Professional Documents
Culture Documents
Truyền thông TG từ góc nhìn TKĐH VN hiện đại
Truyền thông TG từ góc nhìn TKĐH VN hiện đại
Ngô Anh Cơ
Hà Nội - 2018
Công trình được hoàn thành tại:
Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại:
Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
32 Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội
Vào hồi..........giờ.........ngày...........tháng.........năm 2018
Tiểu kết
11
Mặc dù TKĐH Việt Nam đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, hoàn toàn thiếu vắng những nghiên cứu để cập
đến TTTG trong TKĐH, trong khi đó TKĐH Việt Nam đã và đang
phát triển theo hướng truyền thông và giao tiếp, là biểu hiện sinh động
về TTTG. Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH, nguồn tài liệu hỗ trợ
chủ yếu là gián tiếp hoặc có nội dung gần.
Việc xác định một số thuật ngữ, khái niệm có liên quan là cơ sở
để xác định hướng tiếp cận nghiên cứu và lý thuyết áp dụng. Trong
nhiều lý thuyết liên quan đến nghiên cứu truyền thông, có hai lý thuyết
liên quan trực tiếp đến nghiên cứu TTTG là: lý thuyết Gestalt và lý
thuyết Ký hiệu học. TKĐH Việt Nam hiện đại là đối tượng nghiên cứu
của TTTG trong nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, việc khái quát về
TKĐH Việt Nam hiện đại từ 1986 đến nay và xác định mối quan hệ
giữa TKĐH với TTTG là cần thiết.
Chương 2
TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC QUA TẠO HÌNH
CỦA THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Dấu hiệu truyền thông thị giác thông qua ngôn ngữ tạo
hình trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại.
2.1.1. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố màu sắc trong
thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
Dấu hiệu TTTG từ yếu tố màu sắc trong TKĐH được hình thành
từ ba phương pháp mô tả màu sắc: Phương pháp khoa học, phương
pháp so sánh và phương pháp chủ quan.
2.1.2. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố hình trong thiết
kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
Trong cảm nhận TTTG, ngoài dấu hiệu màu sắc bộ não phản ứng
với những thuộc tính phổ biến của hình, gồm ba hình thức: điểm,
đường, và hình dạng.
12
2.1.3. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố không gian trong
thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
Yếu tố không gian trong tạo hình của TKĐH nhìn ở góc độ TTTG
không đơn thuần mang ý nghĩa không gian "cơ học", không gian còn
hàm chứa chiều sâu ý nghĩa TTTG. Yếu tố không gian trong tạo hình
của TKĐH giúp người xem phân biệt đối tượng được cho là quan trọng.
Không gian hỗ trợ nhận thức ý nghĩa TTTG qua tạo hình trong TKĐH
bao gồm: không gian, kích thước, màu sắc, ánh sáng, kết cấu, can thiệp,
thời gian, và phối cảnh.
2.1.4. Dấu hiệu truyền thông thị giác từ yếu tố chuyển động
trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
Các dấu hiệu màu sắc, hình và không gian tham gia vào sự
chuyển động để tạo nên những phẩm chất cơ bản của hình ảnh, làm
cho các tế bào trong vỏ não đáp ứng thị giác một cách nhanh chóng
với một kích thích. Nghiên cứu TTTG từ góc nhìn TKĐH liên quan
đến hai loại chuyển động: chuyển động đồ hoạ và chuyển động ngụ ý.
Chuyển động đồ hoạ do người làm TKĐH chủ động thiết lập, để buộc
mắt người xem phải di chuyển theo. Chuyển động ngụ ý hay còn là
chuyển động ngầm được hình thành bởi người xem tự cảm nhận một
hình ảnh duy nhất trong sự yên tĩnh của mắt.
2.2. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác
qua tạo hình của thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
2.2.1. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác
giống nhau và không giống nhau trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam
hiện đại
Luật - giống nhau trong lý thuyết Gestalt cho rằng những dấu
hiệu tương tự sẽ được tự động nhóm lại bởi bộ não. Sự giống nhau
hoặc khác nhau của các dấu hiệu thị giác đến từ màu sắc, hình dạng,
kích thước, cấu trúc, giá trị, và hướng.
