You are on page 1of 8

Họ tên: Nguyễn Thị Bảo Yến

Lớp DL 25.01
Mã SV: 18105207
SEMINA LẦN 2
ĐỊA LÝ KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Câu 1:
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp của Việt Nam đã trải qua một số thay đổi quan
trọng kể từ khi đổi mới, một số thay đổi quan trọng của TCLTNN Việt Nam
trong thời gian gần đây:
+ Điều chỉnh và tách ra các khu vực nông nghiệp: Việc điều chỉnh và tách các khu
vực nông nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động nông nghiệp,
đồng thời tăng cường quản lý và khai thác tài nguyên đất đai một cách hiệu quả
hơn.
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp: Để đáp ứng nhu cầu của thị trường
và tăng cường cạnh tranh, Việt Nam đã nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp
bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật mới, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển
sản phẩm, và đào tạo nông dân về kỹ năng chăm sóc cây trồng, vật nuôi, quản lý
đất đai.
+ Chuyển đổi cơ cấu sản xuất: Việt Nam đang chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ các
loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp sang các loại cây trồng và sản phẩm có giá trị
kinh tế cao hơn như cà phê, chè, tiêu, điều, trái cây nhập khẩu, thủy sản, v.v.
+ Sử dụng công nghệ tiên tiến: Việt Nam đang áp dụng công nghệ tiên tiến trong
sản xuất nông nghiệp như sử dụng máy móc, đồng bộ hóa nông nghiệp, sử dụng
các giải pháp IoT (Internet of Things) để giám sát và điều khiển quy trình sản xuất.
+ Thúc đẩy xuất khẩu nông sản: Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp nhằm tăng cường doanh thu cho ngành nông nghiệp. Đặc biệt, Việt
Nam đã xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chủ lực như cà phê, hạt điều, tiêu,
chè, và thủy sản.
- Hiện nay, ở Việt Nam có ba hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chính, đó
là:
+ Tổ chức sản xuất nông nghiệp hộ gia đình: Đây là hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam, trong đó các hộ gia đình sẽ tự quản lý và
sản xuất nông sản trên lãnh thổ của mình. Hình thức này phù hợp với đa số nông
dân tại Việt Nam, tuy nhiên, sản lượng và chất lượng nông sản không được đảm
bảo, doanh thu thấp, khả năng cạnh tranh thấp với thị trường quốc tế.
+ Tổ chức sản xuất nông nghiệp tập thể: Đây là hình thức tổ chức sản xuất nông
nghiệp của các đơn vị tập thể như hợp tác xã, trang trại chuyên sản xuất nông
nghiệp, các doanh nghiệp nông nghiệp lớn, v.v. Hình thức này cho phép tập trung
nguồn lực, áp dụng công nghệ tiên tiến và quản lý chuyên nghiệp hơn, doanh thu và
sản lượng nông sản được đảm bảo hơn, khả năng cạnh tranh trên thị trường cao
hơn.
+ Tổ chức sản xuất nông nghiệp của các dân tộc thiểu số: Đây là hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp của các dân tộc thiểu số, thường bao gồm nông trại nhỏ, dễ
dàng di chuyển và chuyển đổi nơi ở. Hình thức này được xem là đặc trưng văn hóa
của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
- Trong số các hình thức trên, hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập thể được
ưu tiên phát triển bởi tính chuyên nghiệp, khả năng cạnh tranh trên thị trường, khả
năng đáp ứng nhu cầu của thị trường nông sản nội địa và quốc tế. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng cần đồng thời đầu tư và hỗ trợ cho hình thức tổ chức sản xuất nông
nghiệp hộ gia đình để tăng cường vai trò của nông dân trong sản xuất nông nghiệp
và giúp bảo tồn và phát triển các giống cây trồng, động vật bản địa.
Câu 2
- Tập trung hoá là xu hướng tất yếu trong sản xuất công nghiệp vì nó mang lại
nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp và cả cho nền kinh tế quốc gia. Dưới đây là
một số lý do:
+ Tiết kiệm chi phí: Khi tập trung hoá sản xuất, các doanh nghiệp có thể sử dụng
công nghệ tiên tiến và tối ưu hóa sản xuất để tiết kiệm chi phí sản xuất, đồng thời
giảm thiểu chi phí vận hành và quản lý.
+ Tăng năng suất: Tập trung hoá giúp các doanh nghiệp tối đa hóa năng suất sản
xuất bằng cách tập trung nguồn lực, nguồn nhân lực và thiết bị sản xuất tại một nơi.
+ Cải thiện chất lượng sản phẩm: Tập trung hoá giúp các doanh nghiệp dễ dàng
kiểm soát quy trình sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm, từ đó tăng khả năng
cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của thị trường.
