You are on page 1of 29

Chương 3:

CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

I. CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ
a. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự, chứng cứ được hiểu
như sau:
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không
có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác
có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Qua khái niệm trên cho thấy, chứng cứ là những gì có thật, đó là những
thông tin phản ánh khách quan về tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác
của vụ án hình sự.
Chứng cứ được xác định từ những nguồn nhất định và được thu thập theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, trong đó, nguồn chứng cứ
được quy định tại Điều 87 và các điều luật khác của Bộ luật Tố tụng hình sự,
đồng thời, để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định (khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Chứng cứ được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng phải bằng các biện pháp hợp pháp để thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ làm sáng tỏ hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng
như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng quy định của pháp luật.
b. Các thuộc tính của chứng cứ
Khái niệm chứng cứ nêu trên và khoa học luật tố tụng hình sự xác định

1
chứng cứ có ba thuộc tính đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp.
- Tính khách quan
Tính khách quan là một trong những thuộc tính quan trọng của chứng cứ.
Chứng cứ là những gì có thật, tức là sự tồn tại của nó là khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con người và con người có thể nhận thức được.
Đó là những thông tin chứa đựng trong các dấu vết, đồ vật, tài liệu, lời khai
phản ánh về vụ án phải trung thực, đúng như thực tế vụ án đã xảy ra, không phải
do suy diễn, tưởng tượng hay xuyên tạc, bịa đặt.
Trong thực tế các thông tin dùng làm chứng cứ chứng minh tội phạm,
người phạm tội thường cũng được rút ra qua quá trình nghiên cứu các dấu vết,
đồ vật, tài liệu, hình ảnh đã thu thập được khi tội phạm xảy ra. Nếu nó không có
thật thì con người không nhận thức được và không thể thu thập được, có chăng
đó chỉ là sự tưởng tượng, xuyên tạc, bịa đặt, giả mạo. Mặt khác tội phạm đã xảy
ra là một thực tế khách quan, các dấu vết, đồ vật, tài liệu, hình ảnh về nó cũng
tồn tại khách quan, nếu chúng ta lấy các dấu vết, đồ vật, tài liệu, hình ảnh khác
không có thật để làm chứng cứ thì không chứng minh được tội phạm, người
phạm tội.
Việc xác định tính khách quan của chứng cứ là rất quan trọng trong
chứng minh tội phạm, người phạm tội, giúp cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phân biệt được đâu là sự
thật của vụ án, đâu là bị xuyên tạc, bịa đặt, giả mạo để giải quyết vụ án được
đúng đắn.
Từ thuộc tính khách quan của chứng cứ, trong quá trình phát hiện, thu
thập, sử dụng chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội cần chú ý:
Chứng cứ phát sinh trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định, cho nên nó có
thể mất đi trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Vì vậy, phải nhanh
chóng phát hiện và thu thập chứng cứ.
Trong quá trình thu thập chứng cứ phải tôn trọng tính khách quan của các
thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu, hình ảnh, phải biết dựa vào các quy luật
khách quan và tình hình thực tế của vụ án, mối quan hệ giữa các chứng cứ để
phát hiện, thu thập chứng cứ.
Khi sử dụng chứng cứ phải thận trọng, chỉ sử dụng những thông tin, dấu
vết, đồ vật, tài liệu, hình ảnh đã được kiểm tra và khẳng định là có thật để giải

2
quyết vụ án. Những gì còn nghi ngờ, chưa chắc chắn, không khách quan thì
không được sử dụng để giải quyết vụ án.
- Tính liên quan
Chứng cứ được cơ quan, người tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự. Đây là thuộc tính
liên quan của chứng cứ.

3
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải có mối quan
hệ mật thiết đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, phải phản
ánh chính xác một hay nhiều tình tiết của vụ án, góp phần làm rõ một phần hay
toàn bộ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án. Đây là mối quan hệ khách
quan, cơ bản được tạo lập trong quá trình hình thành chứng cứ khi tội phạm xảy
ra. Thông qua mối quan hệ này mà chứng cứ có thể phản ánh một cách chính
xác những vấn đề phải chứng minh trong vụ án.
Thực tế cho thấy, chứng cứ bao giờ cũng có mối quan hệ với vụ án hình
sự đã xảy ra, nếu đó là mối quan hệ trực tiếp, chủ yếu thì nó giúp xác định, làm
sáng tỏ ngay nội dung, bản chất của của vụ án về hành vi phạm tội, người phạm
tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết khác giúp quyết định hình phạt…; nếu
đó là mối quan hệ gián tiếp thì nó chỉ có thể giúp xác định, làm sáng tỏ các tình
tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án, nhưng trong một số trường hợp việc chứng
minh tội phạm, người phạm tội không thể thiếu được các chứng cứ này.
Cho nên trong quá trình chứng minh tội phạm, người phạm tội chỉ những
thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu nào liên quan đến vấn đề phải chứng minh
trong vụ án mới được dùng làm căn cứ để chứng minh, những thông tin, dấu
vết, đồ vật, tài liệu không có quan hệ hoặc không xác định được mối quan hệ
với vấn đề phải chứng minh thì không được dùng làm chứng cứ.
Từ thuộc tính liên quan của chứng cứ, trong quá trình phát hiện, thu thập,
sử dụng chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội cần chú ý:
Khi phát hiện, thu thập chứng cứ phải căn cứ vào những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự, từ đó, thu thập những thông tin, dấu vết, đồ
vật, tài liệu giúp làm rõ một phần hay toàn bộ những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án. Việc thu thập này phải được tiến hành thận trọng, tỉ mỉ để không bỏ
sót lọt những thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu liên quan, nhưng những thông
tin, dấu vết, đồ vật, tài mà chưa xác định được ngay tính liên quan của nó với vụ
án thì cũng không được bỏ qua, nhưng cũng không vội sử dụng ngay làm căn cứ
để chứng minh mà qua phải kiểm tra, đánh giá.
Chỉ sử dụng những thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu liên quan đến những
vấn đề phải chứng minh để giải quyết vụ án hình sự.
- Tính hợp pháp
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ, chứng cứ phải được thu thập,

