liệu chứng cứ
do các đương sự cung cấp không đủ cơ sở giải quyết hoặc các đương sự không
thể cung cấp được các chứng cứ mà có yêu cầu thì theo quy định của BLTTDS
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Sau khi có các chứng cứ, thì Tòa án phải
tiến hành các hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ để giải quyết đúng
đắn vụ án dân sự.
Trên cơ sở các vấn đề cần chứng minh và các chứng cứ chứng minh mà
các bên đương sự đã nộp cho Tòa án, Thẩm phán cần xác định các chứng cứ cần
thu thập bổ sung để làm rõ các vấn đề có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án mà
đương sự không thể cung cấp và yêu cầu Tòa án hỗ trợ thu thập. Các biện pháp
thu thập chứng cứ mà Tòa án tiến hành được quy định tại khoản 2 điều 97
BLTTDS 2015 như sau: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án
có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng
cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm
chứng;
c) Trưng cầu giám định;
d) Định giá tài sản;
đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân
sự;
h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.
3. Đặc điểm hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS
3.1 Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS là hoạt động
mang tính quyền lực Nhà nước
6
Tính quyền lực Nhà nước của hoạt động này thể hiện ở chỗ các biện pháp
thu thập chứng cứ của Tòa án tiến hành có tính ràng buộc trách nhiệm với các
chủ thể liên quan. Chẳng hạn như đương sự, người làm chứng có nghĩa vụ phải
có mặt theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án; cơ quan hữu quan phải phối hợp
với Tòa án trong việc tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, cử người tham gia
Hội đồng định giá; Tòa án nhận được ủy thác có ữách nhiệm thực hiện công việc
ủy thác thu thập chứng cứ trong thời hạn luật định...
Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt với hoạt động thu thập chứng cứ của
các chủ thể tố tụng khác như đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Bời vì, hoạt động thu thập chứng cứ của chủ thể trên nhằm thu
thập các chứng cứ cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu tố tụng của
mình hay phản bác yêu cầu tố tụng của đối phương. Các hoạt động thu thập
chứng cứ này không mang tính quyền lực Nhà nước như hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án.
3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự do
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hoặc Hội đồng xét xử tiến hành
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS do Thẩm phán giải
quyết vụ việc hoặc do Hội đồng xét xử vụ án tiến hành là dấu hiệu để khẳng
định quyền năng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong việc thu thập chứng cứ
đối với các vụ việc dân sự. Thẩm phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ
việc hoặc thành viên Hội đồng xét xử là người nắm rõ nội dung vụ việc nhất, là
những người chịu trách nhiệm về kết quả của việc giải quyết vụ việc. Chánh án,
Phó Chánh án không có vai trò trong việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ
việc. Thư ký Tòa án cũng không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ là người
giúp việc, hỗ trợ cho Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong một số hoạt động thu
thập chứng cứ khi được Thẩm phán, Hội đồng xét xử phân công.
Theo quy định của BLTTDS, trong thời hạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm
phán là người trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ án dân sự, có quyền áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97 BLTTDS.
3.3 Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm hỗ trợ đương sự trong
7
việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh và bảo đảm cho việc
giải quyết vụ án dân sự được chính xác, khách quan
Khi tham gia tố tụng, các đương sự có nghĩa vụ chứng minh, do vậy họ
phải thu thập chứng cứ giao nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Một
trong các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong TTDS là nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự. Vì vậy, đương sự phải tiến hành
thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng
minh trước tiên thuộc về đương sự, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ
mang tính hỗ trợ cho đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của
Tòa án.
Không phải vụ việc dân sự nào Tòa án cũng tiến hành các hoạt động thu
thập chứng cứ như nhau mà tùy thuộc vào yêu cầu của từng vụ việc, Tòa án sẽ
tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ cần thiết, phù hợp. Trong nhiều vụ
việc khả năng bảo vệ của đương sự yếu, chứng cứ đương sự không tự thu thập
được..., nếu đợi chứng cứ do đương sự giao nộp, cung cấp thì vụ việc sẽ bị kéo
dài mà không có hướng giải quyết, dẫn đến tình trạng án quá hạn luật định, án bị
hủy hoặc sửa. Trong trường họp này Tòa án sẽ tiến hành thu thập chứng cứ theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trên cơ sở yêu cầu của đương sự hoặc khi
xét thấy cần thiết để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự.
3.4 Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phải được tiến hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Thông tin về vụ việc dân sự phải đảm bảo tính hợp pháp mới được sử
dụng làm căn cứ giải quyết vụ kiện. Theo đó, những thông tin về vụ việc phải
được Tòa án thu thập từ các nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định. Đặc điểm này nhằm bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ,
tránh sự lạm quyền hay tùy tiện của Tòa án, ngăn ngừa các hành vi gây tổn hại
đến quyền lợi của đương sự.
Các sự kiện, tình tiết để trở thành chứng cứ trong vụ việc dân sự có giá trị
chứng minh cho yêu cầu hay phản yêu cầu của các bên thì cần phải được thu
thập, bảo quản, củng cố, nghiên cứu và đánh giá theo một thủ tục do luật định.
8
Trình tự này nhằm bảo đảm giá trị của chứng cứ, buộc Tòa án tiến hành tố tụng
một cách thận trọng, chặt chẽ; vừa đảm bảo độ tin cậy và tính khách quan của
các chứng cứ do Tòa án thu thập và sử dụng, từ đó các phán quyết của Tòa án có
được sức thuyết phục cao, thể hiện tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Chứng cứ sẽ mất giá trị nếu trong quá trình thu thập có sự vi phạm quy định của
pháp luật.
Bên cạnh quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ và chứng minh của đương sự, thì pháp luật TTDS cũng quy định trình
tự, thủ tục khi Tòa án tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo
chứng cứ có giá trị pháp lý làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự.
Như vậy hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS là hoạt động
mang tính quyền lực Nhà nước do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử tiến hành
tập hợp, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm hỗ trợ đương sự trong việc
thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân
sự được chính xác, khách quan, đúng thời hạn luật định. Việc quy định hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS trên cơ sở xuất phát từ nhiệm
vụ quyền hạn của Tòa án trong TTDS, phải phù hợp với đặc điểm truyền thống
tố tụng, đồng thời phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan công quyền, bên cạnh đó phải xuất phát từ việc
bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và phải bảo đảm tính trung thực,
khách quan, vô tư.
4. Ý nghĩa của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự
Đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án: Trong thực tiễn
việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án thì tỷ lệ số vụ việc dân sự được
giải quyết dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh của các đương sự là rất ít,
phần lớn các vụ việc dân sự được giải quyết đều do Tòa án chủ động, tích cực
xác minh thu thập chứng cứ, việc pháp luật TTDS quy định cho Tòa án có quyền
áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
9
thẩm khi thỏa mãn những điều kiện nhất định sẽ có tác dụng to lớn trong việc
xây dựng hồ sơ vụ việc, củng cố các chứng cứ quan trọng của vụ việc dân sự
phải giải quyết, Tòa án sẽ có thêm cơ sở, căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc,
công tác xét xử của Tòa án thông qua đó được khách quan chính xác và triệt để
hơn. Đương sự khi tham gia tố tụng dân sự xuất phát từ quyền, lợi ích của mình
vì thế chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp sẽ thiên lệch về phía mình hơn.
Tòa án với vị trí là người đứng ra phân xử vụ việc cần phải có cái nhìn khách
quan, toàn diện về vụ việc cần phải giải quyết, ngoài ra đối với những vụ việc
đặc thù như chia tài sản là đất đai, nếu Tòa án chỉ căn cứ và lời khai của đương
sự và các giấy tờ cũng như sơ đồ mà các đương sự cung cấp để chia thì bản án,
quyết định của Tòa án có thể không phù hợp với thực địa và sẽ không thể thi
hành án được.
Đối với với việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự: Để tạo
điều kiện thuận lợi cho các đương sự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình
trước Tòa án thì việc pháp luật quy định các đương sự có quyền yêu cầu Toà án
hỗ trợ thu thập chứng cứ khi đương sự tự mình không thể thực hiện được là rất
càn thiết. Hiện nay BLTTDS quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự
là một nguyên tắc trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên BLTTS chưa quy định tạo ra
được cơ chế để các bên đương sự có thể làm tốt nghĩa vụ chứng minh của mình,
đặc biệt là những khó khăn đương sự gặp phải trong quá trình thu thập chứng
cứ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các đương sự trước Tòa án. Vì vậy, sự hỗ trợ của Tòa án đối với các đương sự
thu thập chứng cứ trong một số trường hợp sẽ có tác dụng giúp các đương sự
thực hiện được nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Đối với xã hội: Tòa án là một cơ quan trung tâm trong hệ thống các cơ
quan tư pháp có chức năng xét xử để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội và
tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho các quan hệ pháp luật nội dung phát
triển. Việc Tòa án trợ giúp đương sự thu thập chứng cứ thể hiện chức năng xã
10
hội của nhà nước nhằm duy trì sự ổn định xã hội, thiết lập nên những thiết chế
để xã hội được vận hành một cách có trật tự.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỸ NĂNG THU THẬP
VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm phán
Việc thu thập chứng cứ của Tòa án thông qua hoạt động thu thập chứng cứ
của Thẩm phán và hoạt động này xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án và giới hạn
bởi yêu cầu của đương sự. Khi thực hiện các hoạt động tố tụng để thu thập chứng cứ,
Thẩm phán phải nắm vững các thuộc tính của chứng cứ, đồng thời xác định chính
xác yêu cầu của đương sự (yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của
bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), quan hệ pháp
luật phát sinh tranh chấp trong vụ án, những vấn đề cần phải chứng minh, các chứng
cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án và các chứng cứ đang được lưu giữ ở đâu,
nghĩa vụ chứng minh của đương sự, quy phạm pháp luật nội dung, từ đó áp dụng các
biện pháp phù hợp để thu thập chứng cứ.
Xây dựng hồ sơ vụ án là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Thẩm phán trong
quá trình giải quyết vụ án. Khi lập hồ sơ vụ án, Thẩm phán có nhiệm vụ: thông báo
thụ lý vụ án; yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; thực hiện những
biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 97 BLTTDS năm
2015. Theo đó, Thẩm phán được tiến hành các hoạt động tố tụng sau đây để thu
thập chứng cứ:
1.1. Thông báo về việc thụ lý vụ án; yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
Sau khi được phân công giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành nghiên cứu hồ
sơ khởi kiện và tiến hành hoạt động tố tụng đầu tiên là thông báo về việc thụ lý vụ
án theo quy định tại Điều 196 BLTTDS năm 2015. Trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án,
Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Đối với vụ án do người tiêu
dùng khởi kiện thì Tòa án phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về
việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong
11
nội dung thông báo thụ lý vụ án có nêu thời hạn người được thông báo phải có ý
kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, nếu có (khoản 2 Điều 196 BLTTDS năm 2015).
BLTTDS năm 2015 không có quy định thông báo yêu cầu phản tố của bị đơn
và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Song, để bảo đảm
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trong TTDS cũng như tính công khai, minh bạch trong việc giải quyết vụ án và để
tiến hành thu thập chứng cứ thì Thẩm phán, sau khi đã chấp nhận xem xét yêu cầu
phản tố của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (thụ
lý yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập), phải thực hiện việc thông báo các yêu cầu đó
cho nguyên đơn, bị đơn biết để các đương sự này thực hiện việc cung cấp chứng cứ
cho Tòa án (có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan và nộp cho Tòa án tài liệu,
chứng cứ kèm theo). Thời hạn, mẫu thông báo yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập có
thể áp dụng tương tự thời hạn, mẫu thông báo thụ lý vụ án.
Như vậy, thông qua việc thực hiện hành vi thông báo thụ lý vụ án, thông báo
yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập với việc yêu cầu các đương sự cung cấp chứng cứ,
Thẩm phán đã bước đầu thực hiện việc thu thập chứng cứ.
1.2. Xác định các tài liệu, chứng cứ làm rõ vấn đề về tố tụng và các tài
liệu, chứng cứ giải quyết nội dung vụ án
a. Các tài liệu để xác định các vấn đề về tố tụng
+ Tư cách đương sự và người tham gia tố tụng: Các tài liệu để chứng minh tư
cách chủ thể của đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp.
+ Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án: Các tài liệu để xác định chính xác
quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên? Những giấy tờ, tài liệu nhằm xác nhận
căn cứ pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ mà các bên đang tranh chấp như
hợp đồng, phụ lục hợp đồng, biên bản thanh lý; tài liệu xác định địa chỉ của bị đơn?
+ Xác định thời hiệu khởi kiện: Tài liệu, chứng cứ nào xác định thời hạn phải
thực hiện nghĩa vụ, nội dung cụ thể?
12
+ Nêu những đặc thù về chứng cứ trong vụ án dân sự để xác định các vấn đề tố
tụng?
+ Nêu những đặc thù về chứng cứ trong vụ án kinh doanh - thương mại để xác
định các vấn đề tố tụng?
+ Nêu những đặc thù về chứng cứ trong vụ án lao động để xác định các vấn đề tố
tụng?
+ Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xác định các vấn đề tố tụng
đã đầy đủ chưa? Có phải yêu cầu đương sự xuất trình bổ sung không?
b. Chứng cứ để giải quyết vụ án về mặt nội dung
- Xác định yêu cầu của đương sự.
+ Nguyên đơn: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn căn cứ vào nội dung đơn
khởi kiện và yêu cầu bổ sung (nếu có).
+ Bị đơn: Yêu cầu của bị đơn căn cứ vào đơn phản tố (nếu có) hoặc ý kiến
phản bác.
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có): Yêu cầu của người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan căn cứ vào yêu cầu độc lập của họ.
- Xác định các vấn đề cần chứng minh, nghĩa vụ chứng minh của đương sự và
các chứng cứ để chứng minh.
- Xác định những vấn đề cần chứng minh trong vụ tranh chấp.
+ Đối với nguyên đơn: Những vấn đề nguyên đơn phải chứng minh; Chứng
cứ mà nguyên đơn xuất trình để chứng minh cho những yêu cầu của mình; Chứng
cứ nguyên đơn cung cấp có ý nghĩa cho việc chứng minh (giá trị của chứng cứ);
Theo hồ sơ vụ án, chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp đã đầy đủ chưa?
+ Đối với bị đơn: Những vấn đề bị đơn phải chứng minh; Những tài liệu,
chứng cứ bị đơn đã xuất trình được; Những chứng cứ bị đơn cung cấp có ý nghĩa
cho việc chứng minh theo yêu cầu của mình; Theo hồ sơ vụ án, chứng cứ mà bị
đơn cung cấp đã đầy đủ chưa?
+ Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (nếu có): Tương tự như đối
với nguyên đơn và bị đơn.

