Professional Documents
Culture Documents
Tham Khảo
Tham Khảo
Phân tích bản chất của tâm lý người. Liên hệ thực tiễn trong cuộc sống hoặc
công tác chuyên môn.
1
MỤC LỤC
3
DANH MỤC HÌNH ẢNH Hình 1 Quá trình khép lại của tấm thần kinh..8
Hình 2. Cơ chế duy trì bệnh stress.....................................................................20
4
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề (lí do chọn đề tài)
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, ở mỗi
giai đoạn phát triển, con người đều phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn,
phức tạp nảy sinh trong cuộc sống, do đó con người đều có nguy cơ bị stress.
Nhiều nhà nghiên cứu về stress cho rằng xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì
nguy cơ bị stress của con người ngày càng cao, đặc biệt trong xã hội mà chúng
ta đang sống ngày nay. Với sự phát triển của thời đại công nghiệp, bên cạnh việc
nó làm cho điều kiện sống của con người ngày càng tốt hơn thì mặt khác nó lại
làm phát sinh rất nhiều những hệ lụy tiêu cực, trở thành những tác nhân gây
stress cho con người nhiều hơn.
Khi xã hội có nhiều thay đổi, con người phải trải nghiệm nhiều sức ép nếu
bản thân không kiềm chế được thay đổi hoặc bị thay đổi áp đặt từ bên ngoài, một
khi cá nhân cảm thấy mất khả năng kiềm chế và mất khả năng đoán trước được
các sự kiện thì sẽ gây ra căng thẳng và khi những sự thay đổi diễn ra với tốc độ
quá nhanh cũng sẽ làm cho con người cảm thấy bối rối vì nó vượt quá năng lực
thích ứng của bản thân.
Tại hội nghị Y tế Quốc tế, New York, năm 1948, Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) định nghĩa về sức khỏe: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái
về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải là chỉ không có bệnh hay tật”.
Từ định nghĩa về sức khỏe cho thấy rằng từ những thập kỉ 40 của thế kỉ 20 sức
khỏe tâm thần đã được Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá có vai trò rất quan trọng,
ngang hàng với sức khỏe thể chất và sức khỏe xã hội. Thực tế cho thấy sức khoẻ
tâm thần có mối liên quan mật thiết với tâm lý xã hội và sức khỏe thể chất,
không có bất kì biến cố bất lợi nào trong xã hội mà không ảnh hưởng đến tâm lý,
và cũng không có bất kì bệnh lý cơ thể nào lại không ảnh hưởng đến tâm lý.
Theo Liên hợp quốc, ước tính khoảng 25% dân số thế giới bị gánh nặng
về sứckhoẻ tâm thần, là một trong ba lý do chính làm tăng gánh nặng kinh tế ở
các nước trên thế giới.
5
Vấn đề sức khoẻ tâm thần ở Việt Nam không nằm ngoài tình hình chung
của toàn cầu. Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 cho thấy tỉ lệ mắc 10
bệnh tâm thần phổ biến là 15%, trong đó có trầm cảm và lo âu. Nghiên cứu của
Trường Đại học Y tế công cộng về “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt
Nam 2008” cho kết quả nhóm bệnh chấn thương, tâm thần kinh và bệnh tim
mạch là nguyên nhân hàng đầu gây nên gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Hậu quả
của rối loạn tâm thần không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ mỗi cá nhân mà
còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn xã hội.
Stress là vấn đề của con người ở mọi thời đại và dường như đó là một
phần tất yếu không thể tránh được trong cuộc sống của mỗi người. Stress có thể
xảy ra với bất cứ ai, ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi ngành nghề khác nhau, không
chỉ trên thế giới, mà ở nước ta số người bị stress cũng khá cao. Vì những lý do
này, em lựa chọn nghiên cứu đề tài “Stress” nhằm tổng hợp thông tin, tìm hiểu
nguyên nhân, hậu quả của stress và đưa ra đề xuất, kiến nghị về cách ứng phó
với vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi đứng trước những tác nhân gây stress nếu mỗi người được trang bị
những kĩ năng ứng phó và giải tỏa stress thì stress sẽ không phải là mối đe dọa to
lớn nhưng ngược lại nếu không có sự hiểu biết về stress, không có đủ khả năng
để tự mình ứng phó với stress mà lại không nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài thì
khi đó stress sẽ là một mối đe dọa cho đời sống của mỗi người. Vậy nên tiểu
luận này đưa ra những thông tin chung nhất về vấn đề stress để mọi người có thể
hiểu và nâng cao chất lượng đời sống tâm lý, tinh thần cho bản thân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Do thời gian và khả năng có hạn nên trong bài tiểu luận này em chỉ dùng
phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc và nghiên cứu các tài liệu, bài viết, công
trình nghiên cứu về stress để xây dựng tiểu luận này.
6
CHƯƠNG 2. Hệ thần kinh, não bộ và nguồn gốc của stress
2.1 Não bộ
2.1.1 Sơ lược về não
Quá trình phát triển của hệ thần kinh, đặc biệt là của bán cầu đại não là
một quá trình tiến hoá lâu dài. Chiều hướng phát triển của hệ thần kinh theo quy
luật chung của quá trình tiến hoá, về mặt cấu tạo nguy càng phân hoá và về mặt
chức năng ngày càng chuyên hoá.
Về phương thức cấu tạo, hệ thần kinh của động vật có xương sống gồm có
hai phần là phần thần kinh trung ương và phần thần kinh ngoại biên. Ở động vật
có dây sống phần thần kinh trung ương tồn tại ở dạng ống thần kinh. Sau đó,
phần đầu của ống thần kinh phát triển mạnh và phình to ra tạo thành nào nằm
trong hộp sọ, còn phần sau tạo thành tuỷ sống (medulla spinalis) nằm trong cột
xương sống.