4
xác định từ những nguồn, bằng các biện pháp và theo đúng trình tự, thủ tục do
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện:
Thứ nhất, chứng cứ phải được thu thập, xác định từ những nguồn mà Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định. Những thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu tuy tồn
tại trong thực tế và có liên quan đến vụ án nhưng không được lưu giữ trong
nguồn mà pháp luật quy định thì không được coi là chứng cứ.
Các nguồn chứng cứ như: vật chứng được quy định tại Điều 89, 90 Bộ
luật Tố tụng hình sự; lời khai, lời trình bày của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ, người tố
giác, báo tin về tội phạm, người chứng kiến, bị can, bị cáo được quy định từ
Điều 91 đến Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự…
Thứ hai, chứng cứ phải được thu thập bằng các biện pháp và theo đúng
trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Các biện pháp thu thập
chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định như: khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương
tiện, lấy lời khai, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, trưng cầu giám định…
Khi tiến hành bất cứ biện pháp nào để thu thập chứng cứ cũng phải theo đúng
trình tự, thủ tục luật định. Nếu biện pháp thu thập thông tin không phải là biện
pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu
thu được dù có khách quan, liên quan đến vụ án cũng không phải là chứng cứ.
Nếu thông tin được thu thập bằng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định nhưng không đúng trình tự, thủ tục do luật định thì cũng không phải là
chứng cứ.
Từ thuộc tính hợp pháp của chứng cứ, trong quá trình phát hiện, thu thập,
sử dụng chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội cần chú ý:
Khi thu thập chứng cứ phải tuân thủ nghiêm các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự, phải đảm bảo hợp pháp về nguồn và hợp pháp về biện pháp thu
thập.
Những lời khai, dấu vết, đồ vật, tài liệu… phản ánh trung thực về vụ án
nhưng không được phản ánh từ những nguồn và thu thập bằng những biện pháp
do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì không được công nhận là chứng cứ,
không được sử dụng để giải quyết vụ án hình sự, trong trường hợp muốn sử

5
dụng nó để giải quyết vụ án thì phải chuyển hóa.
Như vậy, chứng cứ phải có đầy đủ ba thuộc tính là tính khách quan, tính
liên quan và tính hợp pháp, nếu thiếu một trong ba thuộc tính thì không phải là
chứng cứ. Ba thuộc tính này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành thể
thống nhất, hoàn chỉnh của chứng cứ về nội dung và hình thức, đảm bảo cho
chứng cứ có giá trị chứng minh.

6
Hiểu rõ các thuộc tính của chứng cứ có ý nghĩa quan trọng, giúp cho nhà
làm luật quy định rõ ràng, chặt chẽ, đầy đủ trình tự, thủ tục của quá trình chứng
minh, đồng thời, giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực
hiện việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ đúng quy định của pháp luật,
đảm bảo giải quyết vụ án chính xác, khách quan.
2. Phân loại chứng cứ
Phân loại chứng cứ là phân chia chứng cứ thành từng nhóm dựa trên
những căn cứ nhất định giúp cho việc phát hiện, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
được thuận lợi, hiệu quả khi giải quyết vụ án hình sự.
Việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình lập
pháp tố tụng hình sự, giúp các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập
từng loại chứng cứ, từ đó quy ịnh phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp, đảm
bảo tính chính xác, khách quan của quá trình chứng minh. Đối với hoạt động
chứng minh, giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hiểu sâu
sắc hơn về bản chất, giá trị chứng minh của từng loại chứng cứ và vị trí của nó
trong hệ thống chứng cứ, đồng thời, tuân thủ các quy định của pháp luật về thu
thập, kiềm tra, đánh giá chứng cứ, lựa chọn biện pháp thu thập, phương pháp
kiểm tra, đánh giá, xác định đúng giá trị chứng minh và sử dụng hợp lý, hiệu
quả từng loại chứng cứ đã thu thập được trong quá trình chứng minh vụ án cụ
thể.
Khoa học Luật Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia chứng cứ thành
nhiều loại khác nhau như chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép lại, thuật lại,
chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp, chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội,

a. Chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại
Căn cứ vào nguồn phản ánh của chứng cứ, chứng cứ được chia thành
chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại.
- Chứng cứ gốc
Chứng cứ gốc là chứng cứ được thu thập từ nguồn đầu tiên ghi nhận và
phản ánh về vụ án hình sự, không qua khâu trung gian nào.
Chứng cứ gốc có giá trị chứng minh cao, thường phản ánh rõ ràng, đầy
đủ, tỉ mỉ và chính xác về vụ án hình sự. Vì vậy, khi phát hiện được chứng cứ
loại này phải nhanh chóng thu thập, bảo vệ nó.
7
- Chứng cứ sao lại, thuật lại.
Chứng cứ sao lại, thuật lại là chứng cứ không được thu thập từ nguồn
đầu tiên ghi nhận, phản ánh nó mà qua một hay nhiều khâu trung gian.
Chứng cứ này được thu thập qua bản sao hoặc qua người được nghe kể
lại nên nó cũng có thể phản ánh về vụ án hình sự, nhưng mức độ chính xác
không cao, nhất là trường hợp sao lại, kể lại nhiều lần thì dễ bị biến dạng, sai
lệch. Vì vậy, khi thu thập chứng cứ loại này phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh
tại thời điểm sao lại, kể lại để xác định tính chính xác của các thông tin mà nó
phản ánh, đồng thời, nó cũng có thể giúp tìm ra, kiểm tra tính chính xác của
chứng cứ gốc.
b. Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chứng cứ và vấn đề phải chứng minh trong
vụ án, chứng cứ được chia thành hai loại là chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián
tiếp.
- Chứng cứ trực tiếp
Chứng cứ trực tiếp là chứng cứ liên quan trực tiếp đến những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Chứng cứ trực tiếp chỉ thẳng, làm rõ ngay được những vấn đề phải chứng
mình trong vụ án như hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi, động cơ, mục đích
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thời gian, địa
điểm xảy ra tội phạm, diễn biến vụ phạm tội, hậu quả tác hại của tội phạm…
Chứng cứ này thường được phản ánh ở các nguồn trực tiếp ghi nhận hành
vi phạm tội như lời khai của người bị buộc tội, lời khai của bị hại, người làm
chứng, nguồn vật chứng hay biên bản bắt người phạm tội quả tang…
Chứng cứ trực tiếp có giá trị chứng minh rất cao. Vì vậy, khi phát hiện
chứng cứ loại này phải nhanh chóng thu thập, củng cố và bảo vệ để sử dụng làm
rõ tội phạm, người phạm tội.
- Chứng cứ gián tiếp
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ không liên quan trực tiếp đến những vấn
đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Chứng cứ gián tiếp giúp xác định các tình tiết, sự kiện chứng minh mà
bản thân nó không trực tiếp làm sáng tỏ ngay nội dung về bản chất của vụ án,

8
nhưng nếu kết hợp với các chứng cứ khác thì nó có khả năng làm sáng tỏ một
hoặc nhiều vấn đề phải chứng minh của vụ án.
Chứng cứ gián tiếp có giá trị chứng minh không cao, không có giá trị
chứng minh độc lập, chỉ có giá trị chứng minh khi được thu thập, đánh giá trong
tổng thể các chứng cứ khác của vụ án. Chứng cứ gián tiếp thường nhiều, nhưng
xuất hiện một cách tản mạn, vụn vặt, người phạm tội cũng không có điều kiện
che giấu, tiêu hủy. Nhưng việc tập hợp, sử dụng nó cũng rất khó khăn, phức tạp,
muốn sử dụng nó trong giải quyết vụ án phải thu thập đầy đủ và xem xét trong
mối quan hệ nhân quả với sự việc phạm tội và trong mối liên hệ với các loại
chứng cứ khác.
c. Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội
Căn cứ vào mục đích chứng minh, chứng cứ được chia thành chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
- Chứng cứ buộc tội
Chứng cứ buộc tội là chứng cứ xác định có tội phạm xảy ra, người hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm, lỗi của người phạm tội, các tình tiết
định khung tăng nặng, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình
tiết khác bất lợi cho người phạm tội khi giải quyết vụ án.
- Chứng cứ gỡ tội
Chứng cứ gỡ tội là chứng cứ xác định không có tội phạm xảy ra, hành vi
không cấu thành tội phạm, một người hoặc pháp nhân thương mại không phạm
tội, các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự, các tình tiết định khung giảm nhẹ,
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác có lợi cho người
phạm tội khi giải quyết vụ án.
Cả hai loại chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội đều là chứng minh về
nội dung vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc phân chia như
vậy nhằm quán triệt tư tưởng khách quan, thận trọng trong quá trình chứng
minh, tránh tư tưởng chủ quan định kiến, suy đoán tội phạm một cách tùy tiện,
bỏ qua các chứng cứ gỡ tội, những lời bào chữa của bị can, bị cáo trong kết luận
tội phạm.
Vì vậy, khi thu thập chứng cứ phải có ý thức thu thập đầy đủ, toàn diện
cả hai loại chứng cứ này để có đủ căn cứ kết luận tội phạm, người phạm tội một
cách khách quan, tránh oan sai, cũng như bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.

9
3. Các loại nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng những thông tin phản ánh khách quan,
trung thực về vụ án hình sự và được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
Tố tụng hình sự quy định.
Khi thu thập chứng cứ, việc xác định nguồn chứng cứ là rất quan trọng vì
mỗi thông tin dùng làm căn cứ chứng minh đều được phản ảnh từ nguồn chứng
cứ nhất định và để giải quyết vụ án hình sự có thể phải thu thập chứng cứ từ
nhiều nguồn khác nhau.
Theo khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự, các loại nguồn chứng cứ
gồm:

10
a. Vật chứng
- Khái niệm
Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật
mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá
trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án (Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Vật chứng rất đa dạng có thể là: vật được dùng làm công cụ, phương tiện
phạm tội; vật mang đấu vết tội phạm; vật là đối tượng tác động của tội phạm;
tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Vật chứng có giá trị chứng minh rất cao trong quá trình giải quyết vụ án.
Vì vậy phải nhanh chóng phát hiện, thu giữ, bảo quản và xử lý theo đúng quy
định của pháp luật. Việc thu thập và bảo quản vật chứng phải theo đúng quy
định tại Điều 105 và Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể:
- Thu thập vật chứng
Vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực
trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trong biên bản thu giữ vật chứng
cần được mô tả tỉ mỉ đặc điểm của chúng để sử dụng khi cần thiết. Tức là phải
ghi vật gì, đặc điểm, số lượng, chất lượng, trọng lượng, màu sắc, hình dáng…,
những dấu vết của tội phạm còn để lại trên vật chứng, nơi tìm thấy vật chứng.
Trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh hoặc có
thể ghi hình đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản
theo quy định của pháp luật.
- Bảo quản vật chứng
Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất, lẫn lộn, hư
hỏng. Việc bảo quản vật chứng thực hiện như sau:
Vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu
thập. Việc niêm phong, mở niêm phong được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật, phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất
cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau
khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ

11
quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý,
đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định; vật
chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người, mẫu mô, mẫu máu và các
mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại cơ quan chuyên trách theo quy
định của pháp luật.
Vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để
bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho
chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ
hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản.
Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm
quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của
pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại
Kho bạc Nhà nước để quản lý.
Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì
cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong
giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản
vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá
hủy niêm phong, tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất
giấu, hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng
của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của luật.
- Việc xử lý vật chứng (Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai
đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn
truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn
chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc
thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
Vật chứng được xử lý như sau:

12
+ Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành
thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
+ Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu,
nộp ngân sách nhà nước;
+ Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và
tiêu hủy.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có quyền:
+ Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
+ Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp
nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
+ Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán
theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
+ Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi
có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm
quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải
quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
b. Lời khai, lời trình bày
- Lời khai của người làm chứng (Điều 91 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về nguồn tin về tội phạm,
về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị
buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra. Không
được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ
không nói tại sao họ biết được tình tiết đó.
Việc tham gia của người làm chứng trong tố tụng hình sự là rất phổ biến
và lời khai của người làm chứng là nguồn tài liệu thường có nhiều trong các vụ
án. Bởi vì khi thực hiện tội phạm, người phạm tội không thể che giấu được hết
hành vi của mình đối với mọi người, trong đó những người biết được những
tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng triệu tập để làm chứng.

13
Lời khai của người làm chứng có vị trí rất quan trọng, trong nhiều trường
hợp là không thể thay thế được, nhất là khi người làm chứng trực tiếp chứng
kiến tội phạm xảy ra. Mặt khác, nguồn tài liệu này thể hiện nhận thức của con
người về tội phạm đã xảy ra nên nó phản ảnh rất sâu sắc về sự việc phạm tội,
người phạm tội, giúp cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể xác
định nhanh chóng, chính xác các tình tiết của vụ án.
Tuy nhiên, lời khai của người làm chứng chỉ chính xác khi họ có khả
năng nhận thức, phản ánh đúng những gì tội phạm đã xảy ra, đồng thời họ phải
thái độ khai báo trung thực, khách quan. Vì vậy, khi lấy lời khai người làm
chứng phải kiểm tra khả năng nhận thức và khai báo của họ, cũng như mối quan
hệ của họ với những người liên quan khác trong vụ án.
Trong trường hợp có nghi ngờ về tình trạng thể chất hay tinh thần của
người làm chứng thì phải trưng cầu giám định. Trường hợp lấy lời khai người
làm chứng là người mù, người câm, người điếc, sau khi giám định mà thấy họ
có khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn thì vẫn có thể coi lời khai của họ là
lời khai của người làm chứng.
- Lời khai của bị hại (Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Bị hại trình bày những tình tiết về nguồn tin tội phạm, về vụ án, quan hệ
giữa họ với người bị bị buộc tội và trả lời các câu hỏi đặt ra. Không được dùng
làm chứng cứ những tình tiết do bị hại trình bày nếu họ không nói rõ vì sao biết
được tình tiết đó.
Lời khai của bị hại là nguồn tài liệu có trong các vụ án mà tội phạm trực
tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra cho cá nhân về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ
quan, tổ chức về tài sản, uy tín..
Bị hại là người bị tác động trực tiếp bởi hành vi phạm tội nên họ có thể
biết về các tình tiết vụ án rất rõ, ý thức cộng tác của họ với cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thường rất tích cực. Tuy nhiên, bị hại bị thiệt hại
về sức khỏe, tinh thần cũng có thể bị ảnh hưởng về thể chất hoặc tâm thần khi
khai báo, làm cho tính chính xác, khách quan của lời khai bị ảnh hưởng… Đồng
thời, bị hại thường có tâm lý thù tức, xót của… nên có thể khai báo không chính
xác. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ sử dụng những
tình tiết trong lời khai của bị hại làm chứng cứ sau khi đã kiểm tra, xác minh là
đúng.
- Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự (Điều 93 Bộ luật Tố
14
tụng hình sự)
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày về những tình tiết liên quan
đến việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự trình bày nếu họ không nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Phạm vi trình bày của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ hạn chế về
các tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Lời khai của nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự là một trong những cơ sở để xem xét, xác định trách
nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Cho nên cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cần chú ý đến thiệt hại thực tế về tài sản trong vụ án để xem xét
yêu cầu của cả hai phía có phù hợp, đúng quy định không.
- Lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan đến vụ án (Điều
94 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan đến vụ án trình bày về những
tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được
tình tiết đó.
Phạm vi trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ chỉ hạn chế về các
tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
- Lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm
giữ (Điều 95 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày
về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.
Đây là lời khai của những người bị nghi thực hiện tội phạm, chưa có đủ
căn cứ để khởi tố, do đó họ có thể trình bày để làm rõ sự nghi vấn, nhưng họ
cũng có thể bác bỏ sự nghi vấn đó thông quan việc tình bày, tự bào chữa cho
mình. Không được coi họ như bị can, bị cáo khi lấy lời khai.
Lời khai của những người này cần được xác minh đầy đủ, chính xác để
cùng với các chứng cứ khác làm cơ sở cho việc khởi tố.