13
1.3. Hướng dẫn đương sự cung cấp bổ sung chứng cứ để thực hiện nghĩa
vụ chứng minh của mình.
Theo hồ sơ vụ án, xác định các tài liệu, chứng cứ cần thu thập bổ sung để
hoàn chỉnh hồ sơ vụ án để từ đó, yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc để phản đối yêu cầu của đưng sự khác là
có căn cứ và hợp pháp.
Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài
liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự
khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của BLTTDS năm
2015 hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn
bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.
Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo
thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của
BLTTDS. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp,
giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không
giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc
chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án
không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể
biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có
quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự
hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
1.4. Thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của
BLTTDS
Về nguyên tắc, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án có trách nhiệm xem xét mọi tình tiết
của vụ án, căn cứ vào pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương sự. Điều 97
BLTTDS năm 2015 quy định: Trong trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ việc chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp
14
bổ sung tài liệu, chứng cứ, trong trường hợp do BLTTDS quy định, Thẩm phán có
thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ...Do đó, để
đảm bảo có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm
bảo quyền và các lợi ích hợp pháp của đương sự, Thẩm phán cần cân nhắc để tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ, cụ thể như sau:
1.4.1. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng
Các đương sự là những người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với vụ án,
họ là người trực tiếp liên quan và biết rõ các tình tiết trong vụ việc. Vì vậy, việc
lấy lời khai của các đương sự có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm
sáng tỏ nội dung vụ án, yêu cầu của các đương sự. Về nguyên tắc, đương sự phải
tự viết bản khai và ký tên vào bản tự khai. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai
của đương sự khi đương sự không thể tự viết được bản tự khai hoặc nội dung
bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng.
Việc lấy lời khai của đương sự cần tập trung làm rõ nội dung sự việc, yêu
cầu của của đương sự và các căn cứ chứng minh cho yêu cầu của đương sự, tập
trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Trước khi lấy
lời khai của đương sự, Thẩm phán phải nắm chắc các tình tiết có ý nghĩa quan
trọng của vụ án, các quy định của pháp luật nội dung cần áp dụng giải quyết vụ
án, các vấn đề cần làm rõ, đặc biệt là các vấn đề còn mâu thuẫn trong Bản khai
của đương sự và giữa bản khai của các đương sự. Khi lấy lời khai của đương sự
cần lưu ý hỏi lại, làm sáng tỏ những nội dung chưa rõ ràng, hoặc có sự mâu thuẩn,
dùng chứng cứ vật chất để đối chứng (ví dụ như sổ ghi chép, nội dung hợp
đồng…).
Thủ tục lấy lời khai phải tuân theo đúng các quy định tại Điều 98, Điều 99
và Điều 100 BLTTDS năm 2015 và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND
tối cao tại các Điều 6,7,8 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP.
Về địa điểm lấy lời khai, Tòa án phải tiến hành lấy khai của đương sự tại
trụ sở Tòa án. Trong những trường hợp vì lý do khách quan, chính đáng như
đương sự đang bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù, ốm đau, đương sự không có
mặt tại Tòa án...Tòa án không thể lấy lời khai của đựơng sự tại trụ sở thì Thẩm
15
phán, Thư ký Tòa án có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở. Theo quy
định, việc lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án phải đảm bảo có người
làm chứng hoặc xác nhận của UBND, công an xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ
chức đang quản lý người lấy lời khai. Trong trường hợp lấy lời khai của đương
sự chưa đủ 18 tuổi hoặc người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải có mặt người đại diện hợp
pháp của họ và người đại diện hợp pháp phải ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào
biên bản lấy lời khai.
Việc lấy lời khai của đương sự phải do Thẩm phán tiến hành; Thư ký Toà án
chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Khi ghi biên
bản lấy lời khai của đương sự, Tòa án phải thể hiện rõ ngày, giờ, tháng, năm ghi
biên bản, địa điểm lấy lời khai, người tiến hành lấy lời khai, họ tên, tuổi, địa chỉ
nghề nghiệp của người được lấy lời khai. Biên bản phải ghi đầy đủ chính xác nội
dung khai báo. Nếu là những lời khai quan trọng phải ghi đúng cả lời văn của
người khai. Mỗi chữ, mỗi câu thêm vào hoặc bỏ đi trong biên bản phải được
người lấy lời khai và người khai xác nhận, những dòng trống phải gạch đi; biên
bản lấy lời khai được người khai tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe, đương sự có
quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai; chữ viết
trong biên bản phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết tắt. Biên bản lấy lời khai
phải được người khai ký tên xác nhận, nếu người khai không biết chữ thì cho họ
điểm chỉ xác nhận và có người chứng kiến, trường hợp người khai không ký thì
yêu cầu họ phải ghi rõ lý do vì sao không ký. Nếu đã giải thích họ vẫn không ký,
không ghi lý do vì sao không ký thì Thẩm phán yêu cầu mời người làm chứng
đến xác nhận sự việc và ký tên vào biên bản.
Khác với đương sự, người làm chứng không có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gì trong vụ án nhưng họ là người biết những tình tiết có liên quan đến vụ
án. Lời khai của người làm chứng chứa đựng nhiều chứng cứ về những tình tiết
cần chứng minh nhằm giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy
vậy, lời khai của người làm chứng cũng có thể bị sai lệch và không phù hợp với
sự thật khách quan như trong trường hợp người làm chứng bị mua chuộc, dụ dỗ,
16
đe dọa, cố tình khai báo sai sự thật hoặc không nhớ kỹ đúng sự việc đã chứng
kiến. Trong các trường hợp đó, lời khai của nhân chứng không mang tính khách
quan và lời khai đó phải được đánh giá cùng với các chứng cứ khác trong vụ án.
Về phương pháp, thủ tục lấy lời khai của người làm chứng và cách ghi
biên bản lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như đối với lấy lời
khai của đương sự theo Điều 98 BLTTDS. Ngoài ra có một số điểm chú ý khi
ghi biên bản: Nếu người làm chứng là thân thích, gần gũi với đương sự như cha,
mẹ, vợ, con...thì trong biên bản cũng phải ghi rõ quan hệ đó. Trước khi lấy lời
khai, Thẩm phải giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và yêu
cầu người làm chứng cam đoan khai báo trung thực, cam đoan chịu trách nhiệm
về lời khai của mình. Nội dung cảm đoan phải được ghi vào biên bản.
Việc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được Tòa án áp dụng phổ
biến nhất trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, giúp Tòa án nắm bắt một cách
nhanh nhất nội dung vụ án, có được chứng cứ sinh động, thực tế của vụ kiện. Tuy
nhiên, trên thực tế nhiều khi hoạt động này chưa mang lại hiệu quả chứng minh
như mong muốn, vì pháp luật TTDS không quy định hậu quả hay chế tài của việc
người được lấy lời khai nhưng khai không đúng sự thật, hay từ chối khai khi có
yêu cầu của Tòa án. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều vụ án bị kéo
dài khi không lấy được lời khai của đương sự hay của người làm chứng.
1.4.2. Biện pháp Đối chất
Đối chất trong TTDS được hiểu một cách đơn giản là hai bên trực tiếp gặp
nhau, trình bày và chất vấn nhau về những vấn đề mà hai bên trước đó có lời
khai mâu thuẫn, khác biệt nhau. Tuy nhiên, việc đối chất có được tiến hành hay
không là do Tòa án (Thẩm phán) quyết định thực hiện và nội dung đối chất phải
được lập thành văn bản gọi là “Biên bản đối chất”. Trên thực tế, không phải khi
nào có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự thì Tòa án cũng chủ động
tiến hành đối chất. Do vậy, các bên cần hiểu về quy định trên, và có thể áp dụng
như một “vũ khí” để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt
nhất. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai
của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các
17
đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng, hoặc giữa những người
làm chứng với nhau theo thứ tự hợp lý. Tùy từng trường họp cụ thể mà tiến hành
đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người trình bày về các vấn đề cần đối
chất theo thứ tự. Cách ghi biên bản đối chất về cơ bản được thực hiện như đối
với trường họp ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, người làm chứng.
BLTTDS không quy định hoặc không có hướng dẫn cụ thể về địa điểm
tiến hành đối chất. Nhưng trên thực tế, đối chất chỉ được thực hiện tại trụ sở Tòa
án, vì đương sự trong các vụ án dân sự thường có những mâu thuẫn, tranh chấp
rất căng thẳng, đôi khi họ chỉ gặp mặt nhau, hay ngồi lại với nhau tại Tòa án mà
không chịu đến bất cứ địa điểm nào, đồng thời cũng phần nào tạo sự thuận tiện
cho Tòa án khi giải quyết vụ án. Nhưng cũng có trường hợp đối chất được Tòa
án thực hiện tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn hay chính nơi làm việc của
đương sự. Vậy, việc đối chất thực hiện ngoài trụ sở Tòa án cần có điều kiện gì
để đảm bảo tính khách quan, song vấn đề này pháp luật còn bỏ ngỏ chưa có quy
định rõ ràng, dẫn đến mỗi nơi áp dụng khác nhau.
1.4.3. Biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ
Những vụ án mà đối tượng tranh chấp là bất động sản, vật không thể di
chuyển hoặc trường hợp Thẩm phán cần nắm vững hiện trường xảy ra sự việc tranh
chấp nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được chính xác và bảo đảm
khả năng thi hành án. Do đó, nếu đương sự có yêu cầu xem xét, thầm định tại chỗ
và xét thấy cần thiết thì Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.
Khi tiến hành biện pháp xem xét, thẳm định tại chỗ, Thẩm phán phải ra
quyết định và phải gửi cho UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối
tượng cần xem xét, thầm định kèm theo văn bản đề nghị UBND hoặc cơ quan,
tổ chức cử đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Nhưng thành phần,
số lượng người của UBND cấp xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức tham
gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ pháp luật lại chưa quy định cụ thể nên ở mỗi
địa phương, thậm chí trong cùng một địa phương hay trong từng vụ án khác
nhau lại có sự tham gia khác nhau của các cá nhân, cơ quan này. Trên thực tể
khi có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ UBND cấp xã thường cử một lãnh
18
đạo, cán bộ địa chính, một cán bộ tài chính, công an viên thậm chí có nơi cử cán
bộ tư pháp tham gia xem xét, thẩm định tại chỗ. Chính vì pháp luật không quy
định thành phần, số lượng người của UBND, cơ quan, tổ chức tham gia xem xét,
thẩm định tại chỗ nên nhiều trường hợp việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải
hoãn khi vắng một trong những người đã được cử tham gia, gây lãng phí về tài
chính cho đương sự khi phải chi phí xem xét, thẩm định cho nhiều người không
cần thiết và kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Vào ngày, giờ đã định trong quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu
chưa có đại diện của UBND hoặc cơ quan, tổ chức thì Thẩm phán phải liên hệ
để họ có mặt. Trong trường hợp vắng mặt đại diện của UBND hoặc cơ quan, tổ
chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định, Thẩm phán phải hoãn việc xem
xét thẩm định tại chỗ. Quyết định xem xét, thẳm định tại chỗ phải được giao
hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
Tuy nhiên, nếu đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm định tại chỗ vẫn được
tiến hành theo thủ tục chung. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi
thành biên bản, Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi biên bản xem xét,
thẩm định tại chỗ. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ
hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ
của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức
nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được mời tham
gia việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên bản, Tòa án phải yêu cầu đại
diện UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm
định ký tên và đóng dấu xác nhận.
BLTTDS quy định trường hợp có đương sự vắng mặt Tòa án vẫn tiến hành
xem xét, thẩm định tại chỗ theo thủ tục chung. Vậy Tòa án có phải thông báo kết
quả xem xét, thẩm định tại chỗ cho đương sự vắng mặt biết hay không, vì có
những tài sản họ là người biết rõ về sự hình thành, giá trị của nó, đồng thời họ
có quyền được biết những tài sản đang có tranh chấp mà Tòa án tiến hành xem
xét, thẩm định tại chỗ có đúng và đầy đủ hay không, có quyền khiếu nại đối với
biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án đã tiến hành. Do pháp luật không quy
19
định cụ thể nên các Thẩm phán có những cách thực hiện khác nhau đối với
trường hợp đương sự vắng mặt tại buổi xem xét, thẩm định tại chỗ. Có Thẩm
phán thông báo bằng văn bản kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ cho đương sự
hoặc triệu tập đương sự đến Tòa án để trực tiếp đọc biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ, nhưng cũng có Thẩm phán lại không thông báo hoặc không cho đương
sự xem kết quả xem xét, thẩm định.
Trong trường họp có người cản trở việc tiến hành xem xét, thẩm định tại
chỗ thì Thẩm phán yêu cầu đại diện của UBND hoặc cơ quan, tổ chức có biện
pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ.
Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư
pháp thuộc công an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp theo
quy định tại thông tư số 15/2003/TT-BCA ngày 10/9/2003 của Bộ công an
hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư
pháp thuộc Công an nhân dân. Thẩm phán phải lập biên bản về việc đương sự
cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ và lưu vào hồ sơ vụ án, đồng thời phải
được gửi cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi
chống người thi hành công vụ của đương sự.
Thủ tục tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ cũng như vấn đề xử lý hành
vi cản trở của đương sự khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đã được
TANDTC hướng dẫn tương đối cụ thể trong Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP.
BLTTDS đã quy định nghĩa vụ nộp tiền và nghĩa vụ chịu chi phí tiến hành xem
xét, thẩm định tại chỗ tại Điều 156 và Điều 157 BLTTDS. Đây là điểm mới của
BLTTDS năm 2015 qua đó giải quyết những khó khăn của Tòa án trong việc
tiên hành xem xét biện pháp thu thập chứng cứ này, đặc biệt các tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất và tài sản thì biện pháp này thường được thẩm phán
áp dụng.
1.4.4. Biện pháp trưng cầu giám định
Trong trường hợp việc đánh giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức
chuyên môn như xác định chữ viết, chữ ký, vân tay của một người nào đó hay
cần xác định nguyên nhân gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN... và theo
20
sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc có yêu cầu của đương sự về
việc trưng cầu giám định, Tòa án cần phải trưng cầu giám định khoa học để làm
căn cứ giải quyết vụ án. Biện pháp trưng cầu giám được quy định tại Điều 90
BLTTDS và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP, theo
đó bỉện pháp thu thập chứng cứ này chỉ được Tòa án thực hiện khi có sự thỏa
thuận lựa chọn của các đương sự hoặc có yêu cầu của một hoặc các bên đương
sự mà pháp luật không dành sự chủ động áp dụng biện pháp này cho Tòa án. Để
thực hiện biện pháp trưng cầu giám định theo yêu cầu của đương sự thì Tòa án
phải yêu cầu đương sự thể hiện sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu bằng văn
bản, có thể làm bằng văn bản riêng, ghi trong bản khai, hoặc trong biên bản ghi
lời khai, biên bản đối chất. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cho
thấy phần lớn các vụ án có nhiều người tham gia tố tụng và có trường hợp có
đương sự có biểu hiện mắc bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm hạn chế,
mất năng lực hành vi dân sự thì cần thiết phải thực hiện giám định thẩm thần để
Tòa án có căn cứ cử người đại diện cho đương sự đổ và giải quyết vụ án đảm
bảo đúng quy định của pháp luật. Nhưng trong trường hợp này các đương sự còn
lại không thỏa thuận lựa chọn hoặc không yêu cầu giám định thì Tòa án không
có căn cứ yêu cầu giám định và vụ án bị kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì
điều đó có nghĩa là chứng cứ đó đang bị nghi ngờ về tính xác thực. Muốn khẳng
định chắc chắn thì phải giám định chứng cứ mới, xác định được chứng cứ giả
mạo hay xác thực. Xuất phát từ tính chất của các quan hệ dân sự, các bên có
quyền quyết định và tự định đoạt trong quá trình giải quyết vụ việc, kể cả việc
cung cấp chứng cứ cho Tòa án, BLTTDS đã quy định cho phép đương sự đưa ra
chứng cứ bị tố cáo là giả mạo được rút lại chứng cứ đó nhằm đảm bảo cho việc
giải quyết nhanh chóng vụ án mà không cần phải giám định tránh gây lãng phí
về thời gian và tiền bạc. Nếu đương sự không rút lại chứng cứ đó thì người tố
cáo có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định đối với chứng cứ đỏ để xác
minh về tính hợp pháp của chứng cứ. Trong trường hợp việc giả mạo chứng cứ
21
có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án sẽ chuyển cho cơ quan điều tra hình sự có thẩm
quyền xem xét về trách nhiệm hình sự đối với người cung cấp đó, và người đưa
ra chứng cứ giả mạo có nghĩa vụ bổi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ
đó gây thiệt hại cho người khác.
1.4.5. Biện pháp định giá, thẩm định giá tài sản
Định giá tài sản là một biện pháp thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tòa án có thể tiến hành định giá tài sản
khi có yêu cầu của đương sự hoặc chủ động tiến hành mà không cần có yêu cầu
của đương sự. Điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS quy định Tòa án chủ động ra
quyết định định giá tài sản tranh chấp trong trường họp “các bên thỏa thuận với
nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhàm trốn tránh nghĩa vụ
với Nhà nước”. Hội đồng định giá tài sản (HDĐGTS) do Toà án quyết định
thành lập, gồm Chủ tịch Hội đồng là cơ quan tài chính và các thành viên là các
cơ quan chuyên môn có liên quan. Về trình tự thủ tục để thành lập HĐĐGTS đã
được BLTTDS quy định đầy đủ tại điều 104 BLTTDS, trước khi thành lập Hội
đồng định giá Tòa án có công văn gửi cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên
môn đề nghị cử cán bộ tham gia HĐĐGTS. Trong công văn cần nêu rõ tài sản
cần định giá, yêu cầu cụ thể đối với Chủ tịch và uỷ viên HĐĐGTS, thời hạn cơ
quan chuyên môn có công văn trả lời cho Tòa án biết việc cử người tham gia
HĐĐGTS. Sau khi nhận được công văn trả lời của các cơ quan chuyên môn về
việc cử người tham gia HĐĐGTS, Thẩm phán phải kiểm tra những người được
cử có đáp ứng các yêu cầu cụ thể mà Tòa án nêu trong công văn không... Nếu
những người được cử đã đáp ứng được các yêu cầu thì Thẩm phán ra quyết định
định giá tài sản. Như vậy, pháp luật đã quy định rất cụ thể và rõ ràng về căn cứ,
trách nhiệm, trình tự, thủ tục thành lập HĐĐGTS.
1.4.6. Biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ
Trong quá trình giải quyết các vụ kiện dân sự, có một thực tế phát sinh là
Tòa án đã thụ lý vụ kiện dân sự xét thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ do
chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án nhưng việc thu thập chứng cứ gặp trở ngại
do phải tiến hành ở địa phương khác hoặc ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Để giải
22
quyết khó khăn này, PLTTDS đã quy định cơ chế ủy thác thu thập chứng cứ cho
các Tòa án tại Điều 105 BLTTDS. Theo đó, Tòa án đã thụ lý vụ án có thể ủy
thác cho Tòa án khác trong trường hợp cần thu thập chứng cứ ở địa phương khác
trong lãnh thổ Việt Nam hoặc ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành TTDS của nước ngoài mà nước đó và Việt
Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều
ước quốc tế có quy định về vấn đề này đối với trường hợp cần thu thập chứng cứ
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh các tình
tiết của vụ việc dân sự.
Khi tiến hành việc ủy thác thu thập chứng cứ Thẩm phán phải ra quyết
định ủy thác. Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, quan hệ pháp luật tranh chấp và
những công việc cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ. Tòa án nhận ủy thác có
trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được ủy thác trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho
Tòa án đã ra quyết định ủy thác. Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác
thì phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc không thực hiện được
việc ủy thác cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác. Để thuận lợi cho việc thực
hiện ủy thác, trong nhiều trường hợp Tòa án ra quyết định ủy thác còn phải gửi
kèm cả bản sao một số tài liệu liên quan đến nội dung ủy thác. Để đảm bảo thời
hạn tố tụng, trong quyết định ủy thác, Thẩm phán cần ấn định một thời hạn hợp
lý để Tòa án được ủy thác thực hiện việc thu thập chứng cứ.
Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt
Nam thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam hoặc các cơ quan tiến hành TTDS của nước ngoài mà nước đó và Việt
Nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều ước
quốc tế cổ quy định vấn đề này.
Do vậy khoản 5 điều 105 BLTTDS năm 2015 đã quy định "trong trường
hợp không thực hiện được việc ủy thác theo quy định tại khoản 3 và khoản 4
điều này hoặc đã thực hiện được việc ủy thác nhưng không nhận được kết quả
23
thì Tòa án giải quyết vụ án trên có sở những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ việc
dân sự.
1.4.7. Biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ
BLTTDS quy định trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp
cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có
thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Trong trường hợp đương sự đã
áp dụng các biện pháp cần thiêt để thu thập chứng cứ, đã sử dụng mọi cách thức
và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý, lưu giữ
chứng cứ cung cấp cho mình chứng cứ mà vẫn không được cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp thì mới có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ Tuy nhiên, thực tiễn nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng
cứ thường không trả lời bằng văn bản cho đương sự về việc không cung cấp tài
liệu, chứng cứ mà chỉ từ chối việc cung cấp bằng lời nói. Do đó, đương sự
không có tài liệu cung cấp cho Tòa án chứng minh là mình đã áp dụng các biện
pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể thu thập được. Vì vậy,
khi đương sự có đơn yêu cầu thu thập, Tòa án cũng không có cơ sở để tiến hành
biện pháp thu thập chứng cứ này. Thậm chí, cả khi Tòa án đề nghị cơ quan, tổ
chức cung cấp các tài liệu, chứng cứ thì vẫn có những cơ quan, tổ chức không
cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn.
Điều 106 BLTTDS đã quy định biện pháp xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức
không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án tuy
từng trường hợp có thế bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự , Như vậy các quy định hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
đã tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện biện pháp nghiệp vụ để xây dựng,
hoàn thiện hồ sở giải quyết vụ án dân sự. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án
được quy định trong BLTTDS thể hiện trong trường hợp đương sự không thể
thu thập được chứng cứ và có đơn yêu cầu, những trường hợp Tòa án có quyền
chủ động thu thập chứng cứ khi không có yêu cầu của đương sự. Quy định của
BLTTDS về những trường hợp Tòa án có quyền chủ động thu thập chứng cứ thể
hiện được vai trò hỗ trợ đương sự khi họ thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
24
và chứng minh.
1.5. Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải tổ chức phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ
luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn (Điều 203
BLTTDS năm 2015). Đây là quy định hoàn toàn mới, có ý nghĩa rất quan trọng
nhằm bảo đảm mọi chứng cứ được công khai, các đương sự đều biết các tài liệu,
chứng cứ của vụ án để thực hiện quyền tranh tụng. Trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ
cho Tòa án đồng thời phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc
người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Điều 210 và Điều 211 BLTTDS
năm 2015 quy định:
1.5.1. Trước khi tiến hành phiên họp:
Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người
tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm
tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự
về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật này.
1.5.2. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ:
Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công bố
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những vấn đề sau đây.
a) Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những
vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;
b) Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác;
c) Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu
Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại
phiên tòa;
d) Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết.
25
1.5.3. Sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ:
Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý kiến, giải
quyết các yêu cầu của đương sự quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp người
được Tòa án triệu tập vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ.
Thư ký Tòa án phải lập biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và biên bản về việc hòa giải.
2. Kỹ năng đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự
2.1. Yêu cầu khi đánh giá chứng cứ
Trên cơ sở tất cả các chứng cứ đã thu thập được, Tòa án phải tiến hành xem
xét, phân tích, so sánh, phải tìm ra được các mối liên hệ, liên quan mật thiết giữa
sự kiện, tình tiết này với sự kiện, tình tiết khác. Việc xác định được chính xác
các mối liên quan giữa các tình tiết, sự kiện là điều kiện cần thiết đối với việc
xác định sự thật khách quan của vụ việc mà Thẩm phán phải xử lý.
Điều kiện cần cho việc đánh giá chứng cứ được chính xác đó là Thẩm phán
phải có hiểu biết sâu sắc về pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung ứng với đối
tượng đang được nghiên cứu (đó là quan hệ pháp luật đang có tranh chấp). Phải
có tích lũy kinh nghiệm, mà kinh nghiệm của mỗi người về đánh giá chứng cứ
được tích lũy, được hình thành trong quá trình học tập kinh nghiệm (học trên
lớp, học trong thực tiễn), quá trình tự rút kinh nghiệm trong mỗi lần nghiên cứu
hồ sơ, đánh giá chứng cứ.
Điều kiện đủ cho việc đánh giá chứng cứ đó là phải nghiên cứu kỹ toàn bộ
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ một cách khách quan và toàn diện. Đối với mỗi
hồ sơ dân sự nếu bỏ qua, không đọc, không nghiên cứu có khi chỉ một tài liệu,
có thể dẫn đến nhận định, đánh giá sai lầm, xét xử sai lầm. Đây cũng là một kinh
nghiệm mà tác giả rút ra từ hoạt động thực tiễn.
2.2. Phương pháp đánh giá chứng cứ
Trong tố tụng dân sự có hai phương pháp đánh giá chứng cứ là: Đánh giá
từng chứng cứ (Là phương pháp xem xét chứng cứ riêng biệt) và đánh giá tổng
hợp chứng cứ (Là hoạt động nhận thức của các chủ thể đánh giá chứng cứ đối

