You are on page 1of 3

Model 4

Biểu đồ cung cấp thông tin về thời gian điển hình mà những bệnh nhân dành cho bác sĩ ở các nước
khác nhau, được chia thành các nhóm tuổi.

Chúng ta có thể thấy rằng xu hướng phổ biến nhất là thời gian tăng liên tục theo tuổi. Ví dụ như,
những con số ở Pháp đã tăng hơn 2 lần từ 16 đến 38 phút giữa những người ít tuổi nhất và những người
lớn tuổi nhất. Cũng như vậy, những con số của Mỹ tăng từ 13 đến 31, Anh tăng từ 9 đến 21, và Ý từ 17
đến 29. Đây đều là những sự tăng thêm đáng kể. Chi-lê cũng tăng liên tục nhưng tăng ít hơn, từ 32 đến
39 phút.

Brazil cũng cho thấy sự tăng trưởng, mặc dù sau 60 tuổi có sự suy giảm từ 26 có thể đến 20. Ấn Độ có
sự tăng giảm rõ rệt hơn, đạt mức cao nhất là 21 phút đối với những người trong độ tuổi 40 đến 60, giảm
xuống còn 11 phút với những người 70 tuổi trở lên.

Có 2 quốc gia là ngoại lệ. Nhật Bản giao động giữa các nhóm tuổi, nằm trong khoảng 12 đến 16 phút.
Kenya giảm dần khi tuổi tăng lên, từ 15 phút đối với nhóm người nhỏ tuổi nhất đến 10 phút đối với
nhóm người lớn tuổi nhất.

Nói chung thì thời gian dành cho bác sĩ thường tăng theo độ tuổi, ngoại trừ Nhật Bản và Kenya.

Model 5

Những biểu đồ cho thấy vận tốc trung bình của giao thông thành phố trong khoảng thời gian 50 năm,
với sự dự báo dành cho tương lai, và số lượng khu đô thị theo quốc gia.

Chúng ta có thể thấy rằng xu hướng thông thường là tốc độ tăng rồi sau đó sẽ giảm. Ví dụ như ở
Pháp, nó tăng từ 60kph vào năm 1970 đến mức cao nhất là 86kph vào năm 1990, và theo dự đoán giảm
xuống 52kph vào năm 2020. Tương tự như vậy, chúng ta thấy Mỹ đạt mức cao nhất là 57kph vào năm
1990, cuối cùng giảm xuống 43kph. Anh và Nga cũng có xu hướng tương tự, tăng lần lượt lên tới 56 và
72kph vào năm 2010 trước khi giảm xuống dưới mức ban đầu. Điều tương tự cũng xảy ra ở Canada với
sự giảm sút từ 69kph xuống còn 64kph mặc dù đạt mức cao nhất là 73kph.

Mặc dù vậy, Chi-lê, giao động khoảng 51kph, nhưng vẫn không thay đổi trong khoảng thời gian này.
Ý, Brazil và Tây Ban Nha, ngược lại, cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt, lần lượt kết thúc ở mức 58, 57 và
61kph.

Nói chung thì dữ liệu không cho thấy sự tương quan nào giữa việc tăng diện tích đô thị và tốc độ giao
thông trung bình.

Model 6

Các bảng cho ta thấy số lượng hàng hóa xuất khẩu được vận chuyển qua Rotterdam trong khoảng thời
gian 10 năm, và mức thuế áp dụng với những loại hàng hóa tại điểm đến.

Về mặt khối lượng, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhẹ, đạt mức 18600 triệu tấn vào năm 2012. Mặc
dù vậy, trong tổng số này, hầu hết các khu vực đều có sự suy giảm về mặt khối lượng. Ví dụ như, châu
Âu – điểm đến lớn nhất – đã giảm từ 6900 triệu xuống 6400 triệu, và Mỹ - lớn thứ 2 – giảm khoảng 10%
xuống còn 3900 triệu. Trung Quốc giảm nhẹ xuống còn 2300 triệu, và Mỹ Latinh giảm từ 1800 xuống còn
1500 triệu. Những khu vực ‘khác’ giữ nguyên ở mức 350 triệu. Ngược lại, khối lượng ở châu Á Thái Bình
Dương và Úc tăng hơn 3 lần, lần lượt chạm mốc 2550 và 2300 triệu tấn.