13
2.2.2. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác
tiệm cận và không tiệm cận trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam hiện đại
Sự tiệm cận trong cảm nhận dấu hiệu TTTG là người xem liên
kết chặt chẽ hơn với những đối tượng ở gần nhau hơn là những đối
tượng xa. Tương tự như vậy, trong TKĐH hai yếu tố đứng gần nhau
sẽ được xem là liên quan gần gũi hơn so với một yếu tố ở cách đó rất
xa. Tiệm cận cũng là một yếu tố thị giác phản ánh về không gian do
người xem tưởng tượng.
2.2.3. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác kết
nối liên tục và không kết nối liên tục trong thiết kế đồ hoạ Việt Nam
hiện đại
Bộ não không thích sự thay đổi đột ngột hoặc bất thường trong
một dòng chuyển động của mắt. Nói cách khác, não tìm càng nhiều
càng tốt sự tiếp nối trơn tru của một chuyển động đồ hoạ hay ngụ ý
trong TKĐH để hình dung về ý nghĩa. Các dòng chuyển động hình
thành có thể là một hình minh hoạ, hoặc một số đối tượng được sắp
xếp cùng nhau theo một đường tưởng tượng. Người xem quan tâm đến
những đối tượng thuộc về một dòng liên tục và tách ra về mặt tinh
thần với những đối tượng không thuộc dòng đó.
2.2.4. Truyền thông thị giác từ các tập hợp dấu hiệu thị giác có
chung đặc điểm và không có chung đặc điểm trong thiết kế đồ hoạ
Việt Nam hiện đại
Trong TKĐH, nhà thiết kế sử dụng các yếu tố đồ hoạ có chung
đặc điểm về màu sắc, hình, không gian và chuyển động để hướng tâm
trí người xem đến nội dung chính của thông điệp truyền thông. Tuy
nhiên, một trong số những yếu tố đó không có cùng đặc điểm sẽ tạo
nên sự căng thẳng cho người xem, bởi họ không nhìn thấy nó như là
một phần của toàn bộ đang phát triển theo một định hướng.
Tiểu kết
14
Chương 2, trình bày hai nội dung quan trọng là tiền đề để người
xem hiểu được ý nghĩa TTTG trong TKĐH nói chung và TKĐH Việt
Nam hiện đại nói riêng, đó là vai trò của dấu hiệu và tập hợp dấu hiệu
thị giác liên quan đến yếu tố TTTG qua tạo hình của TKĐH Việt Nam
hiện đại. Dấu hiệu TTTG trong TKĐH được người xem tiếp nhận
thông qua phản ứng thị giác vỏ não với bốn thuộc tính căn bản là: màu
sắc, hình, không gian và chuyển động Dấu hiệu đầu tiên mới chỉ là
những ám hiệu có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Lý thuyết Gestalt
chỉ ra bốn luật thị giác trong việc liên kết các dấu hiệu thị giác đơn lẻ
thành những tập hợp dấu hiệu thị giác có sự giống nhau, sự tiệm cận,
sự liên tục, và đặc điểm chung. Sự liên kết các dấu hiệu thị giác theo
nguyên tắc Gestalt thực chất diễn ra một cách bản năng và tự động.
Các nhà TKĐH thường hay sử dụng hiệu ứng "bẻ cong" những luật
này, để tạo nên những hình ảnh đặc biệt và đáng nhớ. Bốn luật Gestalt
là quan trọng với người xem để hiểu ý nghĩa một thông điệp TTTG
trong TKĐH - hiểu ý nghĩa của yếu tố thành phần sẽ giúp người xem
hiểu rõ hơn toàn bộ ý nghĩa của thông điệp TTTG.
Chương 3
TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC QUA BIỂU ĐẠT VÀ TIẾP NHẬN
TÍN HIỆU THỊ GIÁC TRONG THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI
3.1. Truyền thông thị giác qua tính chất của tín hiệu thị giác
3.1.1. Truyền thông thị giác qua tính hình tượng của tín hiệu
thị giác
Tín hiệu mang tính hình tượng, đơn giản là để giải thích cho tất
cả những điều có ý nghĩa mà nó đại diện. Ví dụ, hình mũi tên là gần
giống với ý nghĩa chỉ "phương hướng" mà hình mũi tên làm đại diện.