26
với các chứng cứ trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm xác định giá trị
chứng minh của chứng cứ).
Đánh giá chứng cứ là quá trình nghiên cứu, xem xét, đối chiếu, so sánh
giữa các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, xác định tài liệu nào chứa đựng các
tình tiết, các sự kiện có thật phản ánh đúng bản chất của sự vật, của vụ án.
Chúng ta đều biết giá trị chứng minh của chứng cứ thể hiện ở chỗ dựa vào
chứng cứ đó, Tòa án có thể xác định được có hay không có những tình tiết
chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Đối với những tình tiết, sự kiện không
có giá trị chứng minh sẽ bị “loại” trong quá trình đánh giá chứng cứ. Khi đánh
giá chứng cứ trước hết phải xem xét, đánh giá riêng biệt từng tài liệu, chứng cứ
để xem xét tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ đó; kết luận về độ chính xác, về
giá trị chứng minh của tài liệu, chứng cứ đó. Do đó, người Thẩm phán phải nắm
được đặc điểm của từng loại chứng cứ, xác định đó là chứng cứ trực tiếp hay
chứng cứ gián tiếp, chứng cứ gốc hay chứng cứ sao chép.v.v… Đồng thời phải
xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ đó trong mối quan hệ tổng hợp của toàn
bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xác định giá trị chứng minh của
chứng cứ. Một tài liệu chỉ có giá trị cho việc xác định sự thật khi nó phù hợp với
các tình tiết, diễn biến của vụ việc dân sự, phù hợp với thực tế khách quan. Qua
các chứng cứ đó ta có thể xác định được chính xác sự kiện pháp lý nào mà
đương sự đưa ra là có thật, yêu cầu nào mà đương sự đưa ra là yêu cầu chính
đáng.v.v…
Đánh giá chứng cứ để tìm ra sự thật của vụ việc dân sự là một công việc
khó khăn phức tạp, một loại hình lao động đặc thù của Thẩm phán, không chỉ
đòi hỏi Thẩm phán phải lao tâm khổ tứ, không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức xã
hội, kiến thức pháp luật sâu sắc mà còn đòi hỏi một cái tâm trong sáng của
người cầm cân nẩy mực. Đã là Thẩm phán phải lấy công bằng làm trọng, công
lý là mục tiêu, là nơi để người dân gửi gắm niềm tin; với tâm nguyện phụng sự
công lý là mục tiêu tối thượng, khi đó sẽ giúp Thẩm phán sáng suốt hơn trong
đánh giá chứng cứ.