15
- Lời khai của người tố giác, báo tin về tội phạm (Điều 96 Bộ luật Tố
tụng hình sự)
Người tố giác, báo tin về tội phạm trình bày về những tình tiết liên quan
đến việc họ tố giác, báo tin về tội phạm.
- Lời khai của người chứng kiến (Điều 97 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Người chứng kiến trình bày về những tình tiết mà họ đã chứng kiến trong
hoạt động tố tụng.
- Lời khai của bị can, bị cáo (Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết của vụ án.
Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù
hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can,
bị cáo làm chứng duy nhất để buộc tội, kết tội.
c. Dữ liệu điện tử
Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc
dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện
điện tử (Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính,
mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.
Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức
khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì
tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu
tố phù hợp khác.
Bên cạnh đó, Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thu thập
phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử như sau:
- Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực
trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong
được tiến hành theo quy định của pháp luật.
Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương
tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này

16
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử,
mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng tiến hành phải lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
- Khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thì cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phục hồi,
tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử.
- Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện
trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có
thể đọc, nghe hoặc nhìn được.
- Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo
quy định của Bộ luật này. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm
theo phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.
d. Kết luận giám định, kết luận định giá tài sản
- Kết luận giám định (Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Kết luận giám định là văn bản do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức giám
định lập để kết luận chuyên môn về những vấn đề được trưng cầu, yêu cầu giám
định.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân kết luận về vấn đề được trưng cầu, yêu cầu
giám định và phải chịu trách nhiệm về kết luận đó.
Nếu việc giám định do tập thể giám định tiến hành thì tất cả thành viên
đều ký vào bản kết luận. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi ý
kiến kết luận của mình vào bản kết luận.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với
kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ hoặc chưa đầy đủ
thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Kết luận giám định của người được trưng cầu giám định thuộc trường
hợp phải từ chối hoặc thay đổi thì không có giá trị pháp lý và không được dùng
làm căn cứ để giải quyết vụ án.
- Kết luận định giá tài sản (Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Kết luận định giá tài sản là văn bản do Hội đồng định giá tài sản lập để

17
kết luận về trị giá của tài sản được yêu cầu.
Hội đồng định giá tài sản kết luận trị giá của tài sản và phải chịu trách
nhiệm về kết luận đó.
Kết luận định giá tài sản phải có chữ ký của tất cả thành viên Hội đồng
định giá tài sản. Trường hợp không đồng ý với trị giá của tài sản do Hội đồng
quyết định thì thành viên của Hội đồng ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết
luận.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý với
kết luận định giá tài sản thì phải nêu rõ lý do; nếu kết luận chưa rõ thì quyết
định định giá lại theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản vi phạm quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự, quy định khác của pháp luật về định giá thì không có giá
trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án.

đ. Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là các văn bản
có ghi các tình tiết phản ánh trung thực về vụ án hình sự khi tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự đó và được lập theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
(Điều 102 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Đây là các văn bản có giá trị pháp lý được lập trong quá trình giải quyết
vụ án, nó phản ánh các sự kiện, dấu vết, đồ vật, tài liệu về tội phạm rất tập
trung, sâu sắc, có hệ thống, từ đó cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng xác lập các chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội.
Để những tình tiết được ghi trong biên bản hoạt động tố tụng được coi là
chứng cứ thì biên bản hoạt động tố tụng phải được thực hiện một cách khách
quan, thể hiện toàn bộ diễn biến của hoạt động tố tụng, theo đúng các hình thức,
thủ tục được pháp luật quy định.
e. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp
với chứng cứ khác của vụ án (Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập theo

18
ủy thác của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc tài liệu, đồ vật do cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài gửi đến Việt Nam để ủy thác truy cứu trách
nhiệm hình sự có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật này có
đầy đủ đặc điểm của vật chứng theo quy định tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình
sự thì có thể được coi là vật chứng (Điều 494 Bộ luật Tố tụng hình sự).
g. Các tài liệu, đồ vật khác
Ngoài các tài liệu, đồ vật là vật chứng theo quy định tại Điều 89 Bộ luật
Tố tụng hình sự thì khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu, đồ vật
khác cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nếu các tình tiết được ghi
nhận, thể hiện trong các tài liệu, đồ vật đó nếu phù hợp với thực tế, liên quan
đến vụ án, được thu thập theo quy định của pháp luật (tức có đầy đủ thuộc tính
của chứng cứ) có thể được coi là chứng cứ.

II. CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


1. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
- Khái niệm
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những tình
tiết mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định, làm rõ
để giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật.
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những tình
tiết phải được xác định, làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đó là
những tình tiết liên quan đến người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành
vi phạm tội mà dựa vào đó có thể kết luận được về tội phạm, người hoặc pháp
nhân phạm tội trong vụ án… Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình
sự còn được khoa học Luật Tố tụng hình sự gọi là đối tượng chứng minh.
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Việc xác định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự nhằm
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật. Đây là yêu
cầu rất quan trọng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, là cơ sở pháp lý
cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng trong vụ án; là cơ sở để xác định nội
dung, phương hướng điều tra, truy tố, xét xử, từ đó tập trung lực lượng, phương
tiện cần thiết để tiến hành, không bỏ sót các tình tiết quan trọng dẫn đến giải
19
quyết vụ án thiếu khách quan, toàn diện, chính xác.
- Nội dung của những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự (Điều
85 Bộ luật Tố tụng hình sự)
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chứng minh:
+ Chứng minh về sự việc phạm tội
Quá trình chứng minh, trước hết phải chứng minh có hay không có hành
vi phạm tội xảy ra, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm
tội.
Như vậy nội dung chứng minh về sự việc phạm tội cần phải xác định
trong vụ án bao gồm:
* Có hay không có hành vi phạm tội xảy ra
Việc xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra là xác định sự tồn
tại của sự việc đang nghiên cứu. Sự việc đó có thật hay không, nếu có sự việc
thì nó có dấu hiệu của tội phạm hay không, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì
được quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự. Việc xác định này là
căn cứ cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng, xác định được nội dung,
phương hướng, phạm vi của hoạt động tố tụng, giúp cho việc tổ chức hoạt động
tố tụng phù hợp với vụ án.
* Thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội
Thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội cũng nhằm xác định sự tồn
tại của hành vi phạm tội, xác định được địa điểm tiến hành các hoạt động tố
tụng, tạo thuận lợi cho việc thu thập tài liệu chứng cứ của vụ án, ngăn chặn và
truy bắt tội phạm. Mặt khác, nó cũng giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và quá trình diễn
biến của hành vi phạm tội.
* Các tình tiết khác của hành vi phạm tội.
Các tình tiết khác của hành vi phạm tội là xác định toàn bộ nội dung, diễn
biến của hành vi phạm tội xảy ra như: nội dung diễn biến, phương thức, thủ
đoạn thực hiện hành vi phạm tội, tính chất của tội phạm...
+ Chứng minh về người phạm tội
Chứng minh về người phạm tội là làm rõ ai là người thực hiện hành vi

