Professional Documents
Culture Documents
Chat Luong Cuoc Song Benh Nhan Tam Than - CN Diep (Thuan An)
Chat Luong Cuoc Song Benh Nhan Tam Than - CN Diep (Thuan An)
Điểm của mỗi bệnh nhân sẽ là trung bình cộng của sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh
thần. Cách đánh giá mức độ được qui định như sau:
Từ 0 - 25: Chất lượng cuộc sống kém.
Từ 26 - 50: Chất lượng cuộc sống trung bình kém.
Từ 51 - 75: Chất lượng cuộc sống trung bình khá.
Từ 76 - 100: Chất lượng cuộc sống khá, tốt.
- Điểm Tổng hợp Thể chất (ĐTHTC) được tính bằng trung bình cộng của 4 nhóm điểm:
Sức khỏe thể chất, Hạn chế do sức khỏe thể chất, Sự đau đớn, Sức khỏe tổng quát.
- Điểm Tổng hợp về Tâm thần (ĐTHTT) được tính bằng trung bình cộng của 4 nhóm
điểm Sức sống, Hạn chế do sức khỏe tâm thần, Hoạt động xã hội, Sức khỏe tâm thần.
Xử lý số liệu:Các số liệu được nhập bằng Epidata và xử lý bằng Stata 12.0.
6. Kết quả
Bảng 1. Đặc tính mẫu nghiên cứu (n=153 )
Đặc tính Tần số (n=153) Tỷ lệ(%)
Giới tính
Nam 104 68.0
Nữ 49 32.0
Nhóm tuổi
<40 82 53.6
≥40 71 46.4
Nghề nghiệp
Có nghề nghiệp 67 43.8
Không có nghề nghiệp 86 56.2
Trình độ văn hóa
< Cấp 2 88 57.5
≥Cấp 2 65 42.5
Nhóm bệnh tâm thần
Động kinh 117 76.5
Tâm thần phân liệt 21 13.7
Rối loạn khác 15 9.8
Tình trạng gia đình
Sống 1 mình 11 7.2
Sống với người thân 108 70.6
Sống với vợ/chồng 34 22.2
Nghiên cứu được tiến hành trên 153 bệnh nhân tâm thần đang được điều trị trên địa
bàn thị xã Thuận An, có 68% là nam giới, nhóm tuổi < 40 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn với 53,6%,
đa số là không có nghề nghiệp ổn định và trình độ văn hóa thường dưới cấp 2. Bệnh nhân
chung sống với người thân chiếm tỷ lệ khá cao 70,6%. Bảng 2: điểm số chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân tâm thần tại thị xã Thuận An năm 2017 (n=153)
Giá trị lớn
Trung bình ± Trung vị nhất
Điểm số CLCS độ lệch
chuẩn (Khoảng tứ phân vị) Giá trị nhỏ
nhất
Sức khỏe thể chất 69.1±19.6 70(60.0-85.0) 15-100
Hạn chế do sức khỏe thể chất 53.3±16.2 50(43.8-62.5) 18.8-87.5
Hạn chế do sức khỏe tâm thần 54.2±17.2 50(41.7-66.7) 16.7-91.7
Sức sống 39.5±13.9 37.5(31.3-50.0) 12.5-68.8
Sức khỏe tâm thần 50.7±10.9 50(45.0-60.0) 20-70
Hoạt động xã hội 51.9±21.6 50(37.5-62.5) 0-100
Sự đau đớn 63.9±24.3 55(45.0-87.5) 10-100
Sức khỏe tổng quát 31.8±13.8 40(25.0-50.0) 5-65
Tự đánh giá sự thay đổi sức
69.9±17.5 75(50-75) 25-100
khỏe
Điểm số chất lượng cuộc sống trung bình kém có 2 nhóm (sức sống, sức khỏe tổng
quát). Còn lại nằm trong mức điểm trung bình khá (sức khỏe thể chất, hạn chế do sức khỏe
thể chất, hạn chế do sức khỏe tâm thần, sức khỏe tâm thần, hoạt động xã hội, sự đau đớn, tự
đánh giá thay đổi).