27
Như đã nêu trên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xác minh,
thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và nội dung của mỗi một loại tài liệu, chứng cứ
nói trên đều có ý nghĩa và giá trị pháp lý nhất định đối với việc giải quyết vụ án. Vì
vậy, để nắm vững được nội dung và giá trị pháp lý của từng tài liệu, chứng cứ đựơc
dùng làm căn cứ giải quyết vụ án, đòi hỏi Thẩm phán và những người tiến hành tố
tụng khác phải xác định được những vấn đề cần phải giải quyết của vụ án. Muốn
vậy, họ phải xác định được loại tài liệu, chứng cứ nào cần phải tập trung nghiên
cứu và phải nghiên cứu tài liệu, chứng cứ nào trước, tài liệu, chứng cứ nào sau;
cách thức nghiên cứu như thế nào, những vấn đề rút ra từ các tài liệu đó...
Đánh giá chứng cứ bắt đầu bằng việc xem xét đánh giá từng lời khai, tài liệu,
vật chứng cụ thể sau đó mới xem xét, đối chiếu với tài liệu, chứng cứ khác. Trong
trường hợp các lời khai, tài liệu chứng cứ mâu thuẫn nhau thì việc xác định tài liệu,
chứng cứ nào chứa đựng nội dung có thật của vụ án là không hề đơn giản. Do đó,
khi gặp những trường hợp này, khi nghiên cứ đánh giá chứng cứ Thẩm phán không
chỉ chú ý đơn thuần về nội dung của tài liệu mà còn phải xem xét về nguồn gốc,
điều kiện, bối cảnh xuất hiện của tài liệu, chứng cứ xem tài liệu, chứng cứ đó do ai
xuất trình, vì sao họ thay đổi lời khai, mối quan hệ của người khai với mỗi đương
sự khác, nhân chứng khác...
Khi đánh giá lời khai của đương sự không chỉ chú ý đánh giá về nội dung
từng lời khai mà phải chú ý cả thời gian (lời khai trước, lời khai sau), diễn biến
những thay đổi trong lời khai, cách lý giải của đương sự về sự thay đổi của lời khai
đó, so sánh nhưng nội trong lời khai của các đương sự, xem xét cả mối quan hệ (gia
đình, bạn bè, họ hàng...) của các đương sự có chung một lợi ích. Đối với nhân
chứng phải xem xét mối quan hệ giữa họ với đương sự nhằm đánh giá tính khách
quan trong lời khai của họ. Đối với đương sự có sự thay đổi lời khai, kinh nghiệm
cho thấy những lời khai đầu tiên của đương sự thường chứa đựng sự thật, nhưng
không phải trong mọi trường hợp đều như vậy.
Sau khi nghiên cứu toàn diện các tài liệu chứng cứ thì việc đánh giá chứng cứ
thì việc đánh giá chứng cứ mới có khả năng tiếp cận sự thật. Để có thể đánh giá
chứng cứ được chính xác khi đánh giá chứng cứ rất cần tư duy khách quan toàn
28
diện và biện chứng để tìm ra mối liên hệ nội tại giữa các tình tiết, sự kiện từ đó xâu
chuỗi các tình tiết, sự kiện lại mới có thể xác định đúng sự thật, đúng bản chất của
vụ việc đang nghiên cứu giải quyết.
3. Thực tiễn áp dụng các quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ tại
địa phương
Thực hiện các quy định của BLTTDS năm 2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Lạng Sơn đã áp dụng các quy định mới về chứng minh và chứng cứ trong quá
trình tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện và xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ nhằm
giải quyết tốt các vụ án dân sự, đảm bảo thấu tình đạt lý.
Trung bình mỗi năm TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn giải quyết khoảng 300
vụ án dân sự. Các tranh chấp dân sự phổ biến vẫn là tranh chấp liên quan đến quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, chiếm từ 50 – 60% các vụ án dân sự sơ thẩm,
sau đó là tranh chấp về hợp đồng dân sự (chủ yếu là hợp đồng vay nợ) và yêu cầu
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Khi giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án đều
phải chủ động tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ như xem xét thẩm định
tại chỗ, định giá tài sản, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan chuyên môn cung
cấp chứng cứ mới có thể giải quyết được vụ án. Vì vậy, ngay từ khi tiếp nhận hồ
sơ vụ việc, Thẩm phán đã chủ động xác định các tài liệu, chứng cứ cần thiết phải
thu thập để giải quyết vụ án, chủ động thông báo đương sự cung cấp, giao nộp
chứng cứ, chủ động gửi văn bản cho các cơ quan có liên quan (chủ yếu là các cơ
quan thuộc Ủy ban nhân dân) để yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ mà họ lưu
giữ liên quan đến vụ án.
Trong công tác giải quyết án dân sự, TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn đã đẩy
mạnh thực hiện công tác hòa giải nhằm giải quyết nhanh và triệt để các vụ án.
Tuy nhiên trên thực tế, tỉ lệ các vụ việc dân sự có thể hòa giải thành chiếm tỉ lệ
rất ít, chỉ hòa giải thành được khoảng 18% vụ án dân sự, còn lại hầu hết Tòa án
phải đưa các vụ án ra xét xử. Vấn đề khó khăn nhất trong công tác giải quyết các
vụ án dân sự là vấn đề thu thập và đánh giá chứng cứ. Do đó, tỉ lệ các vụ án bị
hủy, sửa do lỗi chủ quan cũng chủ yếu là các vụ án dân sự, trong đó nguyên

