You are on page 1of 8

1.

Hồ Xuân Hương
Ai biết Hồ Xuân Hương, hẳn sẽ không thể không biết đến danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” mà
người đời ưu ái gọi bà. Sở dĩ bà được gọi trang trọng thế là vì đã để lại văn học nước nhà một di
sản giàu giá trị về những tác phẩm thơ chữ Nôm.

Ngoài các sáng tác bằng chữ Nôm, Hồ Xuân Hương còn nổi tiếng với các tác phẩm bằng chữ
Hán. Tuy nhiên, các tác phẩm chữ Nôm đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm nên tên tuổi
của bà.

Nữ sĩ thường viết về những người phụ nữ bởi bà có sự đồng cảm rất sâu sắc dành cho họ và dù
viết về họ với nội dung như thế nào thì đến cuối cùng, ta cũng dễ dàng nhận thấy trong thơ bà
hiển hiện rõ rệt thái độ trân trọng và đề cao khát vọng của họ.

a)Không chồng mà chửa

Bài thơ Không chồng mà chửa (còn có các tên Không chồng mà đẻ, Chửa hoang, Vịnh người
chửa hoang, Dở dang) của Hồ Xuân Hương:

Cả nể cho nên sự dở dang,

Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc1

Phận liễu sao đà nảy nét ngang?2

Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?

Mảnh tình một khối thiếp xin mang.

Quản bao miệng thế lời chênh lệch,

Không có, nhưng mà có, mới ngoan!

Trên phương diện văn bản học, học giả Hoàng Xuân Hãn xác định ngắn gọn: “Cổ thi cười gái
không chồng mà có con: Quá chớn cho nên sự nhỡ nhàng. Không gán cho Xuân Hương (…)
Không chồng mà đẻ - Bài quen biết. Nhưng có chữ lêch lạc. Có dẫn ngắn: Xưa có con gái khuê
các, không chồng mà sinh con. Xuân Hương làm thơ cười: Cả nể cho nên hóa dở dang… Những
kẻ không mà có mới ngoan”3. Nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đi sâu khảo sát, tổng kết tư liệu và
xác nhận: “Bài này có ở văn bản Landes 1983; các bản khắc vào năm 1909, 1914, 1921, 1922;
Xuân Lan, Đông Châu, Văn đàn bảo giám, 1926. Có bản đề là Chửa hoang, Dở dang. Bản
Landes phần B cho là bài cổ thi, cười gái không chồng mà có con. Quá chớn cho nên sự nhỡ
nhàng. Không gán cho Xuân Hương. Nhưng ở phần C lại đặt tên bài thơ là Không chồng mà đẻ.
Có dẫn ngắn. Xem là thơ của Hồ Xuân Hương. Cũng ở văn bản Landes, phần B, còn có đôi câu
đối chế gái không chồng mà có con”4.

Vào đầu thế kỷ XX, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến hình dung thành truyện ký, sáng tạo câu
chuyện mang tính dã sử: “Khi bấy giờ ở hàng tổng có người đàn bà chửa hoang, phải làng nước
ngả vạ, chị em nghe thấy đồn, lắm người lại ngỡ là Xuân Hương, chê cười mỉa mai eo óc. Xuân
Hương cũng thẹn thay cho bạn má hồng, mới làm bài thơ giải trào, để binh lấy bạn chị em mình,
cho khỏi tiếng khôn ba năm dại một giờ, miệng đời mỉa mai. Thơ rằng: Cả nể cho nên sự dở
dang… Xuân Hương từ khi mang tiếng như vậy, phàm những khách đến chơi nhảm nhí, nàng ấy
cũng không ra thù tiếp chi nữa”5.

Rồi đến Đào Thái Tôn lại đọc bài thơ trên tinh thần “liên văn bản” với một truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp: “Chút thoáng Xuân Hương cũng chỉ là một chút thoáng ánh lên từ trong văn
tài dày dặn của Nguyễn Huy Thiệp. Tôi muốn nói thêm rằng: nếu tác giả không sống đẫm mình
trong khung cảnh nông thôn Việt Nam, không quen thuộc tới từng cầu ao giếng nước, với những
con “đường trong làng hoa dại với mùi rơm” (Huy Cận) của ngày mùa, và nhất là không thông
thuộc đời sống, lề luật làng xã của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, không dễ gì có được
hơi văn thấp thoáng Xuân Hương - trong đó dù chỉ cũng thấp thoáng một ông chánh tổng, lý
trưởng thường rình rập những cô gái “không chồng mà chửa”, để sai mõ khản hơi rao khắp xóm
cùng làng, để các “cụ” ngả vạ, đánh chén”6...

