You are on page 1of 11

CHỦ ĐỀ 5

Xu hướng nổi bật trong hai thập kỷ đầu thế kỷ 21 là sự thăng trầm của
các cường quốc dẫn tới quá trình tái cấu trúc trật tự thế giới.

Chiến tranh bùng phát với tần suất lớn

Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), Mỹ coi mình là “người chiến thắng” trong
Chiến tranh Lạnh và có nhiều hành động quyết liệt trên khắp thế giới. Vì
không còn yếu tố kiềm chế của hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu, Mỹ đơn phương phát động nhiều cuộc chiến tranh và xung đột.
Mở đầu thế kỷ XXI, không cần điều tra xác minh kẻ nào là thủ phạm thực
hiện vụ tấn công Tòa tháp đôi của Trung tâm thương mại quốc tế ở New
York (11/09/2001), Tổng thống Mỹ George W. Bush phát động cuộc chiến
tranh toàn cầu chống khủng bố ở Afghanistan kéo dài gần 20 năm nhưng
đang lâm vào bế tắc.

Tiếp đến, Mỹ phát động cuộc chiến tranh Iraq - một cuộc chiến không chỉ
bị Nga và Trung Quốc mà cả các đồng minh của Mỹ trong Liên minh quân
sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) là Pháp và Đức phản đối. Đến nay, Mỹ vẫn bị
sa lầy ở đó. Năm 2008, NATO do Mỹ đứng đầu “chống lưng” cho Gruzia
phát động Cuộc chiến tranh 5 ngày nhằm vào lực lượng gìn giữ hòa bình
của Nga ở Nam Osetia, đã bị Nga đánh trả và thất bại thảm hại.

Năm 2011, Mỹ đứng đầu NATO kích động các biến động chính trị mang
tên “Mùa Xuân Arab” ở Trung Đông-Bắc Phi, dẫn tới cuộc chiến tranh
xâm lược Libya để tiêu diệt nhà lãnh đạo Muammar Gaddafi.

“Mùa Xuân Arab” còn dẫn tới cuộc chiến tranh Syria kéo dài tới nay chưa
thể kết thúc do sự cạnh tranh địa-chính trị giữa Mỹ và NATO với Nga, Thổ
Nhĩ Kỳ, Iran và Israel. “Mùa Xuân Arab” còn dẫn tới cuộc chiến tranh ở
Mali (2012) và chiến tranh Yemen (2015). Năm 2020, cạnh tranh đ ịa-
chính trị còn dẫn tới chiến tranh giữa Azerbaijan và Armenia liên quan
tới tranh chấp ở Nagorno-Karabakh

Nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống

Chuỗi dài các cuộc chiến tranh từ Afghanistan tới Trung Đông khiến Mỹ
phải tiêu tốn gần 6.000 tỉ USD. Đây là một trong những nguyên nhân đưa
Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống, cả đối nội và đối ngoại.

Về đối nội, cuộc khủng hoảng năm 2008 là cuộc khủng hoảng lần thứ hai
của mô hình chủ nghĩa tư bản tài chính dựa trên cơ sở vị thế độc tôn của
đồng đô la Mỹ (USD) trong nền kinh tế toàn cầu được bảo đảm bằng dầu
mỏ, tiếp theo cuộc khủng hoảng lần thứ nhất vào đầu những năm 1970.

Theo nhận định của Zbigniev Brzezinski-nguyên Cố án an ninh quốc gia


của cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Cater, cuộc khủng hoảng năm 2008 là
cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống và sẽ không sớm kết thúc vào năm
2010, năm 2012 hay năm 2015, mà sẽ chỉ chấm dứt khi nào Hoa Kỳ đạt
được mục đích giành lại vị thế độc tôn của USD trong nền kinh tế thế giới.

Sau khi lên cầm quyền vào năm 2017, Tổng thống Donald Trump quyết
định chia tay với chủ nghĩa tư bản tài chính và đưa Mỹ quay trở lại con
đường của chủ nghĩa tư bản công nghiệp để làm cho nước Mỹ “vĩ đại trở
lại” và trở thành cường quốc công nghiệp số 1 thế giới trong điều kiện
cách mạng công nghiệp 4.0.