29
nhân sửa hủy chủ yếu là do xác định thiếu tư cách người tham gia tố tụng, thu
thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện.
4. Một số vướng mắc trong thực tiễn
4.1. Về việc yêu cầu đương sự thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu chứng
cứ cho đương sự khác trong vụ án
Ngay từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện, Tòa án đã kiểm tra việc đương sự đã
hực hiện nghĩa vụ sao gửi đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo cho
đương sự khác hay chưa, nếu đương sự đã gửi thì phải cung cấp phiếu gửi của
bưu điện hoặc giấy tờ khác chứng minh đã sao gửi cho đương sự khác theo quy
định của Bộ luật TTDS 2015.
Tuy nhiên, việc đương sự chưa thực hiện nghĩa vụ gửi đơn khởi kiện và tài
liệu chứng cứ kèm theo cho người bị kiện không phải là căn cứ trả lại đơn khởi
kiện theo Điều 192 Bộ luật TTDS 2015 nên dù chưa gửi thì Tòa án vẫn phải tiếp
nhận và cấp giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện. Hơn nữa, thực tế các đơn
khởi kiện ban đầu nếu như không có Luật sư tham gia từ đầu thì đều không đảm
bảo hình thức, nội dung và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn theo quy định tài
Điều 179 Bộ luật TTDS. Người khởi kiện đa số viết không đúng mẫu, nội dung
không đầy đủ, không rõ yêu cầu khởi kiện và phạm vi khởi kiện. Sau khi tiếp
nhận đơn khởi kiện, nhiều trường hợp Tòa án phải yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn,
nộp bổ sung tài liệu chứng cứ để chứng minh quyền khởi kiện. Vì vậy, dù người
khởi kiện chưa sao gửi đơn và tài liệu chứng cứ cho người bị kiện thì Tòa án vẫn
thụ lý đơn và giải quyết theo thủ tục chung.
4.2. Việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng cứ
Trong tố tụng dân sự, việc cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án là nghĩa
vụ của đương sự để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cả nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đều có
nghĩa vụ cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Tòa án đóng vai trò là cơ
quan trọng tài, xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ của mỗi bên để phân xử theo
quy định của pháp luật dân sự.