Não là một cơ quan vô cùng phức tạp. Não là trung tâm điều khiển của hệ
thần kinh trung ương, chịu trách nhiệm điều khiển hành vi. Ở hầu hết các loài
động vật, não được đặt trên đầu, được bảo vệ bởi hộp sọ, và gần với các giác
quan chính như thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, và cơ quan cảm giác về
thăng bằng (equilibrioception).
Đa số các bộ não đều thể hiện sự khác biệt giữa chất xám và chất trắng.
Chất xám chủ yếu gồm các thân tế bào thần kinh. Trong khi đó trong chất trắng
của não thì đa số là các sợi liên kết các tế bào thần kinh. Những sợi thần kinh
được tách ly bằng chất Myelin do tế bào Oligodendroglia tạo ra. Màu trắng đặc
trưng trong chất trắng của não do màu trắng của chất Myelin mà ra.
7
kinh ban đầu sẽ dần xuất hiện toàn bộ những hoạt động thần kinh của bào thai
như suy nghĩ, cảm xúc, hành động và giấc mơ.
Về hình dạng thì não bộ của phôi thai xuất hiện khá nhanh. Đến khoảng
25 ngày sau khi thụ thai thì tấm tầm kinh đã gấp lại và tạo thành một bề mặt
rãnh, và sau đó thì hai phần mép sẽ ghép lại và tạo thành một đường ống chạy
dọc theo chiều dài của phôi thai lúc này được 2 milimet. Đến ngày thứ 26, ống
thần kinh sẽ đóng lại, bắt đầu từ ở giữa và trước tiên sẽ đóng hoàn toàn ở phần
đầu vào ngày thứ 24, và sau đó đóng hết ở phần đuôi. Ống thần kinh đóng kín
này khi đó sẽ lớn hơn ở phần đỉnh, nơi bộ não sẽ xuất hiện. Phần còn lại của
ổng, hẹp dần về phía cuối, sẽ dần trở thành tuỷ sống. Sự biến hình từ ống thần
kinh thành tuy sống khá rõ ràng: các thành ống đặc lại và sau đó chia ra làm bốn
khu vực chính, bao gồm một khu vực giác quan và một khu vực vận động ở cả
bên trái và bên phải. Nhưng sự biến hình ở phần trên của ống thần kinh thì khá
phức tạp. Đầu tiên, phần đầu ống sẽ nở to ra thành ba khu vực: não trước, não
giữa và não sau, mỗi phần cách nhau bởi một vết rõ rệt, nên là nhìn vào giống
như một con sâu đang khó ở, bị nén lại ở phần đầu vốn đang phát triển nhanh.
Cả ba phần não này sẽ hoàn thiện vào 4 tuần sau khi thụ thai.
Đến tuần thứ năm, ba phần của não bộ thai nhi đã lớn lên và tiếp tục phân
chia thành năm khu vực. Khu vực ở phía trước hết, gọi là đoan não
(telencephalon), bắt đầu phân chia thành hai bán cầu trái phải. Đến tuần thứ sáu,
thì các khu vực này bắt đầu phân tách thành các bộ phận chính của não bộ, xuất
hiện các trạng thái ban đầu của tủy, tiểu não, đồi thị, hạch nền, hệ viền limbic và
đại não. Cũng đến thời điểm này thì 12 dây thần kinh sọ (cranial nerve) cũng bắt
đầu xuất hiện, có chức năng dẫn truyền thần kinh giữa não và mắt, tai, mũi,
miệng, mặt, và các bộ phận khác trên cơ thể, tuy nhiên lúc này thì các dây thần
kinh sọ vẫn chưa được kết nối với các bộ phận trên.
8
Hình 1 Quá trình khép lại của tấm thần kinh
Nguồn:tìm kiếm hình ảnh từ Google
Chính bộ não siêu phức tạp của chúng ta khiến loài người khác biệt so với
các loài linh trưởng còn lại, và vì thế mất nhiều thời gian hơn mới bắt đầu xuất
hiện trong giai đoạn bào thai, so với hệ hô hấp hay hệ tiêu hoá. Điều này cũng
giải thích được sự phát triển theo từng vùng của hệ thần kinh—tức là những
trung khu thần kinh kiểm soát các chức năng cơ bản như thở và ăn sẽ hoàn thiện
sớm hơn các vùng chức năng phức tạp hơn như ngôn ngữ và tư duy. Khi bắt đầu
giai đoạn thai nhi (từ tuần thứ 9), thì não bộ vẫn còn ở hình dạng cơ bản, trong
khi tuỷ sống đã hoàn thiện và bắt đầu hoạt động. Tuỷ sống sơ khai kiểm soát
những cử động đầu tiên của thai nhi, như đầu và các chi cũng như các phản xạ
đơn giản.
Từ tuần thứ 13, não bộ đã có vùng đồi thị khá rõ, nằm phía sau hai bán
9
cầu còn rất nhỏ. Ở dưới đồi thị là tiểu não, rất nổi bật ở phía sau và phía dưới
não, ngay phía trên tuỷ sống, và đã bắt đầu hình thành các lá folia—là những
đường rãnh rõ rệt nhìn giống như hoạ tiết bông hoa. Sau ba tháng đầu tiên thì
não sau và não giữa đã khá hoàn thiện, nhưng đại não—phần kiểm soát đa phần
các khả năng đặc trưng của con người—lại vẫn chưa có khác biệt nhiều. Trong
vài tuần tiếp theo, hai bán cầu sẽ tăng trưởng vượt bậc, dày hơn và lớn hớn lên
phía đỉnh đầu. Khi hai bán cầu phát triển, thì chiếc cầu kết nối giữa chúng—tức
thể chai (corpus callosum)—bắt đầu hình thành. Hai bán cầu này cũng phát triển
ra phía sau đầu, và bao phủ lên đồi thị, và đồi thị sau cùng sẽ bị che dấu ở sâu
bên dưới hai bán cầu này.