Bảng 3: Mối liên quan giữa điểm tổng hợp chất lượng cuộc sống với các biến nhị giá
theo phân phối bình thường(n=153)
Đặc tính mẫu ĐTHTC ĐTHTT
Giới
Nam 59.8±11.6 51.8±11.4
Nữ 47.4±11.1 43.6±11.1
giá trị p <0.001 <0.001
Nhóm tuổi
<40 58.2±11.8 51.0±10.6
≥40 53.2±13.3 47.1±13.0
giá trị p 0.015 0.042
Nghề nghiệp
Có nghề nghiệp 55.5±13.3 50.6±12.2
Không có nghề nghiệp 56.2±12.4 48.0±11.6
giá trị p 0.73 0.18
Trình độ văn hóa *
< Cấp 2 57.1±10.4 50.0±11.0
≥Cấp 2 54.2±15.3 48.0±13.1
giá trị p 0.18 0.32
* 2 phương sai không bằng nhau
Có khác biệt và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê giữa giới tính, nhóm tuổi với
ĐTHTC và ĐTHTT (p<0,05). Không có sự khác biệt về nghề nghiệp cũng như trình độ văn
hóa ảnh hưởng đến ĐTHTC và ĐTHTT với p>0,05.
Bảng 4: Mối liên quan giữa điểm tổng hợp chất lượng cuộc sống với các biến thứ tự và
danh định(n=153)
Đặc tính mẫu ĐTHTC ĐTHTT
Tình trạng gia đình
Sống 1 mình 64.3±8.1 53.0±4.2
Sống với người thân 56.5±13.2 48.7±12.9
Sống với vợ/chồng 51.1±10.8 49.4±9.9
giá trị p 0.098 0.001
Nhóm bệnh tâm thần
Động kinh 57.0±12.0 49.3±11.8
Tâm thần phân liệt 56.4±17.4 48.8±15.9
Rối loạn khác 46.4±6.3 48.5±5.1
giá trị p 0.001 <0.05
Có mối liên quan giữa ĐTHTT và tình trạng gia đình. Tuy nhiên không có sự liên
quan giữa tình trạng gia đình và ĐTHTC. Cả 3 nhóm bệnh chúng tôi đưa ra đều có mối liên
quan đến ĐTHTC và ĐTHTT.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ phân bố giới tính trong nghiên của chúng tôi là nam: nữ tương ứng là 68% và
32%, mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nam cao gấp 2 lần nữ có điểm tương đồng với
nghiên cứu của Trần Văn Trường (2005) với 173 bệnh nhân thì có 113 bênh nhân là nam giới,
tỷ lệ nam mắc Bệnh cao gấp 2 lần nữ.
Về nhóm tuổi theo nghiên cứu của chúng tôi thì nhóm tuổi <40 và >=40 có tỷ lệ gần
ngang nhau tuy nhiên ở nhóm tuổi < 40 tuổi vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn với 53,6% điều này cũng
tương tự như nghiên cứu của Trần Văn Trường (2005) với tỷ lệ bệnh nhân chiếm cao nhất là
từ 21-39 tuổi và theo Haro J.M và cs (2006) lứa tuổi trung bình mắc bệnh là 40 tuồi.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 56,2% bệnh nhân tâm thần không có nghề
nghiệp Điều này nói lên sự khó khăn của bệnh nhân tâm thần trong việc học nghề và tìm cho
mình một công việc thích hợp. Theo các nghiên cứu dịch tễ học thì số bệnh nhân tâm thần
phát bệnh trước 6 tuổi chiếm 60 %, đồng thời khoảng 85 % bệnh nhân tâm thần ở các nước
đang phát triển không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách [1]. Chính hai yếu tố nói trên
ảnh hưởng đến khả năng học tập của của người bệnh, bệnh tiến triển càng lâu thì khả năng
học tập càng kém, nhân cách thay đổi do vậy khi bước vào tuổi lao động đa số bệnh nhân tâm
thần đều không có nghề nghiệp, có chăng chỉ là những công việc mang tính chất giản đơn và
thời vụ.
Điểm số chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tâm thần thay đổi theo từng phần rõ rệt,
tuy nhiên nhìn chung điểm số chất lượng cuộc sống trên nghiên cứu chúng tôi cao hơn rất
nhiều so với nghiên cứu của Ths.BS. Tô Xuân Lan của BV tâm thần trung ương 2 năm 2013 “
đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tâm thần đang điều trị nội trú tại bệnh viện tâm
thần trung ương 2” [2], vì đặc tính nghiên cứu chúng tôi là trên bệnh nhân ngoại trú nên điều
kiện sinh hoạt cũng như sự hòa nhập trong cộng đồng trên bệnh nhân cũng dễ dàng hơn.
Có sự khác biệt về nhóm tuổi của bệnh nhân tâm thần và ĐTHTC và ĐTHTT (bảng
3). Tương tự, nghiên cứu của Dora A và cs (2004) cũng cho thấy mối tương quan có ý nghĩa
thống kê giữa điểm SKTC và SKTT được đánh giá bằng công cụ SF-36 với tuổi của các bệnh
nhân tâm thần. Bệnh tâm thần là bệnh mạn tính không có khả năng điều trị khỏi, việc phải đi
khám định kỳ thường xuyên và kéo dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống
của các bệnh nhân lớn tuổi.