30
Trên thực tế, nguyên đơn khởi kiện là người đầu tiên có trách nhiệm cung cấp,
giao nộp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tuy nhiên, phía nguyên đơn hầu như chỉ cung cấp được tài liệu chứng cứ ban đầu
đầu chứng minh quyền khởi kiện của mình. Nhiều chứng cứ quan trọng của vụ
tranh chấp đang được lưu giữ tại cơ quan, tổ chức hoặc do các đương sự khác nắm
giữ thì việc thu thập của đương sự sẽ gặp khó khăn, vướng mắc. Ví dụ: trong vụ án
ly hôn có tranh chấp về tài sản nhưng giấy tờ liên quan đến tài sản chỉ đứng tên một
bên và do bên đó giữ toàn bộ, bên có yêu cầu chia tài sản không giữ bất kỳ tài liệu
nào có thể chứng minh việc có tài sản đó để cung cấp cho Tòa án. Đối với bị đơn và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhiều vụ án đương sự đương sự không hợp
tác, không chịu cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án nên ảnh hưởng đến tiến độ
cũng như chất lượng giải quyết vụ án.
4.3. Việc thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ
BLTTDS quy định, Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã
áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và có yêu cầu Tòa án
tiến hành thu thập. Quy định này một mặt gắn trách nhiệm cho đương sự, giảm áp
lực công việc cho Tòa án, mặt khác cũng là cơ chế bảo đảm tính khách quan, tránh
tình trạng Tòa án lạm dụng trong việc thu thập chứng cứ có lợi để thiên vị cho một
trong các bên. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành những quy định mới này đã gặp không
ít khó khăn.
Để bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ, Điều 7 của Bộ luận dân sự năm
2015 quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Tòa án chứng cứ trong vụ án
mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương
sự, Tòa án. Trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn
bản cho đương sự, Tòa án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được
chứng cứ”. Thi hành BLTTDS năm 2015 cho thấy, các quy định về thu thập chứng
cứ vẫn khó thực hiện. Thực tế, khi giải quyết các vụ án mà có các tài liệu, chứng cứ
đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý thì việc thu thập chứng cứ không hề đơn
giản. Trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã cất công đi lại nhiều lần yêu cầu
31
cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án để họ
giao nộp cho Tòa án nhưng đều bị từ chối với đủ mọi lý do.
Ngay cả đối với các trường hợp Tòa án chủ động thu thập chứng cứ, Tòa án
đã có văn bản yêu cầu các cơ quan, tổ chức đang quản lý chứng cứ cung cấp các tài
liệu chứng cứ có liên quan cho Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án và ấn định
thời hạn cung cấp theo quy định của pháp luật; tuy nhiên nhiều trường hợp các cơ
quan đều cung cấp chứng cứ muộn, Tòa án phải ra văn bản thúc giục nhiều lần
hoặc sang làm việc trực tiếp. Thậm chí có trường hợp cơ quan quản lý chứng cứ
còn cố tình giấu, không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Nguyên nhân chủ
yếu của vấn đề này là do các hồ sơ, tài liệu, chứng cứ có sai sót. Trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, các tranh chấp về quyền sử dụng đất chiếm tỉ lệ lớn và khá phức tạp,
nhất là các tranh chấp liên quan đến đất rừng. Do địa bàn rộng nên việc quản lý đất
đai trước đây tương đối lỏng lẻo, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nhiều trường hợp bị chồng lấn, không đúng diện tích, không đúng chủ sử dụng. Vì
vậy, khi đương sự hoặc Tòa án yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến công
tác quản lý đất đai thì các cơ quan đều thoái thác hoặc cung cấp không đầy đủ.
Về công tác ủy thác thu thập chứng cứ, Tòa án khi nhận được ủy thác đều
thực hiện việc ủy thác theo quy định của pháp luật. Nhưng thực tế cho thấy
những vụ án dân sự bị kéo dài về thời gian giải quyết đều do Tòa án chậm nhận
được kết quả ủy thác, đặc biệt là ủy thác ngoài lãnh thổ Việt Nam. Nhiều vụ án
dân sự do hết thời hạn chuẩn bị xét xử nên phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án do
chờ kết quả ủy thác theo khoản 1 Điều 214 BLTTDS. Lý do phần lớn các Tòa án
hay các cơ quan khác nhận ủy thác thường cho rằng đó là công việc làm hộ, làm
thay Tòa án ủy thác nên tinh thần, trách nhiệm thực hiện không cao, không đảm
bảo thời gian thực hiện ủy thác. Bên cạnh, đó thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp
đặc biệt là ủy thác tư pháp nước ngoài quy định rườm rà, không có thời hạn cụ
thể nên nhiều vụ án không thể giải quyết thấu tình đạt lý do không có kết quả ủy
thác tư pháp.