Trong xã hội tiêu dùng hiện đại, TKĐH đang hướng đến sự tối giản
15
bằng cách sử dụng nhiều hơn những tín hiệu mang tính hình tượng để
giao tiếp với người xem.
3.1.2. Truyền thông thị giác qua tính chỉ dẫn của tín hiệu thị
giác
Tính chất của tín hiệu mang tính chỉ dẫn là sự kết nối thông
thường và hợp lý với những ý nghĩa hay ý tưởng mà nó đại diện, nó
không phải là sự tương đồng trực tiếp với đối tượng. Do đó việc giải
thích ý nghĩa một tín hiệu thị giác mang tính chỉ dẫn thường là khó và
mất nhiều thời gian hơn so với dấu hiệu mang tính hình tượng. Dấu
hiệu thị giác mang tính chỉ dẫn trong TKĐH để người xem chuyển đổi
tín hiệu nhìn thấy sang ý nghĩa khác.
3.1.3. Truyền thông thị giác qua tính biểu tượng của tín hiệu
thị giác
Loại thứ ba của tín hiệu thị giác là trừu tượng nhất. Các tín hiệu
không có sự kết nối hợp lý hoặc cùng cách biểu đạt cho những ý nghĩa
mà nó đại diện. Vì lý do đó, các yếu tố văn hoá, xã hội ảnh hưởng
nhiều đến ý nghĩa tín hiệu mang tính biểu tượng. Từ ngữ, con số, màu
sắc, cử chỉ, cờ, trang phục, âm nhạc và các hình ảnh tôn giáo tất cả
đều được coi là biểu tượng. Bởi vì những biểu tượng thường có gốc rễ
sâu xa trong văn hoá của một nhóm đối tượng cụ thể, với ý nghĩa được
truyền từ đời này qua đời khác. Tín hiệu mang tính biểu tượng có ý
nghĩa hơn tín hiệu mang tính hình tượng và chỉ dẫn.
3.2. Truyền thông thị giác qua các mã tín hiệu thị giác
Tất cả các yếu tố tạo nên một thông điệp hình ảnh trong TKĐH
Việt Nam, cho dù là dẫn dắt chính hay chỉ hỗ trợ đều được diễn ra cùng
một thời điểm trong mắt người xem, họ tự do xem xét chúng trong bất
kỳ thứ tự nào. Mỗi bộ phận là một liên kết tạo thành một chuỗi các ý
nghĩa, sự liên kết đó được gọi là mã, mỗi mã là sự pha trộn của nhiều ý
tưởng và yếu tố. Vai trò của mã trong TKĐH nói chung là để biểu đạt
16
và giải thích ý nghĩa của các tín hiệu thị giác, sự tổng hoà ý nghĩa các
tín hiệu thị giác truyền tải ý nghĩa một thông điệp truyền thông hay nói
cách khác đó chính là cái được biểu đạt thông qua tạo hình của TKĐH.
Lý thuyết ký hiệu học chỉ ra bốn loại mã: mã hoán dụ, mã tương tự, mã
hoán vị và mã súc tích. Trong TKĐH, vai trò của các mã tín hiệu thị
giác trong biểu đạt ý nghĩa TTTG rất ít khi xuất hiện đơn lẻ mà thường
kết hợp cùng nhau hoặc tự thân trong mỗi hình thức mã đã ẩn chứa vai
trò của các mã tín hiệu khác. Mã hoán dụ là một nhóm tín hiệu thị giác
cho người xem giả định về ý nghĩa về những gì họ nhìn thấy. Bằng cách
đó mã hoán dụ liên quan nhiều đến tính chất chỉ dẫn của tín hiệu thị
giác. Mã tương tự là một nhóm tín hiệu thị giác để người xem so sánh
trong tâm trí, nó hỗ trợ đến ký ức và liên tưởng. Mã hoán vị, bất cứ khi
nào có một chuyển đổi ý nghĩa từ các nhóm tín hiệu thị giác, một mã
hoán vị được sử dụng. Mã súc tích, trong nhiều khía cạnh là loại mã thú
vị nhất. Mã súc tích, là một nhóm tín hiệu thị giác kết hợp lại để tạo
thành một thông điệp hỗn hợp mới.