20
phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm
hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Nếu vụ án đồng phạm phải xác
định rõ vai trò, vị trí từng người trong vụ án.
Như vậy, nội dung chứng minh về người phạm tội bao gồm:
Trước hết phải chứng minh người có hành vi phạm tội là ai, có mấy
người, họ còn sống hay đã chết, xác định lý lịch của họ.
Nhận thức của người thực hiện hành vi phạm tội về hành vi họ đã thực
hiện và hậu quả do hành vi đó gây ra như thế nào, họ có lỗi hay không có lỗi, do
lỗi cố ý hay vô ý.
Xác định người thực hiện hành vi phạm tội có năng lực trách nhiệm hình
sự hay không, bao gồm độ tuổi, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
người thực hiện hành vi phạm tội.
Xác định động cơ, mục đích phạm tội của người thực hiện hành vi phạm
tội. Đối với một số loại tội phạm thì đây là yêu cầu bắt buộc khi Bộ luật Hình sự
quy định đó là dấu hiệu định tội. Đối với một số loại tội phạm, động cơ, mục
đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng việc xác định rõ động cơ,
mục đích phạm tội giúp đánh giá và kết luận chính xác, khách quan về vụ án,
cũng như đưa ra hình thức xử lý người phạm tội phù hợp, đúng quy định của
pháp luật.
+ Chứng minh các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm của bị can, bị cáo không
có ý nghĩa xác định tội danh đối với người phạm tội trong vụ án. Nhưng chúng
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức hình phạt trong phạm vi của
khung hình phạt được Bộ luật Hình sự quy định đối với tội phạm đó.
Quá trình chứng minh cần làm rõ: Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự;
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại
phạm tội được quy định tại Điều 84 Bộ luật Hình sự; những tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được quy định tại Điều 52 Bộ luật
Hình sự; những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại phạm tội được quy định tại Điều 85 Bộ luật Hình sự; các tình tiết
được áp dụng quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

21
phạt được áp dụng (Điều 54 Bộ luật Hình sự).
Cùng với những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự còn
phải chứng minh, làm rõ đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo. Đó là tổng hợp
những yếu tố riêng biệt của bị can, bị cáo có quan hệ trực tiếp đến việc thực
hiện tội phạm bao gồm: giới tình, tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, chuyên
môn, thái độ, cách cư xử, lối sống, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế, quan
hệ gia đình, quan hệ xã hội, tiền án, tiền sự... Những tình tiết này có ý nghĩa
trong việc đề nghị, áp dụng mức, loại hình phạt đối với bị can, bị cáo.
+ Chứng minh tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
Quá trình chứng minh phải xác định rõ thiệt hại đó là thiệt hại về thể chất,
tinh thần hay tài sản. Mức độ thiệt hại gây ra là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng.
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra có ý nghĩa quan
trọng đối với việc xác định tội danh, xác định mức độ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo, xác định mức độ bồi thường thiệt hại.
+ Chứng minh nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Quá trình chứng minh phải thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ để
xác định, làm rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội làm cơ sở cho việc xem xét
mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức
khắc phục sơ hở, thiếu sót trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, quản lý là
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như đề xuất các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra.
+ Chứng minh những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
Để giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, đúng đắn, ngoài
những vấn đề phải chứng minh đã phân tích ở trên, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng còn phải chứng minh, làm rõ những tình tiết khác liên quan đến
việc loại trừ trách nhiệm hình sự (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế
cấp thiết, gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong nghiên cứu, thử
nghiệm khoa học và công nghệ, thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của
cấp trên), miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với cá nhân hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội.

22
Ngoài ra, Điều 416 Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định những vấn đề
cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi là: tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi; điều kiện sinh sống và giáo dục; có
hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục; nguyên nhân, điều kiện, hoàn
cảnh phạm tội.
Đồng thời, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định những vấn đề
cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội, gồm:
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân
theo quy định của Bộ luật Hình sự.
+ Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân.
+ Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây
ra.
+ Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết
khác liên quan đến miễn hình phạt.
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Tóm lại, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là toàn bộ sự
thật vụ án đã xảy ra, đây là những vấn đề cơ bản, chung nhất và bắt buộc trong
giải quyết tất cả các vụ án hình sự, từ đó tạo sự thống nhất trong thực tiễn giải
quyết các vụ án hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, trong thực tế các vụ án hình sự xảy ra rất đa dạng và mỗi loại
tội phạm đều có các dấu hiệu đặc trưng riêng. Cho nên khi giải quyết một vụ án
hình sự cụ thể phải chứng minh được các nội dung, tình tiết, dấu hiệu đặc trưng
của tội phạm, người phạm tội trong vụ án đó.