Cuộc bầu cử tổng thống năm 2020 thực chất là “cuộc chiến” giữa hai
cách lựa chọn con đường phát triển của nước Mỹ, giữa một bên là lực
lượng của chủ nghĩa tư bản công nghiệp trong Đảng Cộng hòa do Donald
Trump đại diện và bên còn lại là lực lượng của chủ nghĩa tư bản tài chính
trong Đảng Dân chủ được đại diện bởi Joe Biden. Bên ngoài là sự sụp đổ
khó tránh khỏi của trật tự thế giới đơn cực hình thành sau Chiến tranh
lạnh do Washington nắm quyền kiểm soát.

Để thay thế trật tự thế giới đơn cực đang sụp đổ, Tổng thống đắc cử
Joseph Biden chủ trương sẽ tổ chức Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu vào
năm 2021 để tập hợp tất cả các quốc gia dân chủ trên toàn thế giới dưới
ngọn cờ của Mỹ để “chống lại chủ nghĩa độc tài và chủ nghĩa dân tộc và
thiết lập trật tự thế giới mới”.

Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc

Một trong những hiện tượng hiếm có trong lịch sử thế giới là sự trỗi dậy
mạnh mẽ của Trung Quốc chỉ sau 30 năm cải cách mở cửa. Từ một quốc
gia đang phát triển ở mức thấp, Trung Quốc vươn lên trở thành nền kinh
tế số 2 trên thế giới, chỉ đứng sau Mỹ.

Sau cuộc khủng hoảng ở Mỹ năm 2008, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chủ trương
thúc đẩy Trung Quốc gia tăng sức mạnh và ảnh hưởng trên thế giới. Chính
vì vậy, ông Hồ Cẩm Đào thẳng thừng từ chối đề nghị của Tổng thống
Barack Obama trong chuyến thăm Trung Quốc vào năm 2009, theo đó M ỹ
và Trung Quốc sẽ hình thành Nhóm G-2 để “quản trị thế giới”.

Theo nhận định của chính giới ở Mỹ, với chương trình “Made In China
2025” và Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, Trung Quốc theo đuổi tham
vọng xây dựng trật tự thế giới mới theo “sự đồng thuận Bắc Kinh”.

Sau khi bước vào Nhà Trắng vào năm 2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump
coi Trung Quốc là “quốc gia xét lại trật tự thế giới” và là “đối thủ cạnh
tranh số 1” với Mỹ. Từ đó, ông Donald Trump khởi động chiến lược cạnh
tranh toàn diện với Trung Quốc, có thể đưa hai nước lâm vào Chiến tranh
lạnh 2.0, trong đó cạnh tranh ý thức hệ chỉ là thứ yếu mà nghiêm trọng
hơn là cạnh tranh vị thế bá chủ thế giới.

Sự vươn dậy và hồi sinh ngoạn mục của nước Nga


Sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ đứng đầu Phương Tây theo đuổi chiến lược
nhằm làm tan rã nước Nga như một quốc gia có chủ quyền, thậm chì xóa
sổ vĩnh viễn nước Nga trên bản đồ thế giới.

Bước vào Điện Kremlin vào ngày cuối cùng của thế kỷ XX và thiên niên kỷ
thứ hai (31/12/1999) và chính thức nhậm chức Tổng thống Nga đầu năm
2000, với bản lĩnh kiên cường của một cựu sỹ quan tình báo Xô Viết, tầm
nhìn chiến lược và tình yêu nước Nga đến vô hạn, ông Vladimir Putin đã
đưa nước Nga thoát khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện sau gần 10 năm
cầm quyền của người tiền nhiệm Boris Yeltsin kể từ khi Liên Xô tan rã.

Sau 20 năm cầm quyền của V.Putin, nước Nga đã trải qua thời kỳ vươn
dậy và hồi sinh ngoạn mục, trở thành cường quốc mới có ảnh hưởng ngày
càng lớn trên thế giới.

Về kinh tế, năm 2020, tính theo GDP, Nga được xếp vị trí thứ 11 thế giới.
Về chính trị, Nga đã xác định rõ con đường phát triển theo mô hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội. Về quân sự, Nga hoàn thành cải cách Các
lực lượng vũ trang, tái lập thế cân bằng chiến lược với Mỹ bằng nhiều loại
vũ khí độc nhất vô nhị hoàn toàn có khả năng đáp trả hành động xâm lược
dưới bất kỳ phương thức nào. Nga có tiếng nói và ảnh hưởng ngày càng
lớn trên thế giới, trong đó đã đóng góp phần lớn nhất và có ý nghĩa quyết
định đánh bại chủ nghĩa khủng bố ở Syria.