3.3. Tiếp nhận truyền thông thị giác và các yếu tố tác động
Người xem nhìn được và hiểu ý nghĩa đúng của đối tượng là
thông qua một số hoạt động tinh thần như: ký ức, đối chiếu, kỳ vọng,
chọn lọc, quen thuộc, sự nổi bật, sự hoà hợp, văn hoá, và ngôn ngữ.
3.3.1. Ký ức trong tiếp nhận truyền thông thị giác
Ký ức là hoạt động tinh thần quan trọng nhất liên quan đến tiếp
nhận chính xác ý nghĩa TTTG trong TKĐH, ký ức tạo sự liên kết thực
tại với tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ bao gồm cả hình ảnh
của đối tượng. Ký ức là hoạt động tinh thần đầu tiên diễn ra trong quá
trình nhận thức ý nghĩa TTTG. Trong một TKĐH, nếu ở đó không có
những tín hiệu thị giác làm cho người xem liên hệ với quá khứ hoặc
những gì đã từng trải nghiệm, họ sẽ nhanh chóng bỏ qua.
3.3.2. Sự so sánh trong tiếp nhận truyền thông thị giác
17
Con người thường hình thành những đặc điểm, tính cách của đối
tượng nhìn thấy thông qua các hình dạng kỳ quặc do cảm nhận hay
nghĩ đến từ đó trạng thái tinh thần so sánh với ký ức hình thành tổng
quát về đối tượng đó.
3.3.3. Sự kỳ vọng trong tiếp nhận truyền thông thị giác
Sự kỳ vọng là hoạt động tinh thần của người xem xảy ra trước khi
họ nhìn thấy một sản phẩm TKĐH hoặc một đối tượng trong thực tế.
Người xem thường kỳ vọng quá nhiều vào một hình ảnh hoặc tên gọi
của sản phẩm... trước khi nó xuất hiện, do vậy thường dẫn đến nhận
thức sai hoặc bỏ qua ý nghĩa đích thực của thiết kế.
3.3.4. Sự lựa chọn trong tiếp nhận truyền thông thị giác
Hầu hết những gì mọi người nhìn thấy từ một thông điệp hình
ảnh là một trải nghiệm thị giác phức tạp, nó không phải là một phần
của phản ứng có ý thức, nó hoàn toàn vô thức và tự động, do đó một
số lượng lớn các tín hiệu thị giác nhập vào và rời khỏi tâm trí người
xem mà không được xử lý. Người xem thường chỉ tập trung vào
những chi tiết quan trọng trong hình ảnh. Khi mắt tìm thấy đối tượng
được cho là quan trọng hoặc được kỳ vọng, tâm trí người xem đột
nhiên bị gắn chặt vào đối tượng đó và thường bỏ qua những đối tượng
khác cũng góp phần làm nên ý nghĩa của thông điệp TTTG.
3.3.5. Yếu tố văn hoá và ngôn ngữ trong tiếp nhận truyền thông
thị giác
Văn hoá có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống con người
thông qua các hoạt động như nói chuyện, trang phục, ẩm thực, ứng sử
xã hội, thực hành tôn giáo, các biểu tượng tôn giáo, quốc huy và quốc
kỳ, một kiểu tóc, trang phục...tất cả đều có ý nghĩa riêng và hàm chứa
yếu tố văn hoá. Yếu tố văn hoá - văn hoá truyền thống sử dụng trong
TKĐH cho mục đích truyền thông giao tiếp là nhân tố tác động mạnh
đến hoạt động tinh thần, làm cho đối tượng tiếp nhận thông điệp thuận
18
lợi trong việc liên hệ với ký ức. Tín hiệu mang yếu tố văn hoá thường
là tín hiệu nổi bật nên được lựa chọn đầu tiên bởi sự quen thuộc và dễ
hoà hợp để từ đó liên tưởng với những gì đã biết. Yếu tố văn hoá, giúp
cho nhà thiết kế mã hoá thông điệp thuận lợi, người nhận thông điệp
có khả năng giải mã nhanh hơn để nhận thức ý nghĩa sâu sắc và ghi
nhớ lâu hơn thông điệp truyền thông. Mặc dù mọi thứ người xem nhìn
thấy bằng đôi mắt, những hầu hết mọi người suy nghĩ bắt đầu từ ngôn
từ, chữ viết và ngôn ngữ là bước đầu tiên để con người hình dung về
hình ảnh. Do đó, ngôn ngữ giống như bộ nhớ và văn hoá tác động đến
hiểu biết sâu sắc của con người và ghi nhận giá trị tiếp theo của hình
ảnh. Một trong những hình thức mạnh nhất để biểu đạt TTTG trong
TKĐH là ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh.