Đến tuần 24, đại não chưa hoạt động được, thể hiện ở bề mặt còn nhẵn
nhụi; mới chỉ có những nếp nhăn chính (sulci/sulcus) rất đặc trưng ở não người
lớn. Các rãnh não này cho phép bộ não đang tăng trưởng tự xếp cuộn lại, vừa gia
tăng diện tích bề mặt, đồng thời có thể vừa trong hộp sọ. Những vùng được nâng
cao ở giữa các nếp nhăn được gọi là đường gấp nếp (gyri/ gyrus), và chính
những vùng chất xám này là nơi diễn ra các hoạt động phức tạp nhất của não bộ.
Rãnh não có ba kích thước: lớn, trung và nhỏ. Các rãnh lớn, như rãnh não
chia cách giữa thuỳ trán và thuỳ đỉnh, thì người nào cũng có. Các rãnh trung thì
đa dạng hơn, còn các rãnh nhỏ thì khác nhau rất nhiều ở mỗi người, tức là các
rãnh này không phải do gen quyết định. Rãnh não lớn bắt đầu xuất hiện trên bề
mặt hai bán cầu não sau tuần thứ 20, và sẽ hoàn thiện vào tuần thứ 7 . Các rãnh
nhỏ thì đến tháng cuối của thai kì hoặc đến khi trẻ một tuổi mới bắt đầu xuất
hiện.
Đại não xử lí thông tin nằm trong các cột nơ-ron vuông góc với bề mặt đại
não, mỗi cột có chứa hàng ngàn tế bào đóng vai trò đơn vị xử lí từ xa, như một
con chíp trên bo mạch máy tính. Diện tích đại não càng lớn thì càng chứa được
nhiều đơn vị xử lí. So sánh giữa các loài với nhau, như là chuột với mèo, khỉ với
người, thì ta thấy rằng đại não không chỉ đơn thuần là lớn hơn so với các phần
não khác, mà còn có nhiều các nếp cuộn sâu hơn, nhờ đó số lượng chip não tăng
10
lên nhiều lần. Tương tự sự khác biệt giữa các loài này, thì số lượng và độ sâu các
cuộn trong đại não thai nhi cũng tăng lên rất nhiều, bắt đầu từ cuối thai kỳ
11
Mỗi một phần kéo dài tạo thành một sơn thần kinh, dù phần kéo dài đó
nằm hay không nằm trong bao myelin là vỏ bọc giữ vai trò làm gia tăng tốc độ
truyền tín hiệu, các sợi thần kinh kết hợp lại với nhau bởi một bao “liên kết” là
một bao hình thành từ các tế bào nằm trong một chất đệm giàu collagen. Chính
sự kết hợp các bó sợi thần kinh với nhau đã tạo ra dây thần kinh. Các tế bào thần
kinh riêng biệt và các dây thần kinh hình thành một mạng lưới tổ chức theo thứ
bậc, ở đó có hai hệ là hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên...
Hệ thần kinh trung ương bao gồm tủy sống và não bộ. Não bộ bao gồm
đại não, tiểu não và thân não. Thân não là tổ chức nối đại não với tủy sống.
Hệ thần kinh ngoại biên bao gồm tất cả các dây thần kinh phát sinh từ thân
não và từ tủy sống. Dây thần kinh phát sinh từ thân não, gọi là “dây thần kinh
sọ”. phân bố thần kinh tới mặt. Dây thần kinh phát sinh từ tủy sống, gọi là
“dây thần kinh cột sống” nối tới toàn bộ cơ thể.
2.2.4. Một cấu trúc được thiết lập sẵn nhưng linh động dễ thay đổi.
Mạng nơron hình thành theo mô hình cơ bản mang tính di truyền. Tất cả
mọi người nói chung đều có cùng mạng nơron cùng những đường dẫn truyền
12
thông tin, cùng loại nơron tại những vùng giống nhau trong não. Những mô hình
cơ bản này hình thành từ sự tương tác với môi trường chung quanh và quá trình
tương tác này kích thích và củng cố một số đường dẫn truyền của noron nhằm
xử lý thông tin, còn những đường dẫn truyền không được sử dụng thì sẽ từ từ
biến mất. Các xung (nhìn, nghe một ngôn ngữ, khẩu vị,…) được thể hiện qua
hiện tượng sợi nhánh mọc và kéo dài ra, đôi khi qua sự phát triển của các nơron
hay những tế bào hình sao bao quanh chúng. Khi ta còn nhỏ, mỗi một vùng não
của ta đều trải qua thời kỳ rất để thay đổi đó là thời kỳ mà não rất chi nhạy cảm
với những kích thích đến từ bên ngoài. Nếu một con chuột nhỏ bị bịt một mắt
ngay từ khi nó vừa ra đời thì những thần kinh nối con mắt đó với vỏ não thị giác
sẽ bị hư mãi mãi. Cũng thế, một em bé nếu không được học nói từ khi sinh ra
cho tới khi trưởng thành thì sẽ bị câm không nói được nữa
13
Hệ giao cảm có chứa noradrenalin và adrenalin. Để giúp cơ thể chống
stress tốt hơn, hệ giao cảm làm gia tăng nhịp tim, kích thích tuần hoàn máu và
làm tiết mô hôi, dựng lông tóc. Hệ đối giao cảm ngược lại giúp cơ thể nghỉ ngơi
bằng cách làm giảm nhịp tim, kích thích tiêu hóa, và hoạt động trong khi đang
ngủ. Chất dẫn truyền thần kinh của hệ đối giao cảm là acetylcholine. Ngoài ra,
vùng hạ đồi cũng đóng vai trò quan trọng trong tổ chức sắp xếp thời gian. Các tế
bào thần kinh của vùng hạ đồi hoạt động giống như những chiếc đồng hồ, chúng
gửi các tín hiệu cụ thể vào những thời điểm cụ thể trong ngày. Vùng này còn cho
phép điều hòa lượng Hormone, nhiệt độ cơ thể và tất cả những đặc trưng trung
thay đổi trong ngày.