So với Lấy chồng chung của Hồ Xuân Hương vốn in đậm tính kịch bi hài thì bài thơ Không
chồng mà chửa thiên về tiếng nói tâm tình, độc thoại, tự tình, tự nhủ, xem ra chưa được bình
phẩm nhiều. Điều này có lý do bởi bài thơ khai thác cơ sự và nỗi niềm do chính mình làm nên, tự
mình gánh vác hậu quả, thiên về sự vụ cá nhân, nguyên do cá nhân, không bởi xã hội. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Lộc xác định trường hợp người phụ nữ trong bài thơ “là kết quả của một tình
yêu thật sự”, cho nên “Nàng nói với người tình của mình nửa như trách móc, nửa như tâm sự” và
“người phụ nữ của Hồ Xuân Hương cũng rất độ lượng”7… Lê Trí Viễn đi sâu phân tích, nhấn
mạnh ý nghĩa bốn câu thơ sau: “Còn thiếp, trước chỉ là “mảnh tình”, nay đã “một khối” (sự thật
là vậy, thiếp đâu che giấu, đổ lỗi cho ai), thiếp “xin mang”. Không tìm cách hủy cái thai, không
bỏ nhà trốn đi như cô gái trong ca dao mà dõng dạc tuyên bố “thiếp xin mang”. Xin mang là xin
giữ cái sự sống đang tượng hình trong dạ. Xin mang là xin đảm nhiệm cái sứ mệnh thiêng liêng
trời đất giao cho phụ nữ là truyền nối nhân loại, là làm mẹ. Cao thượng và dũng cảm biết bao!...
Thật sự bướng bỉnh, bất cần nhưng không thiếu chút đùa. Bởi trước sau vẫn là hình ảnh người
phụ nữ vị tình, vị nghĩa – cái nghĩa với giọt máu, cái nghĩa với sứ mệnh làm mẹ, dám đương đầu
đảm nhận mọi thiệt thòi, khốn khổ về mình, chống lại mọi dư luận, hành vi vô nhân đạo của xã
hội phong kiến”8…

Đúng là cần phải đặt bài thơ Không chồng mà chửa trong bối cảnh sinh quyển xã hội phong kiến,
không chỉ luật lệ làng xã mà ngay cả người trong gia đình, gia tộc, họ hàng, bố mẹ đều khinh thị,
tạo áp lực lên người phụ nữ. Trong hai câu ở phần đề, bỏ qua tất cả, người “Cả nể” ở đây chỉ độc
thoại, tâm tình với chính mình và với chàng. Nàng tự biết, tự nhận mình “cả nể” nên hóa thành
“sự dở dang”. Nhưng nàng không đẩy “sự” ấy thành sự kiện, sự đời, thành đường cùng và tấn bi
kịch mà chỉ coi đó là nỗi niềm, nỗi buồn thương, nỗi đau tâm sự, tâm tình, mong được thấu hiểu,
cảm thông, chia sẻ: Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng? Câu hỏi đặt ra với chàng, hai lần nhắc
đến chàng, mà thật nhẹ nhàng, ân tình, khơi gợi nghĩa tình.

Hai câu ở phần thực chủ ý vận dụng lối chiết tự chữ Hán, chơi chữ, thả chữ, “thả lá thơ chơi” pha
chút bỡn cợt. Nghĩa thơ dường như trung tính, không nhằm lên án, trước sau chỉ trình bày một
hiện thực, một sự thật, một cảnh trái ngang, bất hợp lý, bất thường, nghịch cảnh, tinh nghịch. Có
thể thấy hai câu thơ đăng đối đã khéo phê phán và tinh tế trong cách bỡn cợt, rỡn vui cô nàng ăn
cơm trước kẻng: Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,/ Phận liễu sao đà nảy nét ngang? Mở đầu
hai câu thơ đều là hai từ gốc Hán bác học, hàn lâm, uy nghiêm, chuẩn mực, quan phương (Duyên
thiên… Phận liễu…) lại được diễn dịch, thông diễn, vừa nêu giả định vừa chất vấn kết quả bằng
các chữ Nôm, tiếng thuần Việt, bình dân, bình dị. Hình thức tự sự, diễn giải pha tạp câu chữ đã
tạo nên sắc thái nghịch dị, hài hước, vui vẻ, giản lược đi sự nghiêm trọng, căng thẳng. Thêm nữa,
lối phối hợp cách dùng từ mang tính giả định về một sự khẳng định “chưa thấy” (NHÂN) đối lập
với câu hỏi phản vấn về một sự thật nhãn tiền đã rồi “sao đà” (QUẢ) càng gia tăng mức độ sắc
thái lỗi nhịp, lệch pha, lệch chuẩn của đương sự.

