You are on page 1of 8

Question 1:

1. Bảng số liệu biểu thị tổng số lượng tiền mà 4 công ty sản xuất ô tô chi dùng cho những loại
hình quảng cáo khác nhau ở UK vào năm 2002.

2. Rõ ràng là Renault chi số tiền lớn nhất vào quảng cáo trong năm 2002. Thêm vào đó, Quảng
cáo TV là hình thức quảng cáo lớn nhất trong khi điều ngược lại là đúng với quảng cáo Cinema.

3. Vào năm 2002, Cetirizine chi tiêu 70 triệu $ cho Quảng cáo TV trong khi số liệu choVauxhall
thấp hơn 1 chút, là 65 triệu $. Trong khi đó, 59 triệu $ được chi tiêu cho quảng cáo TV bởi
Renault, và chỉ 45 triệu $ bởi Rover. Xét về quảng cáo báo chí, tổng lượng tiền tiêu bởi Renault
lại là lớn nhất, với 45 triệu $, cao hơn một chút so với số tiền của Rover là 38 triệu $. Ngược
lại, Vauxhall và Cetirizine chỉ tiêu lần lượt là 8 triệu đô và 12 triệu đô cho quảng cáo báo chí.
4. Trong số các loại hình quảng cáo khác, quảng cáo ở rạp chiếu phim và ngoài trời chịu/ chiếm
chi phí nhỏ nhất, với ít hơn 10 triệu đô được chi tiêu bởi mỗi công ty. Cũng đáng chú ý là chi
tiêu cho Quảng cáo radio bởi tất cả các công ty sản xuất xe hơi đều tương tự nhau, vào khoảng
15 triệu $ mỗi công ty.
Question 2:

1. Biểu đồ cột minh hoạ tổng lượng rác thải được thu gom bởi 1 trung tâm tái chế trong vòng 5
năm liên tiếp , bắt đầu từ năm 2011.

2. Rõ ràng là tổng lượng rác được thu gom mỗi năm đi theo những xu hướng tương tự và chỉ dao
động một chút. Thêm vào đó, trong khi Rác thải Giấy là loại được thu gom nhiều nhất trong số
rác thải tái chế, thì điều ngược lại là đúng đối với Rác thải Vườn trong toàn giai đoạn.

3. Vào năm 2011, Giấy là loại rác thải được thu gom nhiều nhất, là dưới 60 tấn 1 chút, trong khi
đó khoảng 50 tấn Rác thải Kính được thu gom. Trong khi đó, có khoảng xấp xỉ 35 triệu tấn Vỏ
lon Rác được thu gom, và 32 tấn Rác thải nhựa.
4. Tổng lượng giấy thải chạm mốc thấp nhất vào khoảng 40 tấn vào năm 2013 trước khi tăng lên
hơn 70 triệu tấn vào năm 2015, cái mà (đó là) số liệu cao nhất cho tất cả những năm được
khảo sát. Trong khi đó, số liệu cho những loại hình Rác thải khác đều chứng kiến/ trải qua
những dao động trong suốt quá trình, với 52 tấn Kính, 39 tấn vỏ lon và 35 tấn Rác thải vườn
được thu gom vào năm cuối cùng.
Question 3:

1. Biểu đồ tròn biểu thị tỉ lệ phần trăm người tình nguyện trong những tổ chức khác nhau vào
năm 2008 và năm 2004.

2. Rõ ràng là trong khi số lượng tham gia tình nguyện trong những tổ chức môi trường, thể thao,
chăm sóc sức khoẻ tăng lên, điều ngược lại là đúng với những loại hình tổ chức khác. Thêm
vào đó, số lượng phần trăm của những tình nguyện viên sức khoẻ là nhỏ nhất trong suốt 2
năm.

3. Vào năm 2008, tình nguyện trong các tổ chức giáo dục là lựa chọn phổ biến nhất, chiếm gần ¼
tổng số tình nguyện viên, trong khi đó lần lượt 21% và 18% người tình nguyện tham gia vào
những dự án môi trường và nghệ thuật. 15% tình nguyện viên làm việc trong các tổ chức thể
thao, và 15% khác trong các tổ chức khác, trong khi đó chỉ có 6% ( số lượng người) tham gia
tình nguyện (v) trong lĩnh vực sức khoẻ.
4. Vào năm 2014, một số lượng lớn hơn nhiều những người tình nguyện làm việc trong các tổ
chức môi trường và thể thao so với những lĩnh vực khác, lần lượt là 29% và 25%. Trong khi đó,
số liệu cho những người tình nguyện trong nghệ thuật và lĩnh vực khác đều giảm còn 6%. Cũng
có một sự sụt giảm nhẹ trong số người tình nguyện trong các tổ chức giáo dục, là 17%, trong
khi đó tình nguyện trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ vẫn là sự lựa chọn ít được thích nhất, chỉ
là 8%.
Question 4:
1. Biểu đồ cột minh hoạ số lượng trung bình những năm Nam và Nữ đi học, trong khi đó biểu đồ
tròn thể hiện những cấp độ/ trình độ giáo dục khác nhau đạt được bới những người trưởng
thành ở Singapore vào năm 2000 và năm 2010.

2. Nhìn chung, có 1 sự gia tăng trong số lượng năm, đối với cả Nam và Nữ, mà dành cho giáo dục.
Cũng có thể thấy rằng số liệu cho Nam cao hơn một chút trong toàn bộ giai đoạn được biểu
thị. Thêm vào đó, cấp độ giáo dục mà mọi người đạt được đã tăng lên trong giai đoạn này.

3. Có thể nhìn thấy từ biểu đồ cột rằng, vào năm 2000, công dân Nam đi học/ đến trường trung
bình là 8.9 năm, cái mà tăng đáng kể lên chỉ dưới 12 năm vào năm 2010. Ngược lại, số lượng
năm Nữ đi học vào năm 2000 chỉ là 8. Số liệu này giữ nguyên/ không đổi cho tới năm 2008, và
sau đó tăng lên 8.9 năm vào năm 2010.

4. Theo như biểu đồ tròn, vào năm 2000, gần 1/3 dân số Singapore hoàn thành học trung học. Số
liệu cho những người mà chỉ hoàn thành Tiểu học và Cấp 2 khá cao, là xấp xỉ 26% mỗi nhóm,
so với ít hơn 10% người Singapore những người mà có được bằng cử nhân hoặc thạc sĩ. Tuy
nhiên, cấp độ giáo dục (mà) mọi người đạt được đã tăng trong 10 năm, với gàn 2/3 dân số có
bằng đại học, và chỉ 2.1% bỏ học sau tiểu học.

You might also like