Professional Documents
Culture Documents
Antenatal Corticosteroid
Antenatal Corticosteroid
Nếu cả 2 đều có sẵn thì một số thích beta hơn vì có một số thử nghiệm thấy sự giảm rõ rệt xuất
huyết não thất
Những thay thế khác: Hydrocortison được chuyển hóa rộng rãi bởi các enzym nhau thai, do đó
tương đối ít thuốc có hoạt tính đi vào khoang bào thai; do đó, tác dụng có lợi cho thai nhi có
thể không xảy ra. Tuy nhiên, nếu cả betamethasone và dexamethasone đều không có sẵn do
thiếu thuốc, hydrocortisone 500 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 12 giờ trong bốn liều đã được đề xuất
như là phương án cuối cùng
Liều dùng và dược lý: một liệu trình bao gồm
Betamethasone: 2 liều 12mg tiêm bắp cách 24 giờ (two doses of 12 mg intramuscularly 24
hours apart.)
Một ml hỗn dịch betamethasone thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng là sự kết hợp
của 3 mg betamethasone natri phosphate và 3 mg betamethasone axetat. Betamethasone natri
phosphat hòa tan nên được hấp thu nhanh, trong khi betamethasone acetat chỉ hòa tan một
phần và do đó có tác dụng kéo dài. Thời gian bán hủy sinh học là 35 đến 54 giờ [26]. Thời gian
bắt đầu và thời gian tác dụng bị ảnh hưởng bởi mạch máu tại chỗ tiêm. Nồng độ thuốc trong
máu dây rốn xấp xỉ 20 phần trăm nồng độ của mẹ một giờ sau khi tiêm cho mẹ
Dexamethasone sodium phosphate: 4 liều 6mg tiêm bắp cách 12 giờ (four doses of 6 mg
intramuscularly 12 hours apart.)
Dexamethasone có thời gian bắt đầu và thời gian tác dụng nhanh hơn betamethasone, vì thế,
khoảng cách giữa các liều ngắn hơn và nhiều liều hơn.
Không có bằng chứng thuyết phục rằng tác dụng có lợi cho thai nhi của liều tiêu chuẩn của ACS
giảm đáng kể ở phụ nữ thừa cân hoặc béo phì (chỉ số khối cơ thể [BMI] ≥25 kg/m2), nhưng cần
nghiên cứu thêm [31]. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, nồng độ betamethasone trong máu
của mẹ và dây rốn là tương tự nhau đối với phụ nữ béo phì (BMI ≥30 kg/m2) và phụ nữ không
béo phì; tuy nhiên, thử nghiệm này không đánh giá kết quả lâm sàng
Tác dụng phụ cho sản phụ:
Hầu hết phụ nữ mang thai dung nạp được một đợt điều trị ACS mà không gặp khó khăn gì.
Trong một đánh giá có hệ thống năm 2020 về các thử nghiệm ngẫu nhiên, việc điều trị có thể
không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ối-màng ối hoặc viêm nội mạc tử cung [1]. Các báo cáo
trường hợp đã mô tả phù phổi, chủ yếu liên quan đến điều trị kết hợp với thuốc giảm co, đặc
biệt là trong trường hợp nhiễm trùng ối-màng ối, quá tải dịch hoặc đa thai [38-40].
Betamethasone và dexamethasone có hoạt tính mineralocorticoid thấp so với các
corticosteroid khác; do đó, tăng huyết áp không phải là chống chỉ định điều trị.
Tăng đường huyết thoáng qua xảy ra ở nhiều phụ nữ; tác dụng steroid bắt đầu khoảng 12
giờ sau liều đầu tiên và có thể kéo dài trong năm ngày. Tầm soát ĐTĐ thai kỳ, nếu được chỉ
định, nên được thực hiện trước khi dùng ACS hoặc ít nhất năm ngày sau liều đầu tiên.