2. Quá trình chứng minh


Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự là quá trình nhận thức thực
tiễn, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm
giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Đối với mỗi chứng cứ, quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự gồm

23
các giai đoạn thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ.
a. Thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là tổng hợp các hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu
giữ và bảo quản chứng cứ theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự
quy định.
Mỗi chứng cứ đều được xác định từ một nguồn nhất định. Vì vậy, có thể
nói, thu thập chứng cứ thực chất là phát hiện các thông tin, dấu vết, đồ vật, tài
liệu liên quan đến những vấn đề phải chứng minh, ghi nhận, thu giữ, bảo quản
các nguồn chứa đựng các thông tin, tài liệu đó nhằm lưu giữ và bảo vệ giá trị
chứng minh của các chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án.
Việc thu thập chứng cứ phải căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế vụ
án xảy ra, các quy luật khách quan và kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đồng thời, phải lấy những vấn đề phải chứng minh trong vụ án làm cơ sở,
định hướng để thu thập chứng cứ. Khi đã có phương hướng rõ rệt, phải chọn
những vấn đề mấu chốt, trọng tâm, trọng điểm để tập trung lực lượng, phương
tiện thu thập. Việc thu thập chứng cứ càng được tiến hành khẩn trương, khách
quan, toàn diện, tỉ mỉ, đúng hướng thì càng thu được nhiều chứng cứ và thu
được những chứng cứ có giá trị, quan tâm cả những chứng cứ xác định có tội và
chứng cứ xác định vô tội.
Các hoạt động cụ thể khi tiến hành thu thập chứng cứ gồm:
- Phát hiện chứng cứ là việc quan sát, nghiên cứu, xem xét, kiểm tra
những nơi xảy ra sự việc phạm tội, tìm kiếm gặp gỡ những người biết về sự việc
phạm tội hoặc trưng cầu giám định để phát hiện các thông tin, vật chứng, dấu
vết, đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án đang ở đâu, tồn tại dưới dạng nào.
- Ghi nhận, thu giữ chứng cứ là việc mô tả, ghi chép, xác nhận đặc điểm,
tính chất, số lượng, chất lượng, phân loại vào biên bản và thu giữ các thông tin,
vật chứng, dấu vết, đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án theo đúng trình tự, thủ
tục luật định.
- Bảo quản chứng cứ là việc xắp xếp, trông coi và đưa vào lưu giữ các vật
chứng, dấu vết, đồ vật, tài liệu từ khi thu giữ đến khi sử dụng theo đúng quy
định của pháp luật, không để bị hư hỏng, mất mát hay bị tiêu hủy, đánh tráo.
Phương pháp thu thập chứng cứ (Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự)
- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động
24
thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thường là các biện
pháp điều tra như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi
cung bị can, lấy lời khai bị hại…; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ
án.
- Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ
án do người bào chữa, người tham gia tố tụng khác, cơ quan tổ chức hoặc bất cứ
cá nhân nào cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên
bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm
chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những
vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân
nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày
những vấn đề có liên quan đến vụ án.
b. Kiểm tra, đánh giá chứng cứ
- Kiểm tra chứng cứ
Kiểm tra chứng cứ là xem xét chứng cứ đã thu thập được có thỏa mãn
các thuộc tính khách quan, liên quan, hợp pháp của nó hay không. Tức là xem
xét chứng cứ đã thu thập được có phản ánh đúng thực tế khách quan, liên quan
đến vụ án hay không, cũng như việc tiến hành thu thập chứng cứ có tuân thủ
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hay không.
Nội dung kiểm tra chứng cứ: kiểm tra các thuộc tính của chứng cứ đã bảo
đảm chưa; kiểm tra đặc điểm riêng của từng chứng cứ về nguồn gốc, mối quan
hệ với vụ án đã xảy ra xem nó có phù hợp với thực tế không, phạm vi và giá trị
chứng minh của chứng cứ đối với vụ án; kiểm tra mối quan hệ giữa các chứng
cứ với nhau để đảm bảo hệ thống chứng cứ thống nhất, hoàn chỉnh; kiểm tra số
lượng, chất lượng chứng cứ đã thu thập được xem đầy đủ chưa.
Phương pháp kiểm tra chứng cứ:
+ Phân tích từng chứng cứ đã thu thập được về tính khách quan, liên
quan, hợp pháp để khẳng định những thông tin, vật chứng, dấu vết, đồ vật, tài
liệu đã thu thập được có sử dụng làm chứng cứ không;

