Professional Documents
Culture Documents
Tự do, vốn là khao khát của con người, từ xưa đến nay vốn thế. Nó tha thiết và thiêng liêng.
Tuy nhiên, quan niệm về tự do thì mỗi thời một khác. Cái khác ấy ớ bài thơ Khi con tu hú là
khao khát của một thế hệ mới – thế hệ những chàng trai vừa bước chân vào con đường tranh
đấu để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, của một thời đại mới – thời đại mở ra từ
Cách mạng tháng Mười năm 1917 ("Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi" – Hi vọng).
Tiếng gọi ấy lại vang vọng vào thơ, thơ của một thời Thơ mới (1932 – 1945) lại là cái khác
thứ hai, lần này là về nghệ thuật. "Khi con tu hú" là điểm gặp gỡ giữa hai yếu tố nội dung và
hình thức nói trên. Nó là đại diện cho nền thơ ca cách mạng những năm ba mươi của thế kỉ
trước.
Vậy nên hiểu bài thơ như thế nào? Trả lời câu hỏi: nếu viết một câu văn xuôi mở đầu bằng
cụm từ "Khi con tu hú" để tóm tắt nội dung bài thơ, có thể có hai cách viết: – Khi chim tu hú
gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt
trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng một cuộc sống tự do tưng bừng ở bên
ngoài.
Tên bài thơ đã gợi mở mạch cảm xúc của bài thơ. – Khi chim tu hú gọi bầy, người tù cách
mạng – chủ thể trữ tình, với một tâm hồn trẻ trung vốn gắn bó với phong trào, với đồng chí,
bè bạn giữa cuộc đời đấu tranh cao rộng nay bị giam cầm cháy lên một nỗi nhớ không nguôi.
Nỗi nhớ ấy hướng về tự do. Nó trở thành một niềm khao khát. Giữa hai cách diễn đạt này,
nên chăng chọn cách thứ hai? Bởi nó trình bày đúng hơn, khách quan hơn mạch cảm xúc,
nền cảm xúc của bài thơ, nghĩa là cơ sở tinh thần của những khao khát tự do ấy. Trên định
hướng đúng này, ta đi vào phân tích bài thơ. Bài thơ có mười câu, đã dành sáu câu cho đoạn
thứ nhất:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đây là cảnh mùa hè tiêu biểu ở các làng quê. Nhưng bức tranh hiện thực ấy được mở ra
bằng hai lớp: lắng nghe và hồi tưởng, hiện tại và quá khứ, cái đang tới và cái đã qua. Cái
hôm nay – cái bây giờ mà nhà thơ đã nghe là tiếng chim tu hú, một sự lắng nghe bất chợt sau
một thời gian bị xiềng xích trong tù ("Khi con tu hú gọi bầy"). Cái cảm giác đột nhiên ấy – sở
dĩ là đột nhiên, vì nó xuất hiện trong một khối cánh không gian đặc biệt: hiếm khi có âm
thanh cuộc sống vọng vào.
Cảm giác này phải chăng giống với tâm trạng của tác giả Nhật kí trong tù khi nghe tiếng sáo
("Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu"). Nó lạ lẫm và khơi gợi vô cùng. Tu hú gọi bầy là mùa hè
đã đến. Nhưng nó đến như thế nào thì tác giả không nhìn thấy. Vốn sống, sự gắn bó với mọi
làng quê đã được huy động để thay vào.
Lấp đầy cái khoảng trống bị vây bọc bởi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo là sự tưởng tượng
của nhà thơ mà người đọc không cảm thấy có một chút gì khiên cưỡng, gò ép. Mạch thơ vẫn
hết sức tự nhiên như không có một sự lắp ghép cố tình nào. Hãy đọc lại:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.
Hai câu thơ, và rồi bốn câu tiếp như một tác động dây chuyền: cứ tiếng chim xuất hiện là
mùa màng, cây trái đến theo. Sự hô – ứng ấy bao đời vẫn thế bởi đó là quy luật của tự nhiên.
Tiếng chim gọi bầy mà cũng là tiếng chim gọi mùa chính là vì thế. Nó lập tức xôn xao. Nó va
đụng vào lòng người nao nức lắm.
Cần chú ý hai trạng thái chín của lúa và ngọt của cây: đang chín, ngọt dần. Nếu thay vào đã
chín, ngọt rồi, câu thơ sẽ khác, sẽ ở vào thế tĩnh, đông cứng lại ngay. Còn ở đây tả chim mà
như nó đang bay, tả hoa mà như nó chớm nở, nó mỉm cười thì ấy là cái động của thơ, của
họa.
Cái động ấy ở đây là do tài của nhà thơ, nhưng cũng là do tình của nhà thơ thân mến nó.
Nghe một tiếng chim kêu mà thấy mạch sống của cây, của lúa sinh sôi, đang rạo rực thân
cành thì chỉ có thể ở những con người yêu thương cuộc đời, yêu thương sự sống đến mức thắt
lòng. Từ đó mà tưởng tượng nảy sinh. Ấy là chưa nói đến ưu thế uyển chuyển, nhịp nhàng,
giàu khả năng diễn đạt tâm tình của thơ lục bát.