Tổng số lượng bạch cầu tăng khoảng 30 phần trăm trong vòng 24 giờ sau khi tiêm ACS và
số lượng tế bào lympho giảm đáng kể [44,45]. Những thay đổi này trở lại chỉ số nền trong
vòng ba ngày nhưng có thể làm phức tạp thêm chẩn đoán nhiễm trùng
Tác dụng phụ lên thai
ACS may be associated with transient FHR and behavioral changes that typically return to
baseline by four to seven days after treatment [48,49]. Because steroids are generally
administered in high-risk obstetric situations where the likelihood of a true positive
nonreassuring antenatal test is more likely, any changes in fetal testing should be evaluated
according to the clinician's best judgment
Dấu hiệu nhất quán của FHR (The most consistent FHR finding) là giảm dao động nội tại 2-3
ngày sau sử dụng. Giảm cử động hô hấp và cử động cơ thể làm cho điểm BPP thấp hoặc NST
không đáp ứng, tuy nhiên giảm cử động thai không phải là dấu hiệu nhất quán ( however,
decreased fetal movement is not a consistent finding)
NHững thay đổi của tim thai và và hành vi thai có thể phản ánh phản ứng sinh lý trực tiếp của
não với ACS; cũng có thể là kết quả gián tiếp của tăng tạm thời kháng lực mạch máu thai nhi
và huyết áp, điều mà đã được chứng minh ở một số nghiên cứu trên động vật.
Tác dụng phụ tiềm ẩn đối với trẻ sơ sinh
Trong một tổng quan hệ thống năm 2017 về các thử nghiệm ngẫu nhiên, một đợt corticosteroid
trước khi sinh không làm tăng nguy cơ xảy ra bất kỳ kết quả bất lợi nào ở trẻ sơ sinh, bao gồm
nhiễm trùng sơ sinh, sơ sinh nhỏ so với tuổi, chức năng vùng dưới đồi-tuyến yên-thượng thận,
hoặc hội chứng rò rỉ khí (air-leak syndrome) [2]. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm, vì một số
nghiên cứu về trẻ sơ sinh tiếp xúc với corticosteroid trước khi sinh đã quan sát thấy giảm
cortisol nền và giảm tiết cortisol do căng thẳng ở những trẻ này [95-99].
Tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng steroid ở ≥34+0 tuần chưa rõ ràng. Trong một thử
nghiệm can thiệp đa chiều (ACT) được thiết kế để tăng cường sử dụng corticosteroid trước khi
sinh ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, việc tăng sử dụng steroid làm tăng tỷ lệ tử
vong sơ sinh và chu sinh trong dân số nói chung, đặc biệt là ở trẻ late preterm (>34w và <37w)
và early term (>37w và <39w). Đây là một phát hiện bất ngờ và không giải thích được, một
phần có thể liên quan đến việc gia tăng các bệnh truyền nhiễm ở bà mẹ và trẻ sơ sinh tiếp xúc
với steroid [22].
Tác dụng lâu dài tiềm ẩn ở trẻ em và người lớn
Cần thêm dữ liệu về tác dụng lâu dài của ACS [2]. Hầu hết các nghiên cứu về trẻ em/người lớn
tiếp xúc với một đợt corticosteroid trước khi sinh trước 34 tuần của thai kỳ đã không báo cáo
tác dụng phụ đối với sự tăng trưởng; chức năng phổi; hoặc các kết quả về tâm sinh lý, vận
động, nhận thức, thần kinh và nhãn khoa so với nhóm chứng không phơi nhiễm [4,100,101].
Tuy nhiên, quá trình phát triển của thai và hậu quả của nó vẫn là một mối quan tâm. Phơi nhiễm
quá mức corticosteroid trước khi sinh được cho là góp phần phát triển một số bệnh ở người
trưởng thành [102]. Một số tác dụng phụ tiềm ẩn đối với tim mạch và chuyển hóa đã được báo
cáo và cần nghiên cứu thêm (ví dụ: tăng phản ứng cortisol, tăng độ cứng cung động mạch chủ,
tăng đề kháng insulin, tăng nguy cơ tăng huyết áp ở người trưởng thành) [101,103-108].
Vẫn còn những lo ngại về các tác dụng phụ tiềm ẩn đối với kết quả phát triển thần kinh, đặc biệt
là khi tiếp xúc với tử cung vào cuối thai kỳ.
Thử nghiệm ASTECS đã so sánh việc sử dụng betamethasone 48 giờ trước khi sinh mổ theo
kế hoạch ở tuần thứ 37 với chăm sóc thông thường [20]. Khi theo dõi được thực hiện ở độ tuổi
từ 8 đến 15, các trường học có nhiều khả năng nhận thấy trẻ em tiếp xúc với steroid nằm trong
nhóm có thành tích thấp nhất so với nhóm đối chứng [24]. Tuy nhiên, bài kiểm tra khách quan
về khả năng học tập không được thực hiện như một phần của thử nghiệm và kết quả từ các bài
đánh giá tiêu chuẩn quốc gia không cho thấy sự khác biệt thống kê giữa điểm số của mỗi
nhóm.