Đến hai câu thơ ở phần luận là sự phân thân của hai cảnh đời, hai tình huống, hai nẻo đường, hai
trạng thái tâm lý. Trước sau nàng vẫn một lời trọng thị, ân cần; một câu hỏi chỉ để tôn cao, đắp
bồi, tin cậy: Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? và một bản lĩnh, một lời thề, một ý thức tự
nhiệm, tự dấn thân và tự chịu trách nhiệm: Mảnh tình một khối thiếp xin mang… Dân gian có
câu: Nếu nên thì thiếp với chàng,/ Không nên ta lại người làng với nhau. Ở đây người con gái đã
một lần, một tháng, một xuân, một thời tay ấp vai kề “Cả nể” trước sau vẫn trọn vẹn nghĩa tình,
vẫn giữ ân tình “chàng - thiếp”. Lại vẫn tiếp tục là một phong cách chơi chữ ỡm ờ kiểu Hồ Xuân
Hương (chửa - mang) với sự đăng đối của “nhớ chửa” (từ “chửa” vừa là từ tình thái, đặt cuối câu
biểu thị nghi vấn vừa nhắc nhớ “Cái nghĩa” hiển ngôn vừa ẩn ý về sự có mang, bụng mang dạ
chửa) với “xin mang” (từ “mang” vừa là động từ chỉ trạng thái mang theo, đem theo, vừa thể
hiện sự chung thủy với “Mảnh tình” vừa hàm nghĩa sự mang thai, có mang, có chửa), vừa là lời
thề khẳng định pha chút hãnh diện trong việc gìn giữ báu vật của đôi mình và riêng mình.

Tiếp đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đẩy cao bản lĩnh dân gian, tinh thần đối phó với cấm kỵ,
hóa giải những áp đặt phi nhân tính, cực đoan Không chồng mà chửa mới ngoan,/ Có chồng mà
chửa thế gian sự thường rồi chuyển hóa, nâng cao thành tiếng nói thách thức, bất cần, bất chấp
và thách đố: Quản bao miệng thế lời chênh lệch,/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan!... Vượt
lên và bất chấp dư luận, miệng thế gian, người “Cả nể” kín đáo, tinh tế, tự tin trong cách biện hộ,
xưng danh, khẳng định mình: Không có (chồng), nhưng mà có (con), thế mới ngoan (thuận, giỏi,
tài). Cao hơn tất cả là bản lĩnh chủ thể, niềm tin vào nhân tính và quyền sống con người đã tạo
nên ý nghĩa phổ quát, vượt thời gian cho một bài thơ ngắn gọn.