+ Tăng khả năng đầu tư và phát triển: Tập trung hoá sản xuất giúp các doanh
nghiệp dễ dàng thu hút vốn đầu tư để phát triển sản xuất và mở rộng quy mô, từ đó
đóng góp tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
- Ở Việt Nam, một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp mới xuất hiện và
đang có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, bao gồm:
+ Khu công nghiệp (KCN): KCN là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp
được xây dựng với mục đích thu hút các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh
trong một khu vực có hạ tầng và các tiện ích phục vụ sản xuất. KCN giúp tập trung
các ngành công nghiệp khác nhau tại một địa điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
vận chuyển, giao thương và tiết kiệm chi phí sản xuất.
+ Cụm công nghiệp (CCN): CCN là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp
gồm nhiều KCN và các doanh nghiệp tư nhân sản xuất tập trung trong một khu
vực. CCN tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, với các cơ sở hạ tầng phục
vụ sản xuất và dịch vụ tài chính, giúp thu hút đầu tư và phát triển kinh tế địa
phương.
+ Khu kinh tế (KK): KK là một hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế được xây dựng
với mục đích thu hút đầu tư và phát triển kinh tế địa phương. KK có hạ tầng, tiện
ích và chính sách kinh tế đặc biệt để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh. KK thường tập trung vào một ngành công nghiệp hoặc một khu vực địa lý
cụ thể.
Các hình thức trên đều đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt
Nam. Việc xây dựng KCN, CCN và KK giúp thu hút đầu tư, tạo việc làm, nâng cao
năng lực sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm, từ đó tăng cường năng lực
cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Câu 3
- Vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận thuộc lãnh thổ quốc gia, hội tụ các điều
kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực về kinh tế, giữ vai trò động lực, đầu
tàu lôi kéo sự phát triển chung của cả nước. Là vùng lãnh thổ nằm trong hệ thống
các vùng của một quốc gia, có tính chất và đặc điểm khác biệt với các vùng địa lý
khác, có đặc thù riêng về kinh tế và mang tính trọng điểm, dẫn dắt trong hệ thống
các vùng trên cả nước.
- Một số lý do vì sao cần phải xây dựng vùng kinh tế trọng điểm:
+ Tập trung tài nguyên và phát triển kinh tế: Xây dựng vùng kinh tế trọng điểm
giúp tập trung tài nguyên như nguồn nhân lực, vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng để phát
triển kinh tế tại các vùng đó. Điều này giúp tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại các vùng kinh tế trọng điểm.
+ Thu hút đầu tư: Vùng kinh tế trọng điểm có tiềm năng phát triển và thường được
xem là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Việc xây dựng các vùng kinh tế trọng
điểm sẽ giúp tăng cường khả năng thu hút đầu tư, từ đó giúp thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và tạo việc làm cho người dân.
+ Tăng cường sức cạnh tranh: Việc xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm giúp
nâng cao sức cạnh tranh cho kinh tế của đất nước, đưa ra các sản phẩm và dịch vụ
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
+ Tạo động lực cho phát triển kinh tế các vùng khác: Xây dựng vùng kinh tế trọng
điểm giúp phát triển các ngành kinh tế có liên quan, từ đó tạo động lực phát triển
kinh tế cho các vùng khác trên cả nước.
Vì vậy, xây dựng vùng kinh tế trọng điểm là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn
cầu ngày càng sâu rộng.
- Các vùng kinh tế trọng điểm nước ta hiện nay: có 4 vùng kinh tế trọng điểm
(KTTĐ) gồm
+Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ: Được Thủ tướng chính phủ phê duyệt và thành
lập vào năm 1997 gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên và Hải Dương.
Đến năm 2004, bổ sung thêm 2 tỉnh là Vĩnh Phúc và Bắc Ninh.
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ được coi là trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế,
văn hóa và khoa học - công nghệ của cả nước, là nơi tập trung các cơ quan Trung
Ương, các trung tâm điều hành của nhiều tổ chức kinh tế lớn cũng như các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu và triển khai khoa học - công nghệ quốc gia. Đây cũng là vùng
hạt nhân, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng đồng bằng sông Hồng
+ Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Được thành lập vào năm 1997 gồm Đà
Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, đến năm 2004 thì bổ sung thêm
tỉnh Bình Định.
Vùng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa các vùng
phía Bắc và phía Nam của nước ta, là cửa ngõ quan trọng thông ra biển của vùng
Tây Nguyên. Đây là vùng có ý nghĩa chiến lược và điều kiện thuận lợi hình thành
một hành lang giao lưu kinh tế,thương mại quan trọng nối Tây Nguyên, Mi-an-ma,
Campuchia và Lào với đường hàng hải quốc tế qua Biển Đông và Thái Bình
Dương. Sự phát triển kinh tế của vùng này sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khai thác hợp lý các nguồn lực về tài nguyên và lao động, giải quyết việc làm, phát
triển cơ sở hạ tầng của các vùng duyên hải như Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ…
+ Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Thành lập vào năm 1998 gồm thành phố Hồ
Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Vào năm 2003, bổ sung
thêm 3 tỉnh là Tây Ninh, Bình Phước và Long An. Đến năm 2009, bổ sung thêm
tỉnh Tiền Giang.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nằm ở vị trí địa kinh tế độc đáo, thuộc các trục
giao thông quan trọng của cả nước, khu vực và quốc tế, có nhiều cửa ngõ vào - ra
thuận lợi, cả về đường sông, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Vùng
này có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội, tập trung đủ các điều kiện và lợi thế phát triển các ngành mũi nhọn, dẫn
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước. 
+ Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long: Được thành lập vào năm
2009 gồm 4 tỉnh thành phố là An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ và Cà Mau.
Vùng vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm dẫn đầu cả
nước về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản nên đóng góp
lớn vào tỷ trọng xuất khẩu nông, thủy sản của cả nước. Bên cạnh đó, vùng kinh tế
này còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp
giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp cho cả
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Câu 4
- Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam vì: nó đóng
góp rất lớn vào nền kinh tế của đất nước. Cụ thể, du lịch là ngành có tốc độ tăng
trưởng cao, có khả năng tạo ra nhiều việc làm và thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước.
+ Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, số lượng khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam trong năm 2019 đã đạt hơn 18 triệu lượt khách, tăng 16,2% so với
năm trước đó. Tổng doanh thu từ du lịch năm 2019 đạt hơn 726 nghìn tỷ đồng, tăng
16,2% so với năm 2018. Trong đó, các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển và
mua sắm đã đóng góp lớn vào doanh thu của ngành du lịch.
+ Đóng góp lớn vào GDP: Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, du lịch
là ngành kinh tế đóng góp lớn nhất cho GDP của Việt Nam với tỷ lệ 9,2%. Trong
đó, ngành du lịch quốc tế đóng góp 55,8% và du lịch nội địa đóng góp 44,2%.
+ Ngoài ra, ngành du lịch còn tạo ra việc làm cho nhiều người, đặc biệt là người
dân tại các địa phương du lịch. Họ có thể là nhân viên khách sạn, nhà hàng, hướng
dẫn viên du lịch, lái xe du lịch, nhân viên bán hàng, v.v. Ngoài ra, du lịch còn góp
phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác như thương mại, sản xuất, nông nghiệp, v.v.
thông qua nhu cầu tiêu dùng của du khách.
+ Quảng bá hình ảnh đất nước và văn hóa Việt Nam: Du lịch là một cách quan
trọng để quảng bá hình ảnh đất nước và văn hóa Việt Nam trên toàn thế giới. Nhờ
vào việc du lịch, nhiều người đã biết đến các địa danh nổi tiếng của Việt Nam như
Hạ Long, Sapa, Phong Nha - Kẻ Bàng, Hội An, Huế, Đà Lạt và thành phố Hồ Chí
Minh.
Vì vậy, du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam vì có khả
năng tăng trưởng nhanh, tạo ra nhiều việc làm và thu hút nhiều đầu tư, đóng góp
lớn vào nền kinh tế của đất nước.
- Các biện pháp để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn:
+ Đầu tư vào hạ tầng và cải thiện chất lượng dịch vụ: Cần đầu tư vào hạ tầng giao
thông, điện, nước, môi trường... để đảm bảo an toàn và thuận lợi cho du khách.
Đồng thời, cần nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra trải nghiệm tốt cho khách hàng.
+ Đẩy mạnh quảng bá du lịch: Cần có chiến lược quảng bá hiệu quả, tăng cường
kênh quảng bá trực tuyến và thông qua các kênh truyền thông đa dạng để thu hút
khách du lịch. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước, các điểm du lịch nổi tiếng
của Việt Nam tới các thị trường khác nhau trên thế giới.
+ Nâng cao năng lực quản lý: Cần đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý và phát triển du lịch.
+ Tăng cường hợp tác giữa các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp: Cần tạo sự kết nối
chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong nước để phát triển mạng lưới du lịch và tăng
cường hợp tác với các đối tác quốc tế.
+ Phát triển các sản phẩm du lịch đa dạng: Cần phát triển các sản phẩm du lịch đa
dạng, phong phú và độc đáo, tạo ra sự khác biệt so với các nước khác. Không chỉ
tập trung vào các điểm du lịch nổi tiếng, mà còn tìm kiếm, phát triển các sản phẩm
du lịch mới, độc đáo, đa dạng hóa các loại hình du lịch như du lịch nghỉ dưỡng, du
lịch sinh thái, du lịch địa phương, du lịch ẩm thực và văn hóa.
+ Đẩy mạnh công nghệ ứng dụng: Cần ứng dụng công nghệ vào du lịch, tạo ra các
sản phẩm và dịch vụ tiện ích cho khách hàng.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư vào ngành du lịch: Thu hút các nhà đầu tư
trong và ngoài nước vào ngành du lịch, cung cấp các chính sách hỗ trợ và khuyến
khích đầu tư, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động

+ Tăng cường quản lý và giám sát: Tăng cường kiểm soát, quản lý các hoạt động
du lịch để đảm bảo an toàn cho khách du lịch và bảo vệ môi trường, cảnh quan du
lịch.
Nếu thực hiện tốt các giải pháp trên, ngành du lịch có thể trở thành một ngành kinh
tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển kinh tế và nâng
cao đời sống của người dân.

You might also like