Tiểu kết
Chương 3. nghiên cứu yếu tố TTTG qua biểu đạt và tiếp nhận tín
hiệu thị giác trong TKĐH Việt Nam hiện đại. Nội dung nghiên cứu
xoay quanh những vấn đề liên quan tín hiệu thị giác, là nhân tố quan
trọng tạo nên ý nghĩa TTTG. Một dấu hiệu thị giác chỉ trở thành tín
hiệu thị giác khi trong đó mỗi dấu hiệu có hàm chứa cái biểu đạt + cái
được biểu đạt hay nói đơn giản hơn đó là hình thức + nội dung của tín
hiệu thị giác. Nội dung đầu tiên của chương 3, nghiên cứu về cái biểu
đạt TTTG ở hai khía cạnh là tính chất của các tín hiệu thị giác và vai
trò của các mã tín hiệu thị giác. Lý thuyết ký hiệu học chỉ ra ba loại
khác nhau của tín hiệu thị giác mang tính chất: tín hiệu thị giác biểu
đạt tính chất hình tượng, tín hiệu thị giác biểu đạt tính chỉ dẫn, tín hiệu
thị giác biểu đạt tính hình tượng. Thông qua tính chất của tín hiệu thị
giác để đối tượng tiếp nhận thông điệp TTTG giả định về ý nghĩa của
các tín hiệu thị giác nhìn thấy - chưa phải ý nghĩa đúng. Nội dung thứ
hai, nghiên cứu đề cập đến TTTG biểu hiện qua các mã tín hiệu trong
TKĐH Việt Nam hiện đại. Mỗi cá nhân thường hình thành ý nghĩa của
19
các tín hiệu rất khác nhau, và thường liên kết ý nghĩa đơn lẻ của tín
hiệu cho toàn thể ý nghĩa của thông điệp TTTG, trong khi đó mỗi tín
hiệu là một chuỗi các ý nghĩa. Chính vì vậy, ký hiệu học chỉ ra khái
niệm mã bao gồm: mã tương tự, mã hoán vị, và mã súc tích để lý giải
những hình thái khác nhau của tín hiệu trong việc biểu đạt ý nghĩa
TTTG để xác định ý nghĩa đúng. Nội dung thứ ba, nghiên cứu đề cập
đến quá trình tiếp nhận TTTG và các yếu tố tác động. Thông qua tính
chất của tín hiệu và vai trò của các mã tín hiệu người xem dần hình
thành ý nghĩa TTTG, quá trình hình thành và nhận thức ý nghĩa TTTG
ở người xem phải thông qua một số hoạt động tinh thần có liên quan
đến vai trò của: ký ức, sự so sánh, sự kỳ vọng, sự lựa chọn, yếu tố văn
hoá và ngôn ngữ.
Chương 4
LUẬN BÀN NHỮNG ĐIỂM MẠNH VÀ HẠN CHẾ
CỦA TRUYỀN THÔNG THỊ GIÁC TỪ GÓC NHÌN
THIẾT KẾ ĐỒ HOẠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Nghiên cứu cho thấy TKĐH Việt Nam hiện đại đã và đang phát
triển theo định hướng truyền thông - giao tiếp. Điểm mạnh chung nhất
của TKĐH Việt Nam trong mấy chục năm qua là sự đóng góp to lớn
của TKĐH vào quá trình phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Điểm
hạn chế lớn nhất của TKĐH, đến từ chính thế mạnh của nó là truyền
thông - giao tiếp, lý do hạn chế có nguyên nhân chủ quan và khách
quan. Từ góc nhìn cá nhân, lịch sử, kỹ thuật, đạo đức và văn hoá để
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm rút ra.