Tiến trình toàn cầu hóa bị thách thức

Quá trình toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ 21 thực chất là quá
trình toàn cầu hóa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là xu hướng
chủ đạo trong sự phát triển của thế giới. Tuy nhiên, do quá trình này
mang lại lợi ích khác nhau cho các nước khác nhau xuất phát từ đặc
điểm thể chế chính trị và kinh tế-xã hội.

Trong những năm gần đây, một số quốc gia nhận thấy mặt trái của quá
trình toàn cầu hóa như nạn vi phạm bản quyền, làn sóng nhập cư bất hợp
pháp, sự thao túng tiền tệ, làn sóng đơn phương cấm vận hoàn toàn trái
với quy định của Tổ chức thương mại thế giới, nên họ đã có những bước
điều chỉnh chính sách theo hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa
dân tộc, chủ nghĩa dân túy, trong đó trước hết phải kể đến chính sách
“Nước Mỹ trên hết” của Tổng thống Donald Trump hay Vương quốc Anh
rời khỏi EU.

Trong bối cảnh đó, đại dịch Covid-19 là đòn giáng mạnh và là thách th ức
vô cùng nghiệt ngã đối với quá trình toàn cầu hóa, thúc đẩy thế giới bước
vào một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa bảo hộ. Tuy nhiên, chính đại dịch
Covid-19 cũng là động lực thúc đẩy tạo ra diện mạo hoàn toàn mới cho
toàn cầu hóa theo hướng đẩy nhanh sự phát triển nền kinh tế số trên
phạm vi toàn cầu.

Kỷ nguyên tái cấu trúc trật tự thế giới


Hội nghị an ninh quốc tế Munich năm 2019 đưa ra nhận định, trong quan
hệ quốc tế nổi lên sự cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc Hoa Kỳ,
Trung Quốc và Nga đang đưa hành tinh chúng ta bước vào kỷ nguyên tái
cấu trúc vĩ đại trong trật tự thế giới. Trong đó, Mỹ đang ra sức ngăn chặn
sự sụp đổ trật tự thế giới đơn cực do Washington kiểm soát, Trung Quốc
đang theo đuổi tham vọng xây dựng trật tự thế giới theo “sự đồng thuận
Bắc Kinh” và Nga không chấp nhận trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh
đạo. Còn Liên minh châu Âu (EU) chưa sẵn sàng đóng vai trò mới trong
kỷ nguyên cạnh tranh quyền lực giữa các cường quốc.

Đại dịch Covid-19 như một động lực mạnh mẽ đấy nhanh quá trình tái cấu
trúc trật tự thế giới, trong đó sẽ diễn ra những chuyển dịch rất lớn trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Virus Sars-CoV-2 gây ra đại dịch
Covid-19 còn chứng tỏ vũ khí virus một khi được sử dụng sẽ có sức hủy
diệt lớn hơn cả vũ khí hạt nhân. Chiến tranh thế giới thứ ba, nếu xẩy ra, sẽ
không có các tập đoàn quân khổng lồ được trang bị vũ khí hiện đại hoặc
các cuộc tấn công ồ ạt bằng tên lửa mà sẽ diễn ra bí mật bằng vũ khí sinh
học.

Trong bản báo cáo nghiên cứu dự báo tương lai của thế giới sau đại dịch
Covid-19 với tiêu đề “Covid-19: tái cấu trúc vĩ đại” (“The Great Reset”),
Giáo sư Klaus Schwab-Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thế giới nhận định rằng
đại dịch Covid-19 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử loài người và phân
chia thế giới thành hai kỷ nguyên: kỷ nguyên trước và hậu Covid-19.
Trong kỷ nguyên hậu Covid-19, chủ nghĩa tư bản thế giới sẽ phải thay đổi
mô hình phát triển, chuyển từ chủ nghĩa tư bản cổ phần sang chủ nghĩa tư
bản có trách nhiệm cộng đồng. Kinh tế tương lai sẽ là kinh tế tiêu dùng,
kinh tế chia sẻ, kinh tế tham gia, trong đó con người sẽ không còn sử
dụng tiền mặt mà là tiền số; thế giới sẽ chuyển sang nền kinh tế xanh,
không gây ô nhiễm môi trường; robot sẽ được sử dụng phổ cập trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế-xã hôi. Đội quân thất nghiệp hàng trăm triệu người
bị sa thải khỏi các dây chuyển sản xuất tự động sẽ được cấp lương tối
thiếu để thực hiện các hoạt động xã hội công ích như trồng cây, gây rừng,
chống sa mạc hóa, làm sạch môi trường v.v./.

1. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam


 Những cơ hội
Nước ta đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ
trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Đó
là tiền đề để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất những cơ hội
mới đang mở ra:

 Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
nhất là khi đã là thành viên chính thức WTO, giúp chúng ta tham gia nhanh và hiệu quả
vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát
triển. Từ đó đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại.
 Đẩy mạnh giao thương ra ngoài lãnh thổ: Hội nhập sâu vào các tổ chức, định chế, liên
minh kinh tế giúp thu hút dòng vốn khổng lồ từ các nước phát triển cùng hàng loạt các hoạt
động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến, tạo cơ hội tiếp cận thị
trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu ưu đãi
và các ngành dịch vụ, tài chính mà các nước mở cửa. Do đó, nước ta dễ dàng mở rộng thị
trườngxuất khẩu, mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. VD: khi gia nhập
AFTA, máy tính nguyên chiếc nhập từ các nước ASEAN hưởng thuế suất 0%.
 Đẩy nhanh quá trình hoàn thiện về cơ chế quản lý, nâng cao tính hiệu quả về cạnh
tranh cho nền kinh tế: Trên lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng
sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế,
thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của
nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của
mọi thành phần kinh tế trong nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài,
bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng cách phát triển. Đồng thời,
hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm
cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững
mạnh.
 Đẩy mạnh giao lưu văn hóa: Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng
thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu
biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài
người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ… được
phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như
nhiều nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng
ta chia sẻ lợi ích do toàn cầu hoá đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát
triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu
tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.
 Người tiêu dùng có sự lựa chọn đa dạng với giá hợp lý: Người tiêu dùng Việt Nam sẽ
là những người hưởng lợi trực tiếp khi cạnh tranh mang lại nhiều sự lựa chọn hơn, giá cả
thấp hơn và chất lượng cao hơn. Nền kinh tế Việt Nam sẽ có lợi từ sự phát triển của các
ngành dịch vụ mà các công ty nước ngoài muốn đưa vào Việt Nam sau khi Việt Nam gia
nhập WTO. Cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ này sẽ mang lại hiệu quả năng suất lao động
cao hơn, làm tăng cường sức mạnh của kinh tế Việt Nam về lâu dài và nâng cao khả năng
cạnh tranh của các công ty Việt Nam với các công ty đa quốc gia mạnh nhất trên bất kỳ thị
trường nào.

o Những thách thức
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới không chỉ có thời
cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Do đó, chúng ta cũng cần
luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc
phục hữu hiệu:
 Chịu sức ép từ việc cạnh tranh: nước ta là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế
thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh
nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh
tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn
chỉnh… Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên
trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện
sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện những cam kết của một thành viên trong các tổ chức kinh
tế, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó
có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như:
ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp…
bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên
rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế
tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,…Về
cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại,
bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ
quyền sở hữu trí tuệ.
 Thách thức về nguồn nhân lực: Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội
nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải
cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, Việt
Nam cần phải có đội ngũ đủ mạnh từ Trung ương đến địa phương. Đây cũng là thách thức
lớn đối với Việt Nam vì phần lớn cán bộ của Việt Nam còn hạn chế về kinh nghiệm điều
hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài.
 Chịu sự phụ thuộc về chính trị, kinh tế với những quy tắc kinh tế mà các nước lớn
đưa ra: cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các
quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các nước phát triển áp
đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các
nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống chế ở
các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi”
cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO…Tự do hoá thương mại và tự do
hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm,
như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh
này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở
nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các
nước đang phát triển trong đó có nước ta.
 Chịu sự phân hóa xã hội gay gắt: quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá
đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng
kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Vì lợi ích của
toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát
triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ
thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta
thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70%
dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh
tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách… Trong tình hình như đã
nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân
hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
 Những vấn đề về an ninh quốc gia: quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới
về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên
cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an
ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố…); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện
pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề
gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm
vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới
toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng
như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời
sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng
đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo
cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính
trị- xã hội.
 Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan xen
tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở
thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính
quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành
quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã
chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn,
tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu
quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc
tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình
trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến
lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.



*Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện CNH, HĐH
Lý luận thực tiễn cho thấy CNH là quy luật phổ biến của sự phát triển lực
lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua.
CNH tạo ra động lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẩy quan trọng tạo sự
phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người
Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền công nghiệp lớn hiện
đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học và
công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan,
quy luật kinh tế phổ biến và được thực hiện thông qua CNH, HĐH.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như Việt Nam, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực
hiện thông qua CNh, HĐH. Vì: CNH, HĐH từng bước tăng cường cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng dần trình độ văn minh của xã hội.
Thực hiện CNH, HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinhtế dựa
trên thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng
sản xuất, khai thác, phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước,
nâng cao dần tính độc lập, tự chủ nền kinh tế.
Làm cho khối liên minh công dân, nông dân và trí thức ngày càng được tăng
cường; nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Tăng cường tiềm lực cho an ninh, quốc hòng; taọ điều kiện vật chất và tinh
thần để xây đựng nền văn hóa mới và con ngườ mới xã hội chủ nghĩa
Vì sao Việt Nam phải hội nhập quốc tế
hội nhập quốc tế chính là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con đường phát
triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa như hiện nay. Những lợi ích
của hội nhập quốc tế mang lại sẽ trả lời cho câu hỏi Vì sao phải hội nhập khu vực, hội nhập quốc
tế.
- Tạo ra cơ hội mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác.
Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
- Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Từ
đó, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh
nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
- Thông qua hội nhập kinh tế, cụ thể là nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công
nghệ từ các nước tiên tiến. Từ đó, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công
nghệ quốc gia.
- Các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối
tác quốc tế.
- Người tiêu dùng trong nước được sử dụng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng
loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh. Ngoài ra, còn được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn
với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Hội nhập những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh từ các quốc gia khác trên thế giới
để làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Hội nhập cũng là động lực để Việt Nam cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một xã hội mở,
dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền. Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình
một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả
năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
- Giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập trung cho phát triển, cùng
giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới.
1. Những điểm mới bổ sung và phát triển đường lối đổi mới nhằm
đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế ở từ Đại hội IX đến ĐH
XIII của Đảng.
Đổi mới sáng tạo, khoa học và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước

Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá
(12)
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” .
Quan điểm này đã thể hiện nhận thức rõ ràng về đổi mới ở Việt Nam, gắn cụ thể với một mô
hình kinh tế nhằm bảo đảm về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất trong tình hình mới. Với mô hình này, đường lối phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2001 - 2010 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững... Tạo chuyển biến mạnh
”(13)
về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người . Tuy nhiên,
trước các vấn đề nổi cộm trong nước, như “các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp
ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “cơ chế chính sách không
đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển”; “một số quan điểm, chủ trương chưa rõ,
chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Trong cán
bộ, đảng viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, chính sách về đất đai, kinh tế trang trại, nội dung và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại
(14)
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” , do đó, tại
Đại hội này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ
tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công
nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần
của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng
(15)
và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” . Như vậy, tại Đại hội IX, các
yếu tố trụ cột của đổi mới sáng tạo là nhân tố con người, kinh tế tri thức, khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo đã được nhìn nhận và được chỉ đạo thực hiện khá cụ thể. Đặc biệt
là vai trò của kinh tế tri thức, của sự sáng tạo, các phát minh khoa học, nguồn nhân lực lao
động chất lượng cao đã được Đảng ta chỉ ra rõ ràng hơn trong chỉ đạo phát triển kinh tế.
Cùng với đó, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là nền tảng, đồng thời là
động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây cũng là những yếu tố quan trọng
để rút ngắn thời gian của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Tuy nhiên, nội
hàm của đổi mới sáng tạo vẫn chưa được nêu lên một cách rõ nét.

Đại hội X của Đảng nhận định, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình độ khoa học,
công nghệ; năng suất lao động; chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn còn không ít những hạn
chế. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội… Do đó, Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) nhấn mạnh: “Giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
(16)
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” .

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững. Đại hội xác định phải đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, tiếp tục thực hiện quan điểm khoa học và công nghệ gắn với kinh tế tri
thức được đề ra từ Đại hội X. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu là: “Nâng cao năng
(17)
lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng” ; đồng
thời, Đại hội cũng chỉ ra: “Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ… Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người
Việt Nam, khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát
(18)
triển kinh tế tri thức đến năm 2020 . Để đạt được các mục tiêu trên, Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định, cần “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
(19)
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường” . Như vậy, phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ chính là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một nội dung cần được ưu tiên tập trung
đầu tư, trước hết trong hoạt động của các cấp, các ngành.