25
+ So sánh, đối chiếu các chứng cứ với nhau để xác định thuộc tính của
chứng cứ này hay chứng cứ khác, cũng như xem chúng phù hợp hay mâu thuẫn
với nhau, tìm ra các sai sót, mâu thuẫn để khắc phục.
Kiểm tra chéo những chứng cứ được các bên tranh tụng thu thập, giữa
chứng cứ do cơ quan điều tra, viện kiểm sát thu thập với chứng cứ do người bào
chữa thu thập…
+ Thu thập thêm các chứng cứ mới để củng cố, bổ sung cho các chứng cứ
đã thu thập được, cũng như loại bỏ các chứng cứ đã thu thập được.
- Đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là hoạt động nghiên cứu, xem xét của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người bào chữa và những người khác có thẩm quyền
trên cơ sở các quy định của pháp luật để xác định tính khách quan, tính liên
quan, tính hợp pháp của từng chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng hợp các
chứng cứ đã thu thập được trong vụ án hình sự.
Nội dung đánh giá chứng cứ: Chứng cứ cụ thể đã thu thập có đáp ứng đầy
đủ các thuộc tính quy định để được sử dụng chứng minh không; các chứng cứ
thu thập được trong vụ án đã đủ để xác định tất cả các tình tiết của vụ án, từ đó
ra các quyết định tố tụng và giải quyết được vụ án đã xảy ra, kết luận về tội
phạm và người phạm tội hay chưa…
Là một giai đoạn của quá trình chứng minh, đánh giá chứng cứ có mối
quan hệ chặt chẽ với việc thu thập và kiểm tra chứng cứ. Chứng cứ chỉ được
đánh giá sau khi đã được thu thập; việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để thu thập
thêm chứng cứ mới. Đánh giá chứng cứ là biện pháp để kiểm tra chứng cứ;
đánh giá tổng hợp các chứng cứ cũng chính là biện pháp so sánh, đối chiếu
trong kiểm tra chứng cứ…
Việc đánh giá chứng cứ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được
thực hiện trong các giai đoạn tố tụng khác nhau phụ thuộc vào chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng. Việc đánh giá này là độc lập
nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Đánh giá chứng cứ là trách nhiệm của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kết quả đánh giá chứng cứ có liên quan
đến quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc ra
các quyết định tố tụng, giải quyết thực chất vụ án. Việc đánh giá chứng cứ của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ những nguyên tắc nhất
định.
26
Các nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định trong Bộ luật Tố tụng
hình sự, thể hiện:
Đánh giá chứng cứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không ai được can
thiệp cũng như xác định trước giá trị chứng minh của bất kỳ chứng cứ nào khi
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm… thực hiện việc đánh giá
chứng cứ và có các kết luận về vụ án hình sự. Họ thực hiện đánh giá chứng cứ
theo niềm tin nội tâm của mình.
Đánh giá chứng cứ phải trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự.
Chứng cứ phải được đánh giá trên cơ sở ý thức pháp luật với tinh thần
trách nhiệm cao, thái độ khách quan và tình cảm trong sáng.
Chứng cứ phải được đánh giá một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện,
đầy đủ mọi chứng cứ đã thu thập được (khoản 2 Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình
sự). Người đánh giá chứng cứ phải xem xét đánh giá toàn bộ chứng cứ với đầy
đủ giá trị chứng minh, không xem thường hoặc quá coi trọng chứng cứ nào;
xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả chứng cứ trực tiếp và
chứng cứ gián tiếp, cả chứng cứ gốc và chứng cứ sao lại, thuật lại.
Phương pháp đánh giá chứng cứ:
+ Đánh giá từng chứng cứ
Đánh giá từng chứng cứ là việc xác định tính khách quan, liên quan, hợp
pháp của từ chứng cứ riêng lẻ đã thu thập được. Người đánh giá phải xác định
từng chứng cứ đó có xác thực không, có liên quan đến những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án không, được xác định bằng nguồn và được thu thập theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định không.
Muốn đánh giá từng chứng cứ được đúng đắn, người đánh giá phải nắm
vững đặc điểm của từng loại chứng cứ, phải dựa vào kiến thức tổng hợp của bản
thân để xem xét những cái có thật đó có phù hợp với quy luật khách quan
không, từ đó rút ra kết luận về giá trị chứng minh và mức độ chính xác của nó.
Đồng thời, cần nghiên cứu mối quan hệ giữa chứng cứ với những vấn đề phải
chứng minh, xem nó có thể làm sáng tỏ được vấn đề gì, mức độ đến đâu.
+ Đánh giá tổng hợp chứng cứ
Đánh giá tổng hợp chứng cứ việc xác định giá trị chứng minh của từng
chứng cứ trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
27
Việc đánh giá tổng hợp chứng cứ là để xác định đúng đắn giới hạn chứng
minh và kết luận về các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Muốn đánh giá tổng hợp chứng cứ, người đánh giá phải dựa vào mối liên
hệ phổ biến giữa các thông tin, dấu vết, đồ vật, tài liệu trong vụ án, dựa vào các
yếu tố cấu thành chung và cấu thành cụ thể của tội phạm để nghiên cứu, đối
chiếu, sàng lọc và tổng hợp, từ đó rút ra kết luận chính xác về giá trị chứng
minh của toàn bộ chứng cứ, nhận thức được một cách khoa học toàn bộ diễn
biến của vụ án, phục vụ kết luận bản chất vụ án. Muốn đánh giá tổng hợp chứng
cứ được chính xác phải căn cứ vào những chứng cứ đã có trên cơ sở nghiên cứu
một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án.
Đánh giá từng chứng cứ và đánh giá tổng hợp các chứng cứ của vụ án có
mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau. Đánh giá từng chứng cứ là điều kiện
để đánh giá đúng tổng hợp chứng cứ của vụ án. Nếu từng chứng cứ không được
đánh giá chính xác, khách quan thì không thể đảm bảo cho việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Tuy nhiên, khi đánh giá tổng hợp chứng cứ thì các chứng
cứ thu thập được có thể phù hợp với nhau những cũng có thể có những chứng
cứ khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau. Trong trường hợp này, việc đánh
giá tổng hợp chứng cứ nhằm lý giải cho sự khác nhau, sự mâu thuẫn đó để đi
đến nhận thức thống nhất, kết luận về sự thật duy nhất đúng đắn, khách quan
của vụ án làm cơ sở cho việc ra các quyết định tố tụng giải quyết vụ án đó.

28
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích các thuộc tính của chứng cứ. Trong các thuộc tính của chứng
cứ, có thuộc tính nào là quan trọng nhất không? Tại sao?
2. Phân tích các loại nguồn của chứng cứ. Trong các loại nguồn của
chứng cứ, có loại nguồn nào là quan trọng nhất không? Tại sao?
3. Phân biệt chứng cứ và nguồn của chứng cứ.
4. Phân tích những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Trong
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, có vấn đề nào là quan trọng
nhất không? Tại sao?
5. Tại sao không được sử dụng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng
cứ duy nhất để buộc tội, kết tội họ?
6. Phân tích quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự.

29

You might also like