14
Trong thực tế, stress là thuật ngữ đôi khi dùng để chỉ một nguyên nhân,
một tác nhân gây ra phản ứng stress (như tiếng ồn của thành phố, cái nắng nóng
của sa mạc, bệnh tật, sự thay đổi chỗ ở, việc làm…), hoặc đôi khi dùng để chỉ
hậu quả của những tác nhân gây kích thích mạnh (như sự hốt hoảng khi gặp
thiên tai nặng nề; sự cô quạnh khi sống lâu ngoài đại dương; sự căng thẳng khi
gặp những khó khăn trong công việc…). Những yếu tố đóng vai trò nguyên nhân
gây ra stress thường được gọi là các yếu tố gây stress hoặc các stressor. Do vậy
không nên nhầm lẫn giữa stress (trạng thái tâm-sinh lí bên trong) với các tác
nhân gây stress (các yếu tố bên ngoài).
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm
lívà sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân
bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác động của môi trường. Nói cách
khác, phản ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.
Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không
thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới, thì những chức năng
của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí cơ thể, tâm lí, hành vi
sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.
Nhiều người cho rằng, stress là một chứng bệnh gắn liền với nền văn minh
hiện đại, bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại.
15
Lẽ đương nhiên bất kì một hiện tượng tâm lý nào cũng đều xuất hiện trên
cơ sở các quá trình sinh lý. Chính vì vậy stress tâm lý không thể tách rời với
stress sinh lý.
Dưới góc độ Tâm lý học, stress tâm lý là một trạng thái đặc biệt của cảm
xúc. Trong trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là
một trong những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột,
trong một khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động.
Theo Tâm lý học có thể chia stress thành năm loại chính: Stress tích cực
(Eustress), Stress tiêu cực (Distress), Stress cấp tính (Acute Stress) , Hyperstress,
Hypostress.
Stress tích cực (Eustress)
Đây là một trong những loại stress hữu ích. Nó xuất hiện ngay sau khi bạn
có nhu cầu cần sử dụng đến sức lực thể chất của mình. Eustress chuẩn bị cơ bắp,
tăng nhịp đập tim và sự tập trung tâm trí vào bất cứ tình huống mà bạn cần phải
sử dụng sức mạnh cơ bắp.
Eustress cũng có thể sử dụng trong những nỗ lực sáng tạo. Khi một người
cần có thêm những năng lượng để sáng tạo, Eustress giúp cho họ có được những
sự kích thích/ hưng phấn cần thiết. Một vận động viên sẽ trải nghiệm một sức
mạnh đến từ eustress ngay sau khi họ chơi một cuộc đấu lớn hoặc một trận đấu
lớn. Do eustress, họ có thể có được ngay lập tức sức mạnh mà họ cần để thi đấu.
Trong thế giới tự nhiên, các loài động vật có một cơ chế phản ứng được
gọi là “chiến hay biến”. Khi phải đối đầu với kẻ săn mồi hoặc một mối nguy
hiểm, các loài động vật sẽ phải quyết định bỏ chạy hay chống trả. Tương tự như
ở động vật, khi đối mặt với nguy hiểm và thác thức cơ thể con người cũng sẽ trải
nghiệm eustress. Eustress chuẩn bị cho cơ thể những năng lượng cần thiết để
đánh hoặc là chạy chống khỏi mối nguy hiểm. Loại stress này sẽ giúp lượng máu
dồn đến các cơ bắp để làm các cơ bắp cứng lên, nó cũng làm tăng nhịp tim và
huyết áp trong máu. Nếu sự kiện hay mối nguy hiểm qua đi, cơ thể sẽ trở lại
trạng thái bình thường.
16
Stress tiêu cực (Distress)
Nỗi buồn khổ là một trong những loại stress tiêu cực. Nó là một trong
những loại stress mà tâm trí và cơ thể phải chịu đựng khi những thói quen thông
thường phải thay đổi và điều chỉnh. Tâm trí chưa thích nghi và thoải mái với sự
thay đổi này, nó vẫn có xu hướng quay lại thói quen cũ. Có hai loại distress là
cấp diễn và trường diễn.
Hyperstress
Hyperstress là loại stress tiêu cực xuất hiện khi một người chịu áp lực quá
lớn so với khả năng đảm nhận hay chịu đựng của họ. Một người làm kinh doanh
trên thị trường phố Wall hay một công việc quá nặng nhọc, lao động quá giờ liên
tục sẽ gây ra cho người làm gặp phải loại stress này.
Một người trải nghiệm hyperstress sẽ thường phản ứng với một sự kiện
không căng thẳng lắm với một cảm xúc thái quá. Đây là loại stress rất cần nhận
biết vì nó có thể gây ra những hậu quả nghiệm trọng về cảm xúc cũng như thể
chất.