Về mức thuế, chúng ta thấy rằng mức thuế tăng đáng kể ở tất cả các khu vực mà có sự suy giảm về
mặt khối lượng, đạt mức 2% ở Mỹ, Trung Quốc và Mỹ Latinh, và tăng từ 5% đến 8% ở châu Âu. Những
khu vực ‘khác’ giữ nguyên thuế ở mức 2% trong khi những khu vực tăng trưởng kinh tế giảm thuế mạnh,
từ 5% xuống 2% ở châu Á Thái Bình Dương và giảm gấp 4 lần xuống còn 1% ở Úc.

Tổng kết lại, thập kỷ đã cho thấy một mối liên hệ rõ ràng giữa lượng hàng xuất khẩu tăng và mức thuế
giảm.

Model 7

Biểu đồ cho thấy những sự thật về việc sử dụng TV hàng ngày của trẻ em ở những quốc gia khác nhau,
cộng với tỉ lệ hoàn thành 3 cấp học.

Đối với thời gian xem TV mỗi ngày, Mỹ, Canada và Anh có số giờ cao nhất là 4 giờ. Tiếp đến là Trung
Quốc và Ý với mức 3 giờ, Brazil và Ấn Độ mỗi nước 2 giờ, và Malta và UAE chỉ có 1 giờ mỗi ngày, chỉ bằng
¼ so với mức cao nhất được ghi nhận.

Chuyển sang thành tích học tập, chúng ta thấy rằng 100% trẻ em hoàn thành chương trình học sơ cấp ở
Ý, Canada và Malta. Những nước khác đều khoảng 90%, ngoại trừ Ấn Độ khoảng 80%. Việc hoàn thành
cấ học THPT nằm trong khoảng 100% ở Malta tới mức khoảng 90% (Ý, Canada, UAE) và khoảng 80%
(Anh, Mỹ và Brazil.) Trung Quốc và Ấn Độ có mức thấp nhất, lần lượt là 68% và 60%. Đối với việc hoàn
thành Đại học, Anh có mức cao nhất là 39%, theo sau là Canada (32%) và Mỹ (29%.) Ý, Trung Quốc và
Brazil đều ở mức khoảng 20%. Những con số thấp nhất là của Malta và UAE (lần lượt là 18% và 19%) và
cuối cùng là Ấn Độ chỉ 12%.

Tổng kết lại thì, việc sử dụng TV và trình độ học vấn rất khác. Điều đáng chú ý là các quốc gia có số giờ
xem TV mỗi ngày cao nhất cũng là những quốc gia có tỷ lệ đạt được trình độ Đại học cao nhất.

Model 8

Những biểu đồ cung cấp dữ liệu về 4 điểm đến của chuyến bay từ Úc về số lượng thành viên phi hành
đoàn, số lượng khách khiếu nại và trọng lượng hành lý trung bình với mỗi hành khách.

Phi hành đoàn lớn nhất (15 người) cần thiết cho chuyến bay tới Đức, theo sau là Indonesia (11) và
Malaysia (8). Điểm đến yêu cầu phi hành đoàn ít nhất cho mỗi chuyến bay là New Zealand (với 6.) Xu
hướng này nói lên khối lượng hành lý mỗi trung bình của mỗi hành khách, với Đức có khối luwognj hành
lý trung bình nặng nhấ 38kg, và Indonesia nặng thứ 2 ở mức 32kg. Những chuyến bay tới Malaysia trung
bình mang 30kg đối với mỗi hành khách, và New Zealand có con số nhẹ nhất là 15kg. Tuy nhiên, mô hình
khiếu nại của khách hàng bị đảo ngược với các chuyến bay tới New Zealand có nhiều khiếu nại nhất
(trung bình 6 lần trên mỗi chuyến), tiếp theo làn Indonesia và Malaysia với 3 lần mỗi chuyến. Những
chuyến bay tới Đức có ít khiếu nại nhất, với chỉ 1 lần mỗi chuyến.
Nhìn chung thì, rõ rành là các chuyến bay đến đức yêu cầu phi hành đoàn và hành lý nhiều nhất, trong
khi các chuyến bay tới New Zealand yêu cầu ít nhất. Tuy nhiên, hành khách đến Đức ít khiếu nại nhất
trong các chuyến bay trong khi các chuyến bay đến New Zealand có nhiều khiếu nại nhất. Các chuyến
bay đến Malaysia và Indonesia nằm giữa 2 mức này.

You might also like