Có mối liên quan giữa tình trạng gia đình và ĐTHTC và ĐTHTT (bảng 4). Theo
nghiên cứu của chúng tôi, chưa tìnm thấy mối liên quan giữa tình trạng gia đình và ĐTHTC.
Tuy nhiên lại tìm thấy mối liên quan giữa tình trạng gia đình và ĐTHTT. Người bệnh tâm
thần sống cùng gia đình và sống với vợ/chồng có ĐTHTT thấp hơn người bệnh sống một
mình, điều này có thể do người bệnh sống chung với người thân phải chịu nhiều áp lực từ gia
đình, cũng như trong quá trỉnh chăm sóc người bệnh đem lại khó khăn trong sinh hoạt cũng
như giao tiếp không nhỏ cho gia đình người bệnh tâm thần, dẫn đến sức khỏe tinh thần người
bệnh giảm thấp.
Có mối liên quan giữa nhóm bệnh tâm thần và ĐTHTT, ĐTHTC(bảng 4). Trong các
nhóm bệnh tâm thần thì động kinh và tâm thần phân liệt chiếm tỷ lệ cao nhất, vì thế hai nhóm
bệnh này có ĐTHTT và ĐTHTC cao hơn cả so với các rối loạn tâm thần khác.
KẾT LUẬN
Điểm số chất lượng cuộc sống trung bình kém có 2 nhóm (sức sống, sức khỏe tổng
quát). Còn lại nằm trong mức điểm trung bình khá (sức khỏe thể chất, hạn chế do sức khỏe
thể chất, hạn chế do sức khỏe tâm thần, sức khỏe tâm thần, hoạt động xã hội, sự đau đớn, tự
đánh giá thay đổi).
Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm tổng hợp thể chất với giới
tính(p<0,001), nhóm tuối(p=0,015), nhóm bệnh tâm thần(p=0,001).
Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm tổng hợp tâm thần với giới
tính(p<0,001), nhóm tuổi(p=0,042), tình trạng gia đình (p=0,001), nhóm bệnh tâm thần
(p<0,05).
Qua khảo sát nhận thấy chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tâm thần cộng đồng còn
thấp đặc biệt là sức sống và sức khỏe tổng quát. Do đó cần đẩy mạnh công tác truyền thông
tránh phân biệt đối xử, phối hợp với các ban ngành đoàn thể tăng cường công tác chăm lo sức
khỏe thể chất cũng như tinh thần cho các bệnh nhân tâm thần đang điều trị tại cộng đồng. Bên
cạnh đó cần có chính sách hỗ trợ kinh tế nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho
bệnh nhân tâm thần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình quốc gia chăm sóc sức khỏe tâm thần cộng đồng (2001), Chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng
đồng cho các bệnh loạn thần nặng mạn tính, tr. 69 - 72.
2. Tô Xuân Lan (2013) “ đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tâm thần đang điều trị nội trú tại bệnh
viện tâm thần trung ương 2”, Bệnh viên tâm thần trung ương 2, tr. 50-70.
3. Demyttenaere, Koen; Bruffaerts, Ronny; Posada-Villa, Jose; Gasquet, Isabelle; Kovess, Viviane; Lepine, Jean
Pierre; Angermeyer, Matthias C.; Bernert, Sebastian; de Girolamo, Giovanni (2004). “Prevalence, Severity, and
Unmet Need for Treatment of Mental Disorders in the World Health Organization World Mental Health
Surveys”. JAMA 291 (21): 2581–90. doi:10.1001/jama.291.21.2581. PMID 15173149.
4. Doria A, Rinaldi S., Ermani M., et al (2004). Top 10 Recent Developments in Health-related Quality of Life
in Patients with mental health. Rheumatology 43, 1574-1579
5. Galuppi A. et al. (2010), "Schizophrenia and quality of life: how important are symptoms and
functioning?". International Journal of Mental Health Systems, pp. 4 - 31.
6. Somers, Julian M; Goldner, Elliot M; Waraich, Paul; Hsu, Lorena (2006). “Prevalence and Incidence Studies
of Anxiety Disorders: A Systematic Review of the Literature”. Canadian Journal of Psychiatry 51 (2): 100–
13. PMID 16989109.
7. Waraich, Paul; Goldner, Elliot M; Somers, Julian M; Hsu, Lorena (2004). “Prevalence and Incidence Studies
of Mood Disorders: A Systematic Review of the Literature”. Canadian Journal of Psychiatry 49 (2): 124–
38. PMID 15065747.