Đã qua hai trăm năm so với thời đại Hồ Xuân Hương, nói riêng hiện tượng “Cả nể” Không
chồng mà chửa của người phụ nữ ngày nay vẫn chịu áp lực của mỹ tục truyền thống và dư luận
xã hội nhưng căn bản thuộc về quyền sống con người cá nhân và được pháp luật bảo vệ, bảo hộ.
Ngoại trừ những hành vi cưỡng ép, cưỡng hôn, quan hệ tính giao với trẻ vị thành niên và vi
phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng vốn bị pháp luật nghiêm trị, còn lại sự “Cả nể” phải là
và chỉ là kết quả sự đồng thuận giữa đôi nam nữ. Trong thế giới hiện đại và thế kỷ 21, quyền yêu
đương tự do và xu thế bà mẹ đơn thân, có con ngoài giá thú ngày càng tăng cao dẫn đến nguy cơ
sự “Cả nể” và ứng xử với sự “Cả nể” cũng ngày càng sinh động, đa dạng, phức tạp. “Người ba
đấng, của ba loài”, có thể quy chiếu cách ứng xử với sự “Cả nể” đã rồi của người phụ nữ theo ba
mức độ khác nhau. Trước hết, ở tầm cao, không thiếu phụ nữ chủ động lựa chọn sự “Cả nể”, dám
chịu trách nhiệm với chính mình, trước hiện tại, tương lai và trước cả dư luận gia đình, phường
phố, xã hội. Trong nhiều trường hợp, đó còn là sự lựa chọn phù hợp, khôn ngoan, đặt trong
tương quan với quan niệm sống, hoàn cảnh sống, năng lực nghề nghiệp, điều kiện tài chính, sức
khỏe, tuổi tác… Thứ hai, ở tầm trung, nhiều người thậm chí vỡ mộng, thất vọng với chàng
nhưng rồi đã thức tỉnh, biết chấp nhận thực tại, không níu kéo, thấy rõ phần trách nhiệm của
mình, thấu hiểu phải trái, trước sau. Họ tự biết thu xếp sự “Cả nể”, tự gánh vác, đương đầu, khắc
phục mọi khó khăn, thậm chí tìm ra lối thoát trong hoàn cảnh “Cùng tắc biến”, vươn lên làm chủ
cuộc đời, số phận. Họ coi sự “Cả nể” kia như một bài học về nhận thức non nớt, vụng dại và tình
yêu thiêu thân, say nắng, mơ hồ, cảm tính, coi như cơn bão lòng tuổi hừng đông đã qua và tin
rằng sự lầm lỡ “Tái Ông mất ngựa” đã giúp họ có con, có sự chín chắn, có nghị lực, sự trưởng
thành và tự tin bước sang trang đời mới… Thứ ba, ở tầm thấp, không hiếm phụ nữ sau sự “Cả
nể” trở nên mất phương hướng, cực đoan một chiều, chỉ thấy mình bị lợi dụng, ép buộc, phỉnh
nịnh, phụ bạc, một mình chịu mọi cay đắng, hậu quả, hệ lụy. Họ quy kết bạn tình một thời là Sở
Khanh, “quất ngựa truy phong”, lừa dối, lừa đảo, đểu giả, tráo trở, hèn hạ, bất nhân, bất nghĩa và
xoay chiều tìm mọi cách trả đũa, trả thù, rửa hận, nói xấu, thậm chí vi phạm pháp luật mà không
tự biết.

Bài thơ Không chồng mà chửa của nữ sĩ Hồ Xuân Hương có số phận riêng và làm nên lịch sử
tiếp nhận riêng. Dưới thời phong kiến, đó là tiếng nói cảm thông, cao cả, vị tha, đầy bản lĩnh của
người phụ nữ dám chịu và biết chịu trách nhiệm với chính mình. Bước sang thời hiện đại và thế
kỷ 21, từ góc độ tiếp nhận nhân học, văn học giới và sinh quyển văn hóa, bài thơ tiếp tục tỏa
sáng, thức tỉnh lương tâm, mở ra những chiều kích mới phù hợp thời đại mới, con người và cuộc
sống mới. Trên tất cả, bài thơ có ý nghĩa vượt thời gian, cập nhật thời cuộc, vươn tới bài học ứng
xử nhân văn, hướng thượng và bản lĩnh làm người cho giới nữ và mọi con người trên cõi nhân
gian.

b)Tự tình II
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài ba bậc nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Bà
để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, giàu giá trị trên cả mảng thơ chữ Nôm và chữ Hán. Nổi bật trong
tác phẩm của bà là tiếng nói thương cảm với số phận người phụ nữ và bài thơ Tự Tình (bài II) là
một trong những bài thơ như vậy.

Bài thơ nằm trong chùm thơ Tự tình, gồm có tất cả ba bài, được viết theo thể thơ Đường luật.
Tác phẩm là nỗi thương mình trong sự cô đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ, khao khát hạnh phúc
mãnh liệt. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện thái độ bứt phá, vùng vẫy, muốn thoát khỏi cảnh ngộ
éo le để có thể đạt được hạnh phúc, nhưng cuối cùng bi kịch vẫn hoàn bi kịch.
Bài thơ mở đầu là thời điểm canh khuya, khi con người đối diện thật nhất với chính mình, nhưng
cũng chính lúc đó Xuân Hương tự nhận ra tình cảnh đáng thương của chính mình:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Trong đêm khuya thanh vắng, nhịp gấp gáp của tiếng trống “dồn” càng trở nên vội vã, gấp gã
hơn. Đó cũng chính là những bước đi thời gian vội vàng đang chảy trôi trước mắt người con gái.
Đồng thời tiếng trống đó cũng chính là sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đối diện
với nhịp thời gian vội vàng, gấp gáp là hình ảnh “trơ cái hồng nhan”. Chữ “trơ” được đặt ngay ở
đầu câu nhấn mạnh nỗi cô đơn, trơ trọi của người phụ nữ. Nhưng bên cạnh nỗi đau đớn, xót tủi
cho thân phận lại thể hiện một Xuân Hương thật bản lĩnh. “Trơ” không chỉ là sự bẽ bàng mà còn
là thách thức với xã hội, với cuộc đời. Hai câu thơ đầu là tiếng than cho số phận người phụ nữ
trong xã hội phong kiến, hồng nhan mà bạc mệnh.

