You are on page 1of 5

Câu 1:

Hiểu biết của anh (chị) về nguyên tắc “suy đoán vô tội” trong hoạt động giải quyết các
vụ án hình sự.

Trả lời:
Pháp luật nước ta tuy chưa sử dụng thuật ngữ “Nguyên tắc suy đoán vô tội” nhưng đã
thừa nhận tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội như một trong những nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự. Nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện ở các nội dung sau:
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội
phạm được thực hiện từ khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
của các cơ quan, tổ chức và được thực hiện thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố
bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn
cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trong trường hợp Bản án kết tội không bị
kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng
nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo
thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét
xử tuyên án. Một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Cần lưu ý thuật ngữ người “Bị coi là có tội” khác với thuật ngữ “Người
phạm tội”. Trong pháp luật hình sự thuật ngữ “Người phạm tội” dùng để chỉ người đã
thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu
thành tội phạm. Thuật ngữ “Người phạm tội” chỉ một thực tế khách quan là một người
đã thực hiện tội phạm chứ không tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan
áp dụng pháp luật. Các cơ quan áp dụng pháp luật có thể nhận định đúng thực tế
khách quan, tức là nhận thức đúng người phạm tội, tiến hành khởi tố, truy tố và kết án
người phạm tội, nhưng cũng có thể nhận định không đúng thực tế khách quan đó, dẫn
đến tình trạng bỏ lọt tội, tuyên bố một người phạm tội là người vô tội v.v…Với cách
hiểu thuật ngữ “Người phạm tội” như vậy chúng ta mới có thể lý giải tinh thần các quy
phạm khác có liên quan. Ví dụ, việc miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25 BLHS) chỉ có
thể áp dụng đối với người phạm tội khi có những điều kiện nhất định. Khi quyết định
miễn trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã
phải chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội.
Người phạm tội có thể không bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án nếu thời điểm
phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc họ được
miễn trách nhiệm hình sự. Trong những trường hợp đó, người phạm tội không bị coi là
có tội. Trong trường hợp người phạm tội bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án
đó có hiệu lực pháp luật thì người phạm tội là người “Bị coi là có tội”. Thuật ngữ
“Người phạm tội” và “Người bị coi là có tội” là hai thuật ngữ khác nhau. Người phạm
tội là người thực hiện một hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, còn người
bị coi là có tội là người bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực
pháp luật. Như vậy, người phạm tội có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự,
không bị coi là có tội, còn người bị coi là có tội tức là người phạm tội đã phải chịu một
hậu quả pháp lý trước Nhà nước về việc thực hiện hành vi phạm tội của mình, chịu sự
lên án của Nhà nước mà Tòa án là người đại diện, thông qua việc áp dụng luật hình
sự, kết tội người phạm tội.[1] Vấn đề đặt ra là Điều 72 Hiến pháp và Điều 9 BLTTHS
nước ta đều quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Theo chúng tôi, quy định này cần
được xem xét lại. Bởi vì, một người bị coi là có tội thì có thể phải chịu hình phạt nếu
bản án kết tội của Tòa án đối với người đó có quyết định hình phạt, nhưng một người
bị coi là có tội cũng có thể không phải chịu hình phạt nếu bản án kết tội của Tòa án có
tuyên miễn hình phạt đối với người đó. Như vậy, suy đoán vô tội chỉ bao hàm nội dung
suy đoán một người không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật chứ không cần phải có thêm việc suy đoán một người không phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hình
phạt là do Tòa án quyết định. Một người sẽ không phải chịu hình phạt nếu trong bản
án kết tội của Tòa án đối với người đó tuyên miễn hình phạt chứ không phải là đối với
người đó không có bản án kết tội. Nếu muốn khẳng định bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật là cơ sở để Tòa án quyết định hình phạt 9điều này không thuộc nội
dung suy đoán vô tội) thì tại Điều 72 của Hiến pháp và Điều 9 của BLTTHS cần được
sửa đổi theo hứng: “Không ai có thể bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [2] . 2. Người bị tình nghi,
bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng
minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tại Điều 10
BLTTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án như sau: “Trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo chúng tôi, thực chất, quy
định trên không thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án mà thuộc về nội
dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bởi vì, cùng với việc khẳng định một người
không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật
thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự
vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy
cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực
hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người
đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người
đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng
minh được người đó đã thực hiện hành vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với
người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình. Quá trình đó diễn ra ở cả giai đoạn
điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội
phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về Tòa án.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát, còn Tòa án với chức năng xét xử thì không có trách nhiệm
chứng minh. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không phù hợp. Đúng là Tòa án có
chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng, trong đó
bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên quan để chứng minh hay bác
bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó Tòa án không tham gia vào việc thẩm vấn cùng
với bên buộc tội hay bên gỡ tội mà đứng trung gian như người trọng tài phân xử. Ở
Việt Nam, mô hình tố tụng là mô hình thẩm vấn. Tại phiên tòa, Tòa án tham gia vào
việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do
pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu
phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó mới
ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt đối với họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng
hình sự nước ta, Tòa án cũng có tham gia vào việc chứng minh tội phạm. Người bị
tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có quyền nhưng không có
nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có nghĩa, người bị bắt giữ, bị can,
bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh mình không phạm tội. Ví dụ,
chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ về thời gian xảy ra vụ việc mình
không ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm tội hoặc đưa ra chứng cứ chứng
minh có người khác, chứ không phải mình, đã thực hiện tội phạm… Song, vì lý do nào
đó, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo cũng có thể từ chối chứng minh sự vô tội của mình
thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể coi họ là người phạm tội. Hiện nay,
pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã mặc nhiên thừa
nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi lẽ, theo các quy
định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai
nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ
chối khai báo theo quy định tại Điều 308 BLHS và cũng không bị coi là có tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 BLHS. Trong trường hợp bị can, bị
cáo thành khẩn khai báo thì lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
thậm chí trong giai đoạn điều tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại
phiên tòa lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46
BLHS. Trường hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội khai báo gian dối theo quy định tại Điều 307 BLHS. Mặc dù với những
quy định trên, có thể thấy rằng pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã thừa nhận quyền
im lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Song, một trong những bảo đảm để bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là các quy định của pháp luật tố tụng càng
đơn giản, dễ hiểu và được thông tin đến người dân đầy đủ bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu để tránh sự lạm dụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi
vậy, chúng tôi cho rằng BLTTHS cũng cần được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể
về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm
quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc giải thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can
về quyền im lặng của họ. 3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của
người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị
can, bị cáo. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng
cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị
cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được
sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải
thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là
người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người
vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội
nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội
phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn… Mục đích của tố tụng hình sự là
tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan
người vô tội, không bỏ lọt tọi phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể
xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song
song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp
cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi
hỏi phải thực hiện theo hướng “Thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”.
Tóm lại, với những phân tích trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 9 BLTTHS
hiện hành theo hướng sửa tiêu đề của nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa
có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” thành nguyên tắc “Suy đoán vô
tội” với nội dung như sau: “1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị tình nghi,bị can, bị cáo không có nghĩa vụ
chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng. 3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm
của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi,
bị can, bị cáo”.
Câu 2:
Phân tích biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp?

Trả lời:
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định và hướng dẫn cụ thể tại Bộ Luật
Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung cụ thể như sau: Điều 110. Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp 1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì
được giữ người: a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; b) Người cùng thực hiện
tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và
xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn; c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc
hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Quy định về Bắt người trong trường
hợp khẩn cấp 2. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp: a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; b) Thủ trưởng
đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy
trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố
trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục
trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn
đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực
lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát
biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát
biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi
tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. 3. Lệnh giữ người trong trường hợp
khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định
tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này. 4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời
khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra
quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để
xét phê chuẩn. Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người quy định
tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài liệu liên quan đến
việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan điều tra nơi có sân bay hoặc
bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ,
Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2
Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ
người để xét phê chuẩn. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ
họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này
và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. 5. Hồ sơ đề nghị Viện
kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm: a) Văn bản
đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; b)
Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, quyết định tạm giữ; c) Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; d)
Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; đ) Chứng cứ, tài
liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. 6. Viện kiểm sát
phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này. Trường hợp
cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập phải đưa vào hồ sơ vụ việc, vụ án. Trong
thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

You might also like