17
Hypostress
Hypostress là loại stress đối ngược với với hyperstress. Hypostress xuất
hiện khi cá nhân cảm thấy rất chán nản và nhàm chán hoặc không có thử thách
gì trong cuộc sống. Nếu bạn cùng một việc hàng ngày, tại cùng một nơi, luôn
gặp những người cũ, làm mãi một công việc không thay đổi, những nhiệm vụ
được lặp đi lặp lại, bạn sẽ gặp phải loại stress này. Ảnh hưởng của loại này là
cảm giác nhàm chán và đơn điệu cũng như thiếu động lực làm việc.
CHƯƠNG 3.
Các giai đoạn và cơ chế của stress
3.1 Các giai đoạn của stress
Những nguyên nhân gây ra hiện tượng stress có thể rất khác nhau,
nhưng phản ứng của cơ thể đối với chúng thì đều giống nhau. Tất cả các
phản ứng này đều diễn ra theo ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: con người cảm thấy có khó khăn.
- Giai đoạn hai: con người thích nghi với những khó khăn.
- Giai đoạn ba: giai đoạn cuối cùng, con người không chịu đựng được
nữa.
Ba giai đoạn này giống như một qui luật chung điều hòa hành vi của
mọi sinh vật khi bị rơi vào những điều kiện đặc biệt căng thẳng và giống như
tiến trình của một phản ứng thích nghi không đặc hiệu của cơ thể đối với
những tác động mạnh mẽ, đột ngột khác nhau của môi trường.
Theo Hans Selye (nhà nghiên cứu người Canada), phản ứng stress được
chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn báo động, giai đoạn thích nghi và giai đoạn
suy kiệt.
18
Các hoạt động tâm lí được kích thích, đặc biệt là tăng cường quá trình tập
trung chú ý, ghi nhớ và tư duy...
Các phản ứng chức năng sinh lí của cơ thể được triển khai như tăng
huyết áp, nhịp tim, nhịp thở và tăng trương lực cơ bắp...
Những thay đổi tâm lí - sinh lí - hành vi đã giúp con người đánh giá các
tình huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống đó.
Giai đoạn báo động có thể diễn ra rất nhanh (vài phút) hoặc kéo dài vài
giờ, vài ngày... Chủ thể có thể chết trong giai đoạn này, nếu yếu tố gây stress
quá mạnh, tình huống stress quá phức tạp. Nếu tồn tại được thì các phản ứng
ban đầu chuyển sang giai đoạn ổn định (hay còn gọi là giai đoạn thích nghi).
• Giai đoạn thích nghi:
Trong giai đoạn này, mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể
chống đỡ và điều hòa các rối loạn ban đầu. Sức đề kháng của cơ thể tăng lên,
con người có thể làm chủ được tình huống stress, lập lại các trạng thái cân bằng
nội môi (homeostase) và tạo ra sự cân bằng mới với môi trường. Giai đoạn
này còn được gọi là giai đoạn chống đỡ.
Trong một tình huống stress bình thường, chủ thể đáp ứng lại bằng hai
giai đoạn báo động và chống đỡ.
Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm, sinh lí cơ
thể được phục hồi. Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần, thì quá trình
phục hồi không xảy ra và chuyển sang giai đoạn suy kiệt.
19
3.2 Cơ chế của stress
Mỗi loại tâm bệnh cụ thể có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng các chuyên
gia trong lĩng vực trị liệu tâm lý có thể khái quát hoá thành một số cơ chế phát
bệnh và duy trì trạng thái tâm bệnh như sau:
Các tình huống, các sự kiện trong cuộc sống thường tích tụ stress ở mỗi cá
nhân và có xu hướng thực thể hóa thành bệnh lý Những sự kiện kích thích gây
stress, một khi vượt quá khả năng ứng phó của thân chủ hoặc được thân chủ
nhận diện, khẳng dịnh như là ‘‘sự đe dọa” sẽ gây ra những tình cảm tiêu cực: lo
âu sợ hãi, buồn chán…Những cảm giác khó chịu này nếu kéo dài sẽ làm đảo lộn
các chức năng hoạt động bình thường của thân chủ, do đó buộc thân chủ phải
tăng cường sự chú ý đến thân thể, trở nên quá cảnh giác và quá nhạy cảm với
những vấn đề sinh lý của cơ thể mà lẽ ra lúc bình thường họ luôn bỏ qua. Họ có
nhu cầu kiểm tra hành vi luôn luôn và tìm kiếm sự an toàn này giúp đỡ từ các
chuyên gia y học. Khi họ càng bận tâm với những thay đổi của cơ thể, họ càng
cảm thấy có nhiều những những ‘‘phản ứng bất thường của cơ thể’’. Điều này có
thể được thân chủ tập hợp rồi suy diễn, tưởng tượng thành những dấu hiệu hay
triệu chứng của một căn bệnh trầm trọng. Do váy, càng làm thân chủ cảm thấy bị
đe doạ và làm họ càng lo lắng khiếp sợ. Những nhân tố tâm–sinh lý tiêu cực này
trực tiếp ảnh hưởng lên các quá trình thần kinh–miễn dịch làm thay đổi trạng
thái miễn dịch, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động thần kinh–nội tiết, làm ngưng
hoặc tiết quá nhiều một số chất nào đó. Vì vậy làm rối loạn chức năng hoạt động
bình thường của một cơ quan, chẳng hạn hệ tim mạch hay hô hấp hoặc làm rối
loạn toàn cơ thể mà hậu quả tiếp theo là những tổn thương thực thể sẽ hình thành
hoặc trầm trọng thêm. Lo hãi, kích thích nhịp thở, tăng sự thông khí làm cho
C02 bị thải quá nhiều, do đó độ kiềm trong huyết tăng lên. Điều này lại làm tăng
sự lo hãi. Đây là vòng luẩn quẩn nuôi dưỡng lo hãi kéo dài, duy trì điều kiện
thuận lợi cho các chứng bệnh. Do vậy muốn khỏi bệnh phải học cách điều hoà
cảm xúc để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này.