●Sự gia tăng nồng độ cortisol nội sinh xảy ra gần ngày sinh khi thai nhi đang trong giai đoạn
phát triển trí não quan trọng để chuẩn bị cho quá trình chuyển dạ và chuyển sang cuộc sống
ngoài tử cung [30]. Nồng độ cao của 11β-hydroxysteroid dehydrogenase-2 trong não của thai
nhi giúp bảo vệ nó khỏi tác động của sự gia tăng sinh lý của cortisol nội sinh, nhưng không bảo
vệ nó khỏi betamethasone hoặc dexamethasone do mẹ sử dụng do sự kháng chuyển hóa của
các thuốc này đối với 11β -HSD-2 [31]. Do đó, những steroid này có thể gây ra sự kích hoạt phi
sinh lý của các thụ thể glucocorticoid trong não thai nhi gần đủ tháng.
Người ta đã đề xuất rằng steroid ngoại sinh có thể có tác dụng khác nhau ở các độ tuổi thai
khác nhau do nhiều yếu tố thay đổi theo tuổi thai và sự điều hòa phức tạp của các phản ứng
qua trung gian thụ thể glucocorticoid [31].
Do não người phát triển 35%, thể tích vỏ não tăng 50% và 25% sự phát triển tiểu não xảy ra
trong khoảng thời gian từ 34 tuần tuổi thai đến đủ tháng [32,33], việc tiếp xúc với
betamethasone hoặc dexamethasone ngoại sinh trong khoảng thời gian này có thể có những
hậu quả bất lợi lớn hơn đối với sự phát triển của não bộ so với bất kỳ giai đoạn phát triển nào
khác. Đặc biệt, sự phá vỡ môi trường bình thường của thai nhi vào thời điểm quan trọng này có
thể dẫn đến những thay đổi trong sự phát triển của hệ thống thần kinh nội tiết, ảnh hưởng lâu
dài đến chức năng nội tiết, hành vi, cảm xúc và nhận thức, đồng thời làm tăng nguy cơ phát
triển nhiều bệnh về chuyển hóa, tim mạch và não trong cuộc sống sau này [34-36].
●Trong một nghiên cứu trên 54 trẻ trước tuổi vị thành niên (từ 6 đến 10 tuổi) được điều trị một
đợt betamethasone duy nhất ở tuổi thai trung bình là 29,3 tuần (+/- 3 tuần), sinh đủ tháng và tỷ
lệ 1:2 tương ứng với trẻ đủ tháng không tiếp xúc với corticosteroid trước khi sinh, tiếp xúc với
corticosteroid trước khi sinh có liên quan đến tình trạng mỏng vỏ não đáng kể, đặc biệt là vỏ não
vành đai trước, có liên quan chặt chẽ với sự phát triển của rối loạn cảm xúc, cũng như rối loạn
điều hòa trục HPA [37]. Tuy nhiên, không có sự khác biệt tổng thể về các vấn đề tình cảm của
trẻ em hoặc về tổng khối lượng chất xám.
Mặt khác, một nghiên cứu đã cố gắng phân biệt tác động trực tiếp của việc điều trị bằng ACS
đối với chức năng nhận thức nói chung với những ảnh hưởng gây nhiễu của việc sinh non cho
thấy, trẻ sinh đủ tháng của những phụ nữ không có biến chứng thai kỳ đạt điểm IQ trung bình
cao hơn 6 đến 7 điểm so với trẻ sinh đủ tháng của những phụ nữ nhập viện vì dọa sinh non,
cho dù họ có tiếp xúc với corticosteroid trong tử cung hay không [38]. Điều này cho thấy rằng
các yếu tố liên quan đến nguy cơ sinh non có thể có tác dụng phụ và ngụ ý rằng một đợt điều trị
steroid trước khi sinh không góp phần vào sự thiếu hụt nhận thức lâu dài.
●Các mô hình động vật tiếp xúc với corticosteroid trước khi sinh luôn báo cáo tác dụng phụ
[30,39-45]. Ví dụ, các chế độ dùng liều dexamethasone khác nhau được sử dụng cho khỉ sinh
non dẫn đến tác dụng phụ nghiêm trọng lên não, bao gồm những thay đổi đáng kể ở vùng hải
mã, tổn thương thần kinh ở các tế bào thần kinh vỏ não và làm chậm phát triển tiểu não nghiêm
trọng [40,42].
Celestone Soluspan
Diprospan: Betamethasone dipropionate 5mg và Betamethasone disodium phosphate 2mg:
không đủ thông tin để dùng trong hỗ trợ phổi