32
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Thu thập và đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự là hoạt động tố
tụng hết sức quan trọng, nó được tiến hành trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Quá trình đó giúp cho việc giải quyết vụ án được chính xác đảm bảo quy định của
pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Công việc này đòi
hỏi người Thẩm phán phải có kỹ năng nghề nghiệp và sự hiểu biết pháp luật đầy đủ
và đúng đắn. Quá trình áp dụng BLTTDS trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ
ở các Toà án còn nhiều sai sót, vướng mắc do nhiều lý do khác nhau như nhận thức
về quy định pháp luật còn khác nhau, kỹ năng của một số Thẩm phán chưa đảm
bảo... Mặt khác một số quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng, không có văn bản
hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng khác nhau ở mỗi Thẩm phán, ở mỗi
địa phương. Các quy định của BLTTDS năm 2015 đã khắc phục phần nào các
vướng mắc của Toà án trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn tồn tại các hạn chế,
vướng mắc, bất cập khi áp dụng do một số quy định vẫn chưa rõ ràng, đầy đủ.
Vậy để công tác thu thập và đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự
của Toà án được chính xác, đầy đủ, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, tác giả đưa ra một số kiến nghị sau:
Một là: Toà án nhân dân tối cao cần kịp thời ban hành Nghị quyết hướng dẫn
thống nhất trong việc áp dụng các quy định pháp luật còn vướng mắc. Pháp luật
cần quy định cụ thể những trường hợp được coi là “đương sự không thể tự mình
thu thập được tài liệu, chứng cứ”. Thực tế cho thấy việc đương sự không thể tự
mình thu thập được tài liệu chứng cứ gặp nhiều khó khăn do các cá nhân, cơ quan
tổ chức có thẩm quyền không làm đúng trách nhiệm. Do đó, cần làm rõ khái niệm
này để đảm bào đươc sự thực hiện nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Thứ hai: cần quy định rõ chế tài đối với việc đương sự không thực hiện
nghĩa vụ giao nộp chứng cứ hoặc sao gửi chứng cứ cho đương sự khác. Rõ ràng
khi đẩy mạnh thực hiện tranh tụng tại phiên tòa mà đương sự không bảo đảm
quyền tranh tụng của đương sự khác là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Bộluật TTDS 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng
33
minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ
sơ vụ việc. Đương sự không giao nộp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án
thì phải chịu bất lợi do không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên thực tế
các trường hợp vụ án không thu thập đủ tài liệu chứng cứ mặc dù đương sự
không giao nộp tài liệu chứng cứ nhưng vẫn bị Tòa án cấp trên hủy do không
thu thập đầy đủ chứng cứ. Vì vậy, cần có hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối
cao về chế tài khi đương sự không thực hiện nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho
Tòa án và sao gửi chứng cứ cho đương sự khác.
Thứ ba: Cần quy định cụ thể về thời điểm tổ chức và số lượng phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải một lần hay
nhiều lần để xác định thời hạn yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng như phạm vi yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Thiết nghĩ, với mong muốn tăng cường hòa giải giữa các bên
đương sự nhằm hạn chế mâu thuẫn trong nhân dân, việc tổ chức nhiều phiên hòa
giải là cần thiết. Đối với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai
chứng cứ cũng có thể tiến hành nhiều lần để đảm bảo thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tạo điều kiện cho
đương sự thực hiện quyền tranh tụng của mình. Phạm vi yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan nên được giới hạn tại phiên họp cuối cùng nhằm đảm bảo
quyền và các lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ tư: TAND tối cao cần hướng dẫn cơ chế phối hợp với chính quyền và
các cơ quan chức năng địa phương trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ giúp Tòa
án giải quyết nhanh chóng và đúng pháp luật các vụ án dân sự. Như đã phân tích ở
trên, các vụ án dân sự đang có xu hướng ngày càng gia tăng trong cả nước, phức
tạp nhất là các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng và tranh chấp về hợp đồng.
Đối với các tranh chấp về quyền sử dụng đất, hầu hết các tài liệu chứng cứ đêu
được lưu giữ ở các cơ quan chức năng của địa phương như UBND, Phòng tài
nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Kiểm lâm…. Các
34
tài liệu chứng cứ này cơ bản là những tài liệu chứng cứ có ý nghĩa trọng để giải
quyết vụ án, tuy nhiên đương sự hầu như không tự thu thập được. Các cơ quan này
khi cung cấp chứng cứ thường vi phạm thời hạn, không cung cấp hoặc cung cấp
chứng cứ chưa đầy đủ dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài và chưa khách quan,
toàn diện dẫn đến án bị sửa, hủy do lỗi chủ quan. Hiện chưa có quy định nào về chế
tài đối với các cơ quan quản lý chứng cứ trong việc không thực hiện nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ. Vì vậy, tại tỉnh Lạng Sơn đã đưa ra một giải pháp giải quyết vấn đề
vướng mắc trong công tác phối hợp, đó là TAND tỉnh và UBND tỉnh ký kết quy
chế phối hợp (quy chế số 01/QCPH-UBND-TAND ngày 10/4/2015) trong công tác
giải quyết các vụ án dân sự, hành chính trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nhằm tăng
cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Thứ năm: Tăng cường thực hiện công tác ủy thác thu thập chứng cứ giữa các
TAND và giữa TAND với các cơ quan nhận ủy thác để đảm bảo thu thập tài liệu,
chứng cứ đầy đủ và nhanh chóng. Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự cũng chưa
quy định chế tài đối với các cơ quan nhận ủy thác nên nhiều đơn vị thực hiện công
việc ủy thác với tinh thần làm hộ, làm giúp, không đảm bảo chứng cứ để giải quyết
vụ án hoặc không kịp thời hạn. Đặc biệt là vấn đề ủy thác tư pháp ra ngoài lãnh thổ
Việt Nam hầu như không nhận được kết quả dẫn đến không đủ căn cứ để giải quyết
vụ án. TAND tối cao cần có hướng dẫn thực hiện vấn đề này.
Thứ sáu: Tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra, tổng kết và rút kinh
nghiệm công tác xét xử của Toà án địa phương, của Tòa án nhân dân tỉnh đối với
Tòa án nhân dân cấp huyện. Công tác giám đốc, kiểm tra, rút kinh nghiệm công tác
xét xử đối với Tòa án nhân dân cấp dưới là vấn đề hết sức quan trọng, cần tổ chức
định kỳ 06 tháng một lần đối với TAND tối cao rút kinh nghiệm cho các Tòa án địa
phương, mỗi quý một lần đối với TAND cấp tỉnh rút kinh nghiệm cho TAND cấp
huyện. Thông qua công tác giám đốc kiểm tra, TAND cấp trên sẽ kịp thời phát hiện
các vấn đề hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn để kịp thời khắc phục, rút kinh
nghiệm; đồng thời kịp thời phát hiện các vấn đề vướng mắc trong các quy định của
pháp luật TTDS, các vấn đề còn bỏ ngỏ chưa quy định để TAND tối cao có căn cứ
tổng kết, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất trong toàn quốc.
35
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1