Tiểu kết
Nội dung chương 4 tập trung phân tích những điểm mạnh, hạn
chế của TTTG từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại và kinh nghiệm
rút ra. Mỗi cá nhân có thể có quan điểm khác nhau về ý nghĩa thông
điệp TTTG, phải vượt qua những quan điểm mang tính cá nhân để rút
22
ra kết luận chung về môi trường, văn hoá, bối cảnh lịch sử mà từ đó
thông điệp TTTG được hình thành. Lĩnh vực TTTG có liên quan đến
lịch sử phát triển các phương tiện truyền thông, thực tế cho thấy hoạt
động TTTG đã thay đổi rất nhanh bằng việc áp dụng phương tiện
truyền thông mới. Từ góc nhìn lịch sử để hình dung về quá khứ và
nhận thấy biểu hiệu TTTG trong TKĐH ngày nay đều có sự tiếp nối từ
trong quá khứ. Ở góc độ kỹ thuật, một TKĐH được đánh giá "tốt" hay
"không tốt" ở khía cạnh TTTG có liên quan đến các yếu tố căn bản
như: tương phản, cân đối, nhịp điệu và thống nhất. Quan điểm đạo đức
ảnh hưởng đến nhận thức TTTG, cách cư sử của người xem cũng như
nhà thiết kế dựa trên những quy phạm đạo đức để từ đó rút ra những
kinh nghiệm.
Yếu tố văn hoá tác động đến quá trình tiếp nhận TTTG trong
TKĐH có liên quan đến việc sử dụng hình thức tín hiệu được biểu
tượng hoá và tính ẩn dụ của nó. Trong thời đại toàn cầu hoá, sự tiếp
biến văn hoá là xu hướng tất yếu của cả nhân loại, và Việt Nam không
phải là ngoại lệ. Các trào lưu nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại và thời
ký Số hoá tác động nhiều đến TKĐH Việt nam hiện đại, mang đến cho
TKĐH Việt Nam sự "khởi sắc", tạo ra nhiều sản phẩm vượt lên những
quan niệm xưa cũ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, TKĐH Việt
Nam ở góc nhìn văn hoá cũng bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục
như việc quá "dễ dãi" trong sử dụng hình thức biểu tượng hoá, sử
dụng "ngôn ngữ" bao gồm cả hình thức nghệ thuật và ngôn từ xa lạ
với đại đa số nhân dân hay những vi phạm pháp lý về bản quyền,
quyền tác giả…
KẾT LUẬN
TKĐH, một loại hình nghệ thuật thị giác tạo nên những hình ảnh
giao tiếp phức tạp về hình thức và nội dung, hình ảnh trong TKĐH
luôn chứa đựng nhiều tín hiệu thị giác. Mọi hoạt động TKĐH Việt
Nam hiện tại đều liên quan đến TTTG, đã có nhiều nghiên cứu về
23
TKĐH ở các khía cạnh khác nhau nhưng hoàn toàn thiếu vắng công
trình nghiên cứu TKĐH ở khía cạnh TTTG. Nghiên cứu TTTG từ góc
nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại sẽ mang đến cái nhìn bao quát nhất về
TTTG Việt Nam.
Chương 1, luận án trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ
sở lý luận. Đến thời điểm hiện tại, không có công trình nghiên cứu hay
bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài luận án mà chủ yếu là
những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp. Cơ sở lý luận đã xác
định một số thuật ngữ, khái niệm có liên quan đến quá trình nghiên
cứu, như thuật ngữ: truyền thông, thị giác và một số khái niệm như:
truyền thông thị giác, thiết kế đồ hoạ, thiết kế đồ hoạ hiện đại và nhận
thức thị giác. Ngoài ra, trong phần cơ sở lý luận còn trình bày một số
nội dung khác như: khái quát về TKĐH Việt Nam hiện đại từ 1986
đến nay; mối quan hệ giữa TKĐH và TTTG; lý thuyết Gestalt và lý
thuyết Ký hiệu học áp dụng trong trường hợp nghiên cứu.