Thơ lục bát vừa có hình thức cố định lại vô cùng biến hóa. Chẳng hạn trong bốn câu thơ
đầu, nếu lấy tiêu chí giác quan mà nhìn vào kết cấu thì ta thấy mỗi cặp câu 6/8 có đủ cả
thính giác và thị giác, từng đôi một, tạo cảm giác âm thanh giục giã mùa màng bước vào
ngày hội:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Nếu bốn câu thơ đầu là bốn câu thơ đẹp, nó nói được cái ríu rít của mùa hè, của cây trái
xum xuê thì hai câu sau tưởng như không ăn nhập gì với không khí ấy bởi nó nói đến những
con diều sáo, một sắc trời xanh. Nguyễn Trãi xưa vì mừng thấy dân khắp nơi "giàu đủ" mà
nghĩ đến cây đàn của vua Thuấn. Cây đàn với bát cơm, tấm áo trên một phương diện nào đó
là khá xa nhau, nhưng thực thì chúng lại rất gần nhau, ở cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Vậy thì hai câu "Trời xanh càng rộng càng cao – Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"
phải chăng là những âm thanh vút cao lên từ một giai điệu bè trầm là bốn câu trước đó. Để
cắt nghĩa vì sao bức tranh nông thôn hiện ra trong thơ rất thực và rất đẹp, ta nghĩ đến hai
điều: bản thân cảnh nông thôn, nhất là vào dịp mùa màng là rất đẹp, nó gợi cái ấm, cái no
của người cày cuốc một nắng hai sương.
Song điều thứ hai, trong trường hợp bài thơ này, mới là quan trọng: nhà thơ chiến sĩ bị giam
cầm vì yêu nó, đang mơ thấy nó, thấy nó như đang ở tầm tay. Yêu nó, không được gần mà
nhớ đã dành (đã bao lần ở trong tù, người thanh niên ấy đã nhớ người, nhớ đồng?), cái
chính là: bức tranh ấy là bức tranh tự do, thứ tự do vừa lớn lao vừa bình dị như một chân lí
đơn sơ.
Để vừa miêu tả (ngoại cảnh) vừa diễn tả (tâm cảnh, tâm trạng), với một độ hấp dẫn đến xúc
động lòng người, Tố Hữu đã huy động cả thành tựu của thơ dân gian (thể lục bát của ca
dao), cả thành tựu của thơ mới. Riêng về ảnh hưởng của thơ mới, thành công của Tố Hữu ở
đây trước hết là biết phát huy mạnh mẽ "cái tôi" nội cảm, "cái tôi" của cảm xúc dồi dào, của
sức tưởng tượng phong phú.
Sáu câu đầu giống như một bản nhạc say sưa, nó vừa thể hiện bằng ngôn từ, vừa thể hiện từ
một đời sống bên trong của nó. Ngay câu thơ đầu thôi, cái nguyên cớ, cái nguồn cơn để từ đó
cảm xúc trào dâng giống như một giây phút "chạnh lòng" (tên một bài thơ của Thế Lữ).
Một âm thanh nhỏ của cuộc đời mấy ai để ý mà với Tố Hữu, tiếng "gọi bầy" ấy có sức gợi rất
lớn, sức gợi tức thời. Sự nhạy cảm ở đây là của thơ nói chung, trước hết là của thơ mới. Đọc
Khi con tu hú, ta có cảm giác nó vừa là ca dao, vừa không phải là ca dao chính bởi sự kết
hợp của hai thành tựu vừa nêu. Bài thơ có thể chia làm hai đoạn. Đoạn một gần như tả cảnh
(nói gần như vì đó là một bức tranh gián tiếp) còn đoạn hai bộc lộ tâm tình, ít ra là trên
những dấu hiệu hình thức của lời thơ:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Trong phần phân tích đoạn một, chúng ta có nêu một hiện tượng: quy luật dây chuyền, cảnh
này gọi cảnh khác. Trên cấp độ lớn hơn, xét cả kết cấu bài thơ thì đoạn hai chính là do tác
động dây chuyền của đoạn một. Dấu hiệu của tác động dây chuyển này là từ hè ("Ta nghe hè
dậy bên lòng"). Không có cái mùa hè tốt tươi, bay lượn ấy thì có lẽ cái phòng giam vẫn cứ
chỉ là phòng giam, một thứ phòng giam không tạo ra phản cảm.
Bởi biết đâu người chiến sĩ sẽ phải chung sống với nó suốt đời? Ta mới hiểu tác động dây
chuyền, sự đánh thức một tiềm năng cảm nghĩ ở nhà thơ mạnh mẽ đến chừng nào. Đạp tan
phòng là mạnh mẽ, còn hè ôi như một tiếng kêu thương cảm xót xa. Cấu trúc của câu tám
này về tiết tấu cũng khá đặc biệt.