Cùng với sự phát triển trong quan điểm về đổi mới sáng tạo trên thế giới, tại Đại hội lần thứ
XII của Đảng (năm 2016), khoa học và công nghệ tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quốc sách
hàng đầu đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, là động lực quan trọng để phát
triển kinh tế; đồng thời Đại hội đã bổ sung thêm quan điểm lấy khoa học, công nghệ, tri thức
(20)
và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu

Đổi mới sáng tạo toàn diện mọi lĩnh vực vì con người, do con người, tạo động lực mới
cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước

Tại Đại hội XIII của Đảng, lần đầu tiên cụm từ “đổi mới sáng tạo” với tư cách là thuật ngữ
riêng đã được đưa vào Văn kiện. Đổi mới sáng tạo được xác định là một nội dung của đột
phá chiến lược thứ nhất trong ba đột phá chiến lược phát triển trong giai đoạn 2021 - 2025,
đồng thời nội hàm của đổi mới sáng tạo cũng phần nào được làm rõ qua các định hướng,
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên tất cả các lĩnh vực.

Đổi mới sáng tạo được coi như một động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước
trước bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm đạt mục tiêu phấn đấu “nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”.

Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công
(21)
nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao” ; “Đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để khoa học và công nghệ thực sự là
(22)
động lực chính của tăng trưởng kinh tế” và “bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa
học và công nghệ,… thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và
(23)
bền vững đất nước” .

Đại hội XIII của Đảng khẳng định và củng cố vai trò của đổi mới sáng tạo thông qua 3 nhiệm
vụ đột phá chiến lược: (1) “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển”, “thúc đẩy đổi mới sáng
tạo”; (2) “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; (3) “Xây dựng
(24)
hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội” . Cả 3 đột phá chiến
lược này đều tạo cơ chế cho đổi mới sáng tạo, cũng như lấy đổi mới sáng tạo làm cơ sở,
động lực cho sự phát triển.

Đại hội XIII của Đảng còn đề cập đến một số nội dung cụ thể của đổi mới sáng tạo trong giai
đoạn 2021 - 2030.

Trong lĩnh vực kinh tế, đổi mới sáng tạo được thực hiện song song với đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế, tập trung vào “thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô
(25)
hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo” ; trong lĩnh vực khoa học và công nghệ chú trọng
“lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã
hội số”, “thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, sản xuất, kinh
(26)
doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia” ; trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo, đổi mới sáng tạo luôn song hành với quá trình “nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các
(27)
nhóm đổi mới sáng tạo mạnh” ; trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, đổi mới sáng tạo tập
trung vào “tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học
phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
(28)
thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong khám, chữa bệnh” ; trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng nhằm “đẩy mạnh đầu tư và ứng
dụng khoa học, công nghệ… phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng
(29)
dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ cao” .

Từ sự cụ thể hóa của các đột phá chiến lược giai đoạn 2021 - 2030 cho thấy, có sự phát triển
mạnh mẽ trong tư duy khi làm rõ nội hàm của đổi mới sáng tạo, đó là hệ thống các yếu tố tổ
chức, thể chế, cấu trúc kinh tế tương tác lẫn nhau quy định tốc độ, phương hướng và chất
lượng của đổi mới. Những quan điểm này thể hiện quyết tâm cao về đổi mới sáng tạo và
ngày càng hoàn thiện các yếu tố thúc đẩy đổi mới sáng tạo để đạt được sự phát triển.

Như vậy, qua các kỳ đại hội kể từ Đại hội VI, Đảng ta đã thể hiện quyết tâm phát triển và ứng
dụng các thành tựu của khoa học và kỹ thuật đối với tiến trình phát triển đất nước. Đặc biệt,
tại Đại hội XIII của Đảng, tinh thần này, nhất là yếu tố đổi mới sáng tạo, được thể hiện xuyên
suốt, thống nhất, cụ thể trong Văn kiện của Đại hội, từ mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể
đến định hướng phát triển của đất nước… Các quan điểm này đã thể hiện sự kế thừa tư duy
đổi mới của Đảng qua các kỳ đại hội và tầm nhìn của Đảng trước yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước trong tình hình mới.

You might also like