Trong cái cô đơn, tội nghiệp đến tột cùng ấy, con người tìm đến rượu để khuây khỏa nỗi niềm:

Chén rượu đưa hương say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Nhưng rượu cũng không thể làm cho nhân vật vơi đi nỗi cô đơn, sầu muộn. Chén rượu uống vào
mà lại càng tỉnh hơn, để nhân vật trữ tình càng thấm thía hơn nỗi cô đơn, lẻ bóng của mình. Tìm
đến trăng làm bạn, để tâm sự trò truyện thì lại nhận ra thực tại phũ phàng. Nỗi niềm chất chứa đã
thấm dần và lan vào cảnh vật. Quả thực “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ”. Hai câu thơ tác giả sử dụng rất thành công cụm từ: “say lại tỉnh” cho thấy cái vòng
luẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa của tạo hóa, càng uống lại càng tỉnh, lại càng nhận ra sự
hẩm hiu duyên phận của chính mình; “khuyết chưa tròn” vầng trăng là ngoại cảnh mà cũng chính
là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa cảnh vật và con người. Trăng sắp tàn mà vẫn khuyết cũng
như con người tuổi xuân vội vã trôi qua mà tình duyên vẫn chưa trọn vẹn. Bốn câu thơ đầu đã
khắc họa sâu sắc nỗi đau, bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.

Các động từ mạnh “xiên, đâm” kết hợp với “ngang, toạc” đã thể hiện sự ngang ngạnh, phẫn uất
đến tột cùng của nhân vật trữ tình. Nếu như người phụ nữ trung đại nổi bật lên với tính cách cam
chịu, khuất phục trước số phận thì ở đây lại xuất hiện một người phụ nữ hoàn toàn khác. Những
sinh vật nhỏ bé dường kia không chịu mềm yếu trước hoàn cảnh thực tại, phải mọc xiên, đâm
ngang để tìm sự sống. Đá phải kiên cường, rắn chắc để có thể đâm toạc chân mây. Biện pháp đảo
ngữ trong hai câu thơ đã cho thấy sự phẫn uất của cỏ cây, đá đó đồng thời cũng chính là nỗi niềm
của con người trước thực tại cuộc sống. Bởi vậy, hình ảnh rêu xiên ngang, đá đâm toạc chân mây
cũng chính là sự phản kháng của người phụ nữ trước thực tại nhiều bất công, ngang trái.

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con.

Trong câu thơ có hai chữ “xuân” xuất hiện, chữ “xuân” thứ nhất là tuổi xuân của con người,
“xuân” thứ hai là mùa xuân của vạn vật. Hai chữ xuân này kết hợp với từ “lại” đã nhấn mạnh
tuổi xuân của con người một đi không trở lại, trái ngược với mùa xuân của thiên nhiên đất trời,
mỗi khi xuân của đất trời quay lại đồng nghĩa với tuổi xuân của con người ngày một rút ngắn,
nỗi chán ngán lại càng gia tăng. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần,
làm cho hoàn cảnh càng trở nên éo le hơn: “Mảnh tình san sẻ tí con con”. Mảnh tình vốn đã bé,
đã nhỏ nay lại phải san sẻ lại càng trở nên ít ỏi, eo hẹp hơn. Tình cảnh đó thật xót xa, tội nghiệp.
Hai câu thơ kết thể hiện nỗi lòng sâu kín của người phụ nữ trong xã hội cũ: với họ tình yêu, hạnh
phúc thật mong manh, bé nhỏ.

Hồ Xuân Hương là bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ, thông qua khả năng diễn đạt tư tưởng, tình
cảm của nhân vật trữ tình: tả âm thanh (văng vẳng), tả cảm giác (trơ, say, lại tỉnh, ngán), tả động
thái (xiên ngang, đâm toạc),… Nghệ thuật đảo ngữ tài tình (xiên ngang, đâm toạc). Giọng điệu
thơ phẫn uất, tủi hờn. Tất cả đã hòa quyện với nhau để diễn tả sự cô đơn, thân phận bé nhỏ của
người phụ nữ trong xã hội cũ.

Với ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi cảm, sử dụng thành công phép đối, tác phẩm vừa nói lên số
phận rẻ rúng, bi kịch người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời còn cho thấy khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội cũ
nói chung.

Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-tich-bai-tu-tinh-ho-xuan-huong


c)Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ hiếm hoi trên thi đàn văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm được
lưu truyền cho đến ngày nay. Với phong cách sáng tác hiện đại, cá tính, phong khoáng, Hồ Xuân
Hương đã khiến người đọc khâm phục tài năng. Bà viết nhiều, viết sâu sắc về phụ nữ Việt nam
thời kì phong kiến. Bài thơ Bánh trôi nước là một bài thơ ẩn dụ về hình ảnh người phụ nữ.

Bài thơ Bánh trôi nước được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, tứ thơ cô đọng nhưng có nội dung
sâu xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà người ta gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm” với những câu thơ hàm
súc nhưng ý kiến quá sắc sảo.
Hồ Xuân Hương đã lựa chọn bánh trôi nước làm hình ảnh trung tâm, biểu tượng cho người phụ
nữ Việt nam trong xã hội phong kiến:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn


Chỉ với 1 câu thơ nhưng Hồ Xuân Hương đã miêu tả quá chi tiết hình dáng, màu sắc của chiếc
bánh trôi. Bánh trôi là loại bánh dân dã, gắn liền với đời sống của nhân dân. Tác giả đã dùng từ
“thân em” để chỉ chiếc bánh trôi có chăng là ẩn dụ về chính bản thân mình. Có rất nhiều cách để
viết hay, viết đẹp hơn nữa nhưng Hồ Xuân hương lại chọn cách viết thật, viết đúng, viết sâu như
thế này. “Vừa trắng lại vừa tròn” không phải là chuẩn mực của cái đẹp nhưng lại rất phúc hậu.
Chiếc bánh trôi trắng và tròn cũng giống như hình dáng của người phụ nữ hiền lành, điềm đạm
và khoẻ mạnh.

Đến câu thơ thứ 2 là quá trình nấu bánh:


Bảy nổi ba chìm với nước non
Câu thơ đã khái quát được đầy đủ cách nấu chín bánh trôi trong dân gian. Nhưng hai từ “nổi” và
“chìm” dường như gợi nhắc sự bếp bênh, trôi nổi vô định của chiếc bánh trôi, hay của chính cuộc
đời người phụ nữ. Số từ “ba, bày” để ám chỉ nhưng sóng gió, những long đong, lận đận mà người
phụ nữ phải trải qua.

Xã hội phong kiến đầy áp bức, bóc lột, hành hạ người phụ nữ đến thê thảm. Họ thấp cổ bé họng
nên không dám kêu ai, không dám than ai vì có ai thấu, có ai hiểu đâu.

Câu thơ thứ 3 dường như là sư phó mặc vào người làm bánh, hay chính là phó mặc cho xã hội
đầy bất công:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Phụ nữ sống trong thời kì phong kiến luôn lép vế, phải cam chịu và đầu hàng số phận. kệ người
ta xô, mặc người ta đẩy mà không dám ké răng nửa lời. Họ không dám đấu tranh, không dám đòi
công bằng. Từ “mặc” trong câu thơ như khẳng định một sự phó mặc đến não nề, và còn thấp
thoáng sự bất cần. Vậy nhưng đọc câu thơ này, chúng ta vẫn nhận ra được một chút chống cự
qua từ “mặc” nhưng nó không quá nổi bật. Chỉ là Hồ Xuân Hương là người phụ nữ không chịu
khuất phục nên thơ bà cũng không chịu khuất phục như vậy.

Mặc dù bị chà đẹp, bóc lột nhưng tâm hồn người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn son sắt:
Mà em vẫn giữ tâm lòng son
Dẫu cho cuộc đời nghiệt ngã, bạc bẽo và bất công như thế nào thì sự son sắt và thuỷ chung của
người phụ nữ vẫn luôn là phẩm chât cao đẹp, đáng trân trọng. Hồ Xuân hương đã khám phá ra
một nét đẹp hiếm thấy của phụ nữ Việt Nam. Tâm hồn thanh khiết, tấm lòng son không hề bị
vướng bận.

Hồ Xuân Hương với sự tài tình trong ngôn ngữ và đặc biệt lối nói ẩn dụ độc đáo đã vén màn cho
người đọc thấy xã hội phong kiến nhiều bất công, thối nát. Người phụ nữ phải chịu sự đè nén
nhưng vẫn giữ được trái tim thuỷ chung, son sắt.
2. Tiếp nhận văn học

You might also like