Thông thường nó được phổ vào hai vế tương đương 4/4. Còn ở dãy là 6/2. Nhịp 6 ấy cứ như
một uất hận xung thiên, còn nhịp 2, sau khi sức mạnh tưởng chừng lớn lao không gì ngăn cản
được đụng phải bức tường hiện hữu khô khan và lạnh lẽo, nó trở nên một tiếng kêu thương,
một tiếng thở dài cay đắng. Ấy là cuộc đụng đầu giữa ý chí chủ quan và hoàn cảnh khách
quan của người thua cuộc.
Nhưng thua cuộc chỉ là nhất thời, tạm thời. Cuộc vật lộn trong tâm trí của nhà thơ vẫn còn
tiếp diễn. Không những dai dẳng, cường độ của nó không giảm đi mà còn tăng lên. Biết làm
thế nào chiến thắng được hoàn cảnh, chiến thắng được bản thân khi lực lượng giao tranh
không hề ngang sức. Nhịp thơ 3/3 ở câu "Ngột làm sao, chết uất thôi" diễn tả sự giằng co.
Nhưng nó lại nghiêng về phía chủ thể người tù.
Chính vì vậy ý thơ đã được nâng cấp nhưng vẫn bế tắc. Thế là, tiếng gọi của tự do thì vẫn tự
do lên tiếng một cách vô tư, còn con người khao khát nó vần bị mất tự do, vẫn đang bị cầm
tù. Cặp thơ lục bát song đôi cuối cùng mới như một niềm khắc khoải, bởi xung đột tinh thần
ở nhà thơ đã đạt đến mức cao trào. Một cái gì đó sẽ phải xảy ra nhằm giải thoát một hoàn
cảnh không thể dung hòa giữa nhà thơ với cảnh đời tù ngục.
Tiếng chim tu hú, tiếng gọi của tự do ấm áp làm sao, mà cũng nóng bỏng làm sao. Nó đang
cháy lên một nỗi niềm khao khát. Từ tiếng gọi mùa đến tiếng kêu thúc giục con người hành
động, bài thơ vận hành theo hướng đi từ bóng tối tù ngục đến ánh sáng của tự do.
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một
nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự
nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ "Nhật kí
trong tù". Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong
khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, "Đi đường" (Tẩu lộ) là một
trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong
gian lao.
Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày
ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao
khác. Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người
tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất
phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng
thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một
người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời
rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang.
Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh
hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ "Đi
đường":
Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của
một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần
chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng
đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào
công việc, phải "tẩu lộ" mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy.
Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về
những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc
lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:
Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con
đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người
tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó
khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi
cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người
tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?
Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc
thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó
khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh,
thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:
Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm
trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh
chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang
trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người
chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung
dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời. Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của
Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô
cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm
đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô
vàn. Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng
rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách
thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành
công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí,
được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.
Bài thơ "Tẩu lộ" (Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh
của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài
thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng
Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình.
Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng
chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và
ngày đó chẳng còn xa nữa.
Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được
những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí
chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là
một trong những tuyệt tác của Người - Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng - nhà thi
nhân xuất sắc của dân tộc ta
Lòng yêu nước là một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học Việt Nam.
Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai thác thể hiện lòng tự
hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta có thể kể đến các tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của
Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của
Trương Hán Siêu,... Và không thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi.
Trích đoạn sau đây của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước
của tác giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:
Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng - nhà vua Lê
Lợi, ông đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng, bản chất của nhân nghĩa
là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng
theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong
kiến. Song trong trích đoạn này, Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao
cả nhất của quân đội là “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng ấy chỉ có thể có ở
một bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.
Và cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi có một lòng yêu nước, lòng
tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả bài thơ “thần” đã khẳng định
nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh thổ, đất,đai và bộ máy quyền lực. Nay,
Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc
lập đáng tự hào của dân tộc:
Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt trong quần
chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự độc lập về bộ máy
chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:
"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó khẳng định vị thế
ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ “đế” trong câu thứ hai “mỗi bên
xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”. Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình
là “thiên tử” (con trời), họ tự xưng “đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài
cáo này, Nguyễn Trãi đầy tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng là “đế” sánh
ngang hàng với vua chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hề có
quan hệ nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm.
Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước ta lên trước.
Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc: nó khẳng định lòng tự tôn
dân tộc của tác giả nói riêng và mỗi người Việt Nam nói chung.
Bên cạnh những ông vua hiền và các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta cũng có những
anh tài hào kiệt. Dù rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi cũng không phóng đại những
ưu điểm và không giấu giếm những giai đoạn suy thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc
khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào
cũng có”.
Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người nghe về những
yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền độc lập thiêng liêng ấy mà
mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân vì đất nước và dẫu kẻ thù có mạnh đến đâu
cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền
lãnh thổ linh thiêng...
Bởi vậy:
Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn lòng yêu nước
thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân đồng thời bày tỏ niềm tự
hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên.
Lòng yêu nước là những điều thật giản dị, tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm
xúc của mỗi chúng ta về nơi mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành
động lực để chúng ta phấn đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.