20
Theo các chuyên gia tâm–sinh lý, các đáp ứng cảm xúc tiêu cực của cơ thể
như căng thẳng, lo lắng, sợ hãi là những đáp ứng phức tạp, chẳng bao gồm các
thành phần: (1) ứng xử, (2) tâm lý, (3) sinh lý. Những căng thẳng về tâm lý bao
giờ cũng đi liền với những phản ứng về sinh lý như tăng nhịp thở, huyết áp tăng,
nhịp tim tăng, thân nhiệt tăng, đau cơ bắp, toát mồ hôi, run chân tay, nhức đầu…
đây là những nhân tố tạo ra hay thúc đẩy tâm bệnh lý.
Trích từ cuốn sách Tâm lý trị liệu (Ứng dụng trong lâm sàng và tự chữa bệnh),
Nguyễn Công Khanh
Nghiên cứu trên những căn bệnh nhiễm khuẩn, truyền nhiễm, người ta
thấy rằng có những con đường mà qua đó các stress về tâm–sinh lý có thể dẫn
đến khả năng dễ mắc các chứng tật truyền nhiễm. Vì những stress tâm sinh lý:
(1) làm rối loạn các quá trình trao đổi chất, làm thay đổi các quá trình sinh hoá,
dẫn đến các tác nhân gây bệnh như (vi khuẩn, vi trùng, vi rút) có nhiều cơ hội
thâm nhập gây bệnh hay truyền bệnh; (2) khởi động hay thúc đẩy một tác nhân
gây bệnh đã có trong cơ thể (vốn trước đó nằm im do bị kiềm chế, kiểm soát thì
21
nay có điều kiện sinh sôi hay hoạt động trở lại gây bệnh; (3) giúp duy trì một quá
trình bệnh lý đang diễn ra, làm chậm lại quá trình khỏi bệnh.
Trích từ cuốn sách Tâm lý trị liệu (Ứng dụng trong lâm sàng và tự chữa bệnh),
Nguyễn Công Khanh
CHƯƠNG 4.
Biểu hiện và nguyên nhân của stress
4.1 Biểu hiện của stress
4.1.1 Phản ứng về mặt cảm xúc
Những thay đổi quan trọng nhất cần phải cảnh giác là căng thẳng, cáu
kỉnh và ủ rũ. Những rắc rối nhỏ trở nên không thể chịu nổi nếu chúng ta sắp rơi
vào stress và có thể tạo ra một sự bùng nổ dữ dội hoặc sự xáo trộn lớn.
• Cảm thấy bị áp lực
• Cảm thấy căng thẳng và không thể thư giãn
• Cảm thấy trí óc kiệt quệ
• Luôn có cảm giác lo sợ hoặc bất an
• Tăng mức độ cáu kỉnh hay phàn nàn
22
• Cảm giác mâu thuẫn
• Bức minh và hung hăng
• Bồn chồn, càng ngày càng không thể tập trung hoặc hoàn thành
công việc nhanh chóng
• Dễ khóc
• Hay quan trọng hóa vấn đề, buồn bã hoặc nghi ngờ
• Không thể đưa ra quyết định
• Muốn bỏ chạy hoặc trốn tránh
• Sợ mình sẽ ngất, đột quỵ hay chết
• Sợ mình sẽ lúng túng trước mặt những người khác hoặc thất bại
• Không còn thấy vui vẻ và hứng thủ
26
CHƯƠNG 5.
Hậu quả của stress
5.1 Ảnh hưởng về mặt tâm lý
Xét về mặt tâm lý, sự ảnh hưởng của stress được diễn ra trên các cấp độ
khác nhau:
– Cấp độ cơ thể:
Một khi có bộ phận hay cơ quan nào đó bị bệnh thì hoạt động chung của
hệ thống đó cũng bị thay đổi. Đến lượt mình, hệ thần kinh cũng phải có sự điều
chỉnh trong hoạt động của nó do ảnh hưởng của hệ thống bị bệnh. Sự điều chỉnh
hoạt động của hệ thần kinh chính là cơ sở dẫn đến sự thay đổi tâm lý của bệnh
nhân. Ví dụ như trong trạng thái mệt mỏi, hệ thần kinh trở nên nhạy cảm hơn đối
với các kích thích từ bên ngoài. Tiếng người nói bình thường như mọi khi đã làm
cho bệnh nhân cảm thấy to hơn, khó chịu hơn.
– Cấp độ tâm lý:
Khi bị stress, tâm lí của người bệnh có các thay đổi nhất định. Trạng thái
tâm lý thường gặp nhất là trạng thái lo âu. Tuỳ theo mức độ của bệnh và đặc
biệt là các đặc điểm nhân cách của cá nhân, phản ứng lo âu của bệnh nhân biểu
hiện rất khác nhau, từ thờ ơ coi thường bệnh tật cho đến phản ứng thái quá. Có
những trường hợp thậm chí còn rơi vào trạng thái bệnh lý mặc dù có thể bệnh cơ
thể không nặng. Bên cạnh đó, các hiện tượng tâm lí của con người lại có liên
quan mật thiết với nhau. Trong trạng thái lo âu hoặc cảm xúc không ổn định, khả
năng tư duy, trí nhớ và trí tuệ nói chung cũng đều bị ảnh hưởng.