NỘI DUNG……………………………………………………………………………………... 3
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ……………………………………..
3
1. Khái niệm về chứng cứ và việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng
dân sự……………………………………………………............................................................. 3
2. Các hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án…………………………………….. 5

3. Đặc điểm hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong TTDS……………... 6

4. Ý nghĩa của thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân
sự………………………………………………......................................................................... 9
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ KỸ NĂNG THU THẬP VÀ
ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ……… 11

1. Kỹ năng thu thập chứng cứ của Thẩm 11


phán………………………………......................
2. Kỹ năng đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự………………………. 26

3. Thực tiễn áp dụng các quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ tại địa
phương…………………………………......................................................................................... 29

4. Một số vướng mắc trong thực tiễn………………………………................................... 30

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………………………………………………………. 33

36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung năm 2011.

2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

3. Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành


một số quy định về “chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được
sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự.

4. Báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm công tác xét xử của Toà án nhân dân
tỉnh Lạng Sơn năm 2015, 2016, 2017.

5. Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ việc dân sự, Học viện Tòa án –
2017.

6. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB
Công an nhân dân năm 2015.

7. Tham luận về những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong công tác xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm các vụ án dân sự qua công tác Giám đốc thẩm của Toà dân sự
Toà án nhân dân tối cao năm 2014.

8. Tài liệu tập huấn nghiệp vụ giải quyết các vụ án dân sự của Toà dân sự
Toà án nhân dân tối cao năm 2015.

37

You might also like