Chương 2, nghiên cứu về TTTG qua tạo hình của TKĐH Việt
Nam hiện đại. Người xem phản ứng nhanh và dễ dàng nhất với bốn
thuộc tính: màu sắc, hình, chuyển động và không gian. Từ những tín
hiệu cảm nhận được người xem tự động liên kết thành một chuỗi
những tín hiệu thị giác có biểu hiện: giống nhau, tiệm cận, liên tục và
đặc điểm chung, lý thuyết Gestalt gọi đó là luật. Lý thuyết Gestalt cho
thấy mắt chỉ tham gia trong tất cả những kích thích thị giác, trong khi
não phân loại và sắp xếp các tín hiệu cảm nhận được thành một hình
ảnh nhất quán. Ý nghĩa biểu đạt từ các liên kết tín hiệu thị giác do tâm
trí người xem nhóm lại mang ý nghĩa của thông điệp hình ảnh trong
TKĐH. Một kết luận quan trọng của lý thuyết Gestalt: Toàn bộ là
khác so với tổng các bộ phận hay nói cách khác: Ý nghĩa toàn bộ lớn
hơn tổng ý nghĩa các bộ phận.
24
Chương 3, nghiên cứu TTTG qua biểu đạt và tiếp nhận tín hiệu
thị giác trong TKĐH Việt Nam hiện đại. Ý nghĩa mà người xem nhận
thức được từ các liên kết tín hiệu thị giác phải thông qua một số hoạt
động tinh thần nhất định như: ký ức, so sánh, lựa chọn, sự kỳ vọng...
Hoạt động tinh thần được kích hoạt thông qua tín hiệu thị giác, mỗi tín
hiệu thị giác lại thể hiện một tính chất và vai trò khác nhau. Ký hiệu
học chỉ ra tính chất của tín hiệu thị giác như: tính hình tượng, tính chỉ
dẫn, tính biểu tượng. Tính chất của tín hiệu thị giác là cơ sở đầu tiên
để người xem đưa ra ý nghĩa giả định. Một tín hiệu thị giác trong
thông điệp truyền thông bằng hình ảnh thường hàm chứa nhiều ý
nghĩa và thể hiện bằng nhiều cách khác nhau. Người xem có thói quen
liên kết các thành phần đơn lẻ vào toàn bộ nội dung thông điệp, ký
hiệu học nêu khái niệm mã để người xem hiểu vai trò của tín hiệu thị
giác như: mã hoán dụ, mã tương tự, mã hoán và mã súc tích.
Chương 4, luận bàn về những thành công và hạn chế của TTTG
từ góc nhìn TKĐH Việt Nam hiện đại từ đó rút ra kinh nghiệm. Quá
trình phận tích thông qua góc nhìn cá nhân, lịch sử, kỹ thuật , đạo đức,
văn hoá. Góc nhìn cá nhân cho thấy, người xem thường đưa ra nhận
định "đẹp" hay "xấu" hoặc "tốt" hay "chưa tốt" ở lần nhìn đầu tiên.
Góc nhìn lịch sử, cho thấy tất cả TKĐH Việt Nam hiện đại đều ẩn
chứa trong đó dấu vết của lịch sử, từ kiểu chữ cho đến minh hoạ,
phương tiện truyền tải. Góc nhìn kỹ thuật, một TKĐH được cho là
"tốt" có sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố: tương phản, cân bằng,
nhịp điệu, thống nhất. Từ góc nhìn văn hoá, cho thấy TKĐH thường
sử dụng các hình thức biểu tượng hoá và tính ẩn dụ của nó, ngoài ra
TKĐH luôn là tấm gương phản ảnh những giá trị mới từ các trào lưu
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại. Trong giai
đoạn từ 1986 đến nay TKĐH Việt Nam chịu tác động tích cực từ việc
Số hoá.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Ngô Anh Cơ, "Về cách sử dụng thuật ngữ mỹ thuật công
nghiệp, mỹ thuật ứng dụng, và design hiện nay", Tạp chí Văn hoá
Nghệ thuật, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, số 402, 12/2017, tr. 68
- 71.
2. Ngô Anh Cơ, "Năm giai đoạn phát triển quan trọng của truyền
thông thị giác", Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, Viện Mỹ thuật - Trường
đại học Mỹ thuật Việt Nam, số 3 (15), 9 - 2017, tr. 57 - 67.