– Cấp độ xã hội:
Mỗi bệnh nhân không chỉ đơn thuần là một cơ thể bị bệnh. Trên bình diện
xã hội, họ là chủ thể của các mối quan hệ và các hoạt động cá nhân, xã hội. Họ
là thành viên của gia đình (với một số cương vị nhất định như cương vị người
chồng và người cha), là thành viên của một nhóm xã hội nào đó (trong cơ sở lao
động hoặc trong các tổ chức chính quyền, đoàn thể…). Một khi bị bệnh, các
cương vị của họ ít nhiều cũng bị chi phối, bị ảnh hưởng. Thêm vào đó còn có thể
27
là các ảnh hưởng đáng kể về kinh tế: tăng chi phí cho các hoạt động khám, chữa
bệnh, giảm thu nhập do nghỉ việc. Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm lí bệnh nhân.
Sự kết hợp cả ba cấp độ đó càng làm cho những biến đổi tâm lý của bệnh
nhân trở nên phức tạp hơn.
Tâm lý người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến mức nào là tùy thuộc
vào đời sống tâm lý vốn có của người bệnh. Mỗi người bệnh có những thái độ
khác nhau đối với bệnh tật. Có người cho bệnh tật là điều bất hạnh không thể
tránh được, đành cam chịu, mặc cho bệnh tật hoành hành. Có người kiên quyết
đấu tranh, khắc phục bệnh tật. Có người không sợ bệnh tật, không quan tâm tới
bệnh tật. Có người sợ hãi, lo lắng vì bệnh tật. Đôi khi chúng ta gặp những người
thích thú với bệnh tật, dùng bệnh tật để tô vẽ cho thế giới quan của mình. Bên
cạnh những người giả vờ mắc bệnh, lại có người giả vờ như không bị bệnh tật…
Thái độ đối với bệnh tật nói riêng và đời sống tâm lý của người bệnh nói chung
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động sinh lực bản thân trong phòng và
chữa bệnh cũng như trong khắc phục hậu quả bệnh tật của người bệnh.
Những diễn biến bệnh tật và biến đổi tâm lý của người bệnh tác động lẫn
nhau theo vòng tròn khép kín: bệnh ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân và
ngược lại, tâm lý cũng ảnh hưởng đến diễn biến và kết cục của bệnh. Các yếu tố
tâm lý có thể đóng vai trò là nguyên nhân (như trong một số trường hợp bệnh cơ
thể tâm sinh), cũng có thể là hậu quả của bệnh (lo âu, trầm cảm..) hoặc là hiện
tượng đi cùng. Khi thăm khám bệnh nhân tại một thời điểm nào đó, các yếu tố
tâm lý có thể vừa là hậu quả song chúng lại vừa có thể ảnh hưởng tiếp tới diễn
biến của bệnh (có thể làm xấu đi hoặc ngược lại, giúp bệnh nhân có thêm nghị
lực đấu tranh chống lại bệnh tật).
29
5.3. Stress và trí nhớ
Sự cũng thẳng có thể gây ảnh hưởng đến quá trình hình thành trí nhớ. Khi
gặp stress, người ta sẽ khó khăn hơn trong việc thiết lập trí nhớ ngắn hạn và
chuyển loại trí nhớ ấy sang loại trí nhớ khác bền vững hơn là trí nhớ dài hạn; do
đó, việc học tập của chúng ta cũng sẽ trở nên khó khăn hơn khi gặp stress.
Ngoài ra, stress còn tác động đến những loại ký ức mà chúng ta thiết lập.
Nếu bị stress trong khoảng thời gian diễn ra một sự kiện nào đó, chúng ta có thể
gặp trở ngại hơn trong việc ghi nhớ một cách chính xác những chi tiết của sự
kiện sau này, do sự căng thăng mà chúng ta cảm nhận được ảnh hưởng đến khả
năng nhận thức cũng như khả năng hồi tưởng lại những gì mà ta trị giác được ở
thời điểm đó. Đó cũng là lý do vì sao lời khai của các nhân chứng thường không
đáng tin cậy; những người này có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ đã tận mắt
chứng kiến một sự việc gì đó, nhưng như vậy không có nghĩa là lời khai của họ
đúng. Một nghiên cứu cho thấy những người quan sát cùng một sự kiện có thể
khai báo về những gì họ thấy theo những cách võ cũng khác nhau, tuy nhiên,
mức độ chắc chắn về những gì họ trống thủy được không phải lúc nào cũng liên
quan đến độ chính xác của họ ve những thông tin đó. Hơn nữa, những ký ức có
thể bị thay đổi sau khi chúng được thiết lập. Trên thực tế, mỗi khi nhớ lại một sự
kiện nào đó trong quá khứ, những ký ức của chúng ta về sự kiện đỏ có thể bị ảnh
hưởng bởi những kinh nghiệm hiện tại của bản thân, giống như khi ta lấy một
vật từ trên kệ xuống, sau đó đem cất lại lên kệ, ta đã để lại dấu vân tay của mình
trên vật đó. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu người ta bị chất vấn và cung cấp
những thông tin sai lệch về một sự việc mà họ đã từng trải qua, những thông tin
đó sẽ có ảnh hưởng lớn tới trí nhớ của họ về những chuyện mà họ cho là đã trải
qua (vị nó gần hơn chính chuyện đó) và sẽ dễ nhớ lại hơn. Đó là lý do vì sao các
câu hỏi có chủ đích có thể tạo ra những ký ức sai lệch.
Một trong số những phát hiện thú vị nhất chính là stress có thể cản trở sự
hình thành ký ức nếu nó diễn ra trước hoặc trong quá trình mã hoá, tức là trong
khoảng thời gian ký ức đang hình thành. Tuy nhiên, tin vui là có sự trì hoãn ngắn
30
giữa quá trình mã hóa và quá trình hình thành của trí nhớ. Nếu những thứ mà ta
tiếp nhận cũng có liên quan trực tiếp đến các tác nhân gây stress, khả năng nhớ
của ta có thể tốt hơn. Thậm chí, stress sau khi mã hóa còn có thể cải thiện quá
trình hình thành trí nhớ cũng như nhỏ lại những sự việc trong quá khứ, nghĩa là,
stress diễn ra sau khi ký ức được hình thành góp phần giúp cho việc ghi nhớ trở
nên hiệu quả hơn.
Stress làm gia tăng cortisol; tuy nhiên, lượng cortisol đó không phải là tác
nhận trực tiếp ảnh hưởng đến trí nhớ của con người. Nếu cơ thể bạn sản sinh ra
nhiều cortisol trong quá trình phản ứng với stress, điều đó không có nghĩa là trí
nhớ của bạn sẽ bị sẽ giảm sút hơn so với những người có nội tiết tố ít nhạy cảm
hơn. Ngoài ra, có một điều thủ vị nữa là những phụ nữ sử dụng thuốc uống tránh
thai thường ít chịu tác động tiêu cực hơn.
31
CHƯƠNG 6.
Các biện pháp hạn chế stress
Khi rơi vào trường hợp stress cấp tính thì phản ứng căng thẳng trong cơ
thể sẽ được kích hoạt, các kỹ thuật làm giảm stress nhanh chóng sẽ giúp bản
thân cảm thấy ổn trở lại. Những kỹ thuật này có thể giúp chúng ta thả lỏng bản
thân và nhanh chóng thoát khỏi stress cấp tính.
Bài tập hít thở: rất hữu ích trong trường hợp stress cấp tính, vì chúng
thường phát huy hiệu quả nhanh.
Thay đổi nhận thức: Học cách thay đổi cách nhìn của bản thân về tình
huống có thể giúp kiểm soát mức độ căng thẳng.
Thư giãn cơ bắp: Cũng tương tự như bài tập hít thở, việc luyện tập thư
giãn cơ bắp sẽ giúp bản thân bình tĩnh lại hơn.
Các bài thiền định ngắn: Thực hiện các bài tập hít thở kèm với kỹ thuật
thiền nhanh trong 5 phút để có thể bình tĩnh lại.
Những thói quen lâu dài sau đây có thể giúp bản thân kiểm soát tốt hơn
những cơn căng thẳng do stress mãn tính gây ra:
- Tập thể dục thường xuyên việc tập thể dục thường xuyên giúp kiểm
soát những cơn stress hiệu quả bởi nhiều lý do.
- Duy trì chế độ ăn uống lành mạnh: việc ăn uống lành mạnh giúp
các hệ thống trong cơ thể hoạt động tốt hơn, từ đó giúp giảm mức độ căng
thẳng.
- Xây dựng những mối quan hệ tốt: Ở bên những người sẵn sàng hỗ
trợ cho bản thân sẽ góp phần quan trọng giúp vượt qua căng thẳng.
- Tập thói quen thiền định: Những lần thiền định ngắn giúp vượt qua
stress cấp tính, vậy nên hãy tạo thói quen thường xuyên ngồi thiền để nhanh
chóng phục hồi sau stress hơn.
- Tận hưởng âm nhạc: Âm nhạc chính là một nhân tố tuyệt vời giúp
giảm stress sau ngày dài làm việc.
32
Những chiến lược khác nhau giúp xử lý, xây dựng và lan truyền cơ chế
phục hồi sau stress trong cơ thể hoạt động một cách hiệu quả trong những tỉnh
huống khác nhau. Và dưới đây là một số cách để kiểm soát những cơn căng
thẳng trong cảm xúc:
- Viết nhật ký: có nhiều phương thức viết nhật ký đáng để thử, và tất
cả đều có lợi cho bạn.
- Tâm sự với bạn bè: học cách chấp nhận những lời dễ nghị giúp đỡ
và sự ủng hộ đến từ bạn bè.
- Tận hưởng âm nhạc
- Thực hành hướng tâm về chánh niệm: Chánh niệm có thể giúp bạn
kết nối tâm mình với từng khoảnh khắc trong hiện tại.
- Chia sẻ với bác sĩ tâm lý.
- Học cách nghỉ ngơi hay thư giãn, tạo niềm vui cho mình ngay cả
trong những ngày làm việc để cảm thấy bản áp lực hơn.
33
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Công nghiệp hoá, đô thị hoá và sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay đã tạo ra những thách thức rất lớn cho mỗi chúng ta. Có thể
nói sự ô nhiễm môi trường, quá tải thông tin, cơ hội tìm kiếm việc làm, vấn đề di
dân, áp lực công việc, áp lực học tập, thời gian dành cho cuộc sống cá nhân, gia
đình và tổ chức là những tác nhân cơ bản gây ra stress (căng thẳng, lo âu) ảnh
hưởng trực tiếp với sức khoẻ, khả năng lao động, cuộc sống của cá nhân và xã
hội. Hậu quả nặng nề do stress gây ra không chỉ ảnh hưởng tới bản thân người
bệnh mà còn ảnh hưởng tới những người xung quanh như gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp; từ đoảnh hưởng tới cả kinh tế của xã hội.
Vì vậy mỗi người nên được trang bị những kiến thức về stress để nâng cao
đời sống tâm lý của bản thân cũng như nhận ra các vấn đề của những người
xung quanh và hỗ trợ họ kịp thời; tránh để bản thân và những người xung quanh
rơi vào cảm giác stress nặng dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
34
https://drive.google.com/file/d/
1uJr_m9Mw_Q8zBfSG8m9LDdjHCUQX-hx/view
https://drive.google.com/file/d/18om2srYpn5Qb0MyDnMkc9p4ZCDy
VffdE/view
35