Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 8 Bản Word Luật tài chính
Nhóm 8 Bản Word Luật tài chính
0
Đánh giá
STT Họ Và Tên MSV Phân chia công việc
điểm
• Nội dung: Quan hệ pháp luật
Phạm Văn Tài
1 22090134 • Thuyết trình 100%
(Nhóm trưởng)
• Phản biện
• Thuyết trình
• Powerpoint
5 Nguyễn Linh Chi 22090027 100%
• Bản Word
• Phản biện
1
MỤC LỤC
2
1. KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LUẬT TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình huy động, sử dụng những nguồn
lực tài chính giữa các chủ thể với nhau nhằm phát triển KT-XH
• Đây là quan hệ kinh tế do vậy luôn chịu sự tác động chi phối của môi trường kinh tế.
• Sự vận động của các nguồn lực TC luôn tạo ra những lợi ích khác nhau giữa các chủ thể.
• Mối quan hệ này luôn đặt trong một mục tiêu chung, nghĩa là luôn có sự tác động của Nhà
Nước nhằm đạt lợi ích hợp lý nhất.
Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh
toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những
sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế-xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh
tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp
ứng yêu cầu tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể (pháp nhân hay thể nhân) trong xã hội.
3
chính, công tác kiểm tra tài chính là các hoạt động chủ quan của con người trong việc kiểm tra
quá trình phân phối nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
4
a) Trước 1945
• Tuy chưa có văn bản rõ ràng về luật tài chính nhưng từ thời phong kiến, vua chúa cũng
đã đề ra rất nhiều hình thức chính sách về tô, thuế ruộng đất,...
• Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
dưới sự thống trị vô cùng hà khắc của đế quốc Pháp và tay sai. Nhân dân ta bị bóc lột bởi
các chính sách tài chính như: thuế thân, thuế muối,...
5
d) Giai đoạn 1975 – 1985
Đất nước thống nhất những chặng đường 10 năm (1975 - 1985), Việt Nam phải khắc phục hậu
quả nặng nề bởi sự tàn phá của chiến tranh. Đây là giai đoạn thống nhất đất nước, xây dựng nền
kinh tế mới, đổi mới và phát triển kinh tế. Luật tài chính được đồng bộ hóa, hoàn thiện và phù
hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Luật tài chính cũng phản ánh sự
ưu tiên cho các lĩnh vực quan trọng như quốc phòng, an ninh, giáo dục, y tế, khoa học và công
nghệ
Một số luật và quyết định: Tháng 7/1976, sau khi bầu cử Quốc hội khoá V và hoàn thành thống
nhất Tổ quốc về mặt Nhà nước, theo phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội điều chỉnh. Hội
đồng Chính phủ đã thông qua Ngân sách Nhà nước điều chỉnh theo đồng tiền quy đổi chung của
cả nước
Các văn bản pháp luật này đã quy định về tổ chức bộ máy tài chính, các loại thuế, chế độ tiền tệ,
ngân sách nhà nước,... phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khuôn khổ pháp lý về thuế đã không ngừng được cải cách. Trong chương trình cải cách thuế
bước 2, nhiều Luật thuế đã được ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi. Đặc biệt là sự ban hành
mới Luật thuế GTGT và TNDN là bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống thuế
Việt Nam, góp phần thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đảm bảo nguồn thu cho Ngân
sách Nhà nước, công bằng xã hội và chuẩn bị điều kiện tiền đề cho Việt Nam hội nhập về kinh
tế với các nước.
• Một số luật và quyết định
• 1-4-1990, Hội đồng Chính phủ đã có quyết định thành lập hệ thống Kho bạc Nhà nước
trực thuộc Bộ Tài chính.
6
• Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng được ban hành để thu hút các nước bỏ vốn đầu
tư vào nước ta.
• Luật Ngân sách Nhà nước năm 1991.
• Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1993.
• Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 1995.
• Luật Thuế giá trị gia tăng năm 1997.
• Luật Quản lý nợ công năm 2017.
• Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
• Luật Đầu tư công năm 2014.
• Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
=> KẾT LUẬN CHUNG: Các văn bản pháp luật này đã góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật về tài chính, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý tài chính nhà nước, huy động,
sử dụng và phân phối nguồn lực tài chính một cách hiệu quả, phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn chung, lịch sử hình thành luật tài chính Việt Nam là quá trình phát triển lâu dài, gắn
liền với quá trình phát triển của đất nước. Hệ thống pháp luật về tài chính của Việt Nam
đã từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
7
Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước. Hiến pháp xác định chế độ chính trị,
kinh tế - xã hội của đất nước là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất và là nguồn của nhiều ngành
luật, trong đó có luật tài chính. Hiến pháp 1992 là nguồn quan trọng nhất, là cơ sở để xác định
các nguyên tắc chung cho việc xây dựng luật tài chính, xây dựng các chế định, các quy phạm
pháp luật cụ thể của luật tài chính như chế độ kinh tế. Được ghi nhận tại các Điều sau:
• Điều 26: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành, các
cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước.
• Điều 84: Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
3- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
4- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và
phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc
bãi bỏ các thứ thuế;...
• Điều 119: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội: Các bộ luật, luật, nghị quyết do Quốc hội thông qua
liên quan đến đối tượng điều chỉnh của luật tài chính như: Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật doanh
nghiệp, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân,
Luật thuế giá trị gia tăng, Luật Ngân sách nhà nước, Nghị quyết về thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế xã hội trong năm kế hoạch, Nghị quyết về phê chuẩn và thực hiện dự toán Ngân sách nhà
nước....
• Các Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như: pháp lệnh thuế tài
nguyên…
8
• Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ trong quản lý, điều hành tài chính quốc gia
• Các Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, các cấp tương đương, các Quyết
định, Chỉ thị của UBND trong lĩnh vực tài chính, điều hành tài chính quốc gia.
• Các nghị quyết của Hội đồng nhân dân
• Các Hiệp định quốc tế điều chỉnh các quan hệ tài chính giữa các Nhà nước với các nước
trên
thế giới hoặc giữa Việt Nam với các tổ chức tiền tệ thế giới: Hiệp định tránh đánh thuế
hai lần giữa Việt Nam và Hàn Quốc, hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam
và Nhật Bản…
Cùng với việc tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực
tài chính cũng phải không ngừng đổi mới để có thể nắm bắt được những biến động của nền kinh
tế, rà soát và hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính. Trong bối cảnh hội nhập thì bắt buộc hệ
thống pháp luật tài chính cũng phải thay đổi, hoàn thiện các thể chế, chính sách, tiến hành nội
luật hóa những cam kết vào trong quy định của pháp luật của Việt Nam để có thể tiếp cận được
các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, nhằm thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước, để có thể đáp
ứng được các yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần triển khai có hiệu quả các điều ước,
cam kết quốc tế, các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra,
quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngày càng nhiều các hiệp định thương mại tự do
ra đời nên sự tăng trưởng kinh tế sẽ chịu nhiều tác động mạnh mẽ từ cạnh tranh chiến lược giữa
các quốc gia ngày càng gay gắt, nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô, tác động
gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, hệ thống pháp luật tài chính cũng phải phát triển để có
thể bắt kịp với xu hướng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Từ đó mà nguồn luật tài chính sẽ
không ngừng được hoàn thiện, tiến bộ và ngày càng phong phú hơn nhằm đáp ứng được đòi hỏi
của thị trường ngày càng lớn mạnh và cạnh tranh.
9
3. HỆ THỐNG LUẬT TÀI CHÍNH
3.1 Khái niệm
Hệ thống pháp luật tài chính là tổng thể các qui phạm pháp luật tài chính có mối liên hệ nội tại
thống nhất với nhau, được phân định thành các nhóm qui phạm pháp luật tài chính và được thể
hiện dưới các hình thức khác nhau do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận theo một trình tự, thủ
tục nhất định.
4.2. Đặc điểm của các quy phạm pháp luật tài chính
10
• Thường được bao hàm ngay trong nội dung của quy phạm, thể hiện ở những cách xử sự,
những hành vi bắt buộc các chủ thể phải làm, hoặc những hành vi bị cấm
• Các quy phạm pháp luật tài chính thể hiện phương pháp điều chỉnh của luật Tài chính -
phương pháp mệnh lệnh, quyền uy.
• Tuy nhiên, tính mệnh lệnh này không phải được sử dụng như một thứ đặc quyền cho chủ thể
mang quyền dùng để ra lệnh cho các chủ thể mang nghĩa vụ, mà nó được thể hiện ở mức độ
ngang nhau đối với cả chủ thể mang quyền cũng như chủ thể mang nghĩa vụ
• Bên cạnh đó, vẫn có nhiều quy phạm pháp luật tài chính không hàm chứa tính mệnh lệnh
trực tiếp mà thể hiện nguyên tắc hướng dẫn, định hướng cho xử sự của các bên.
Căn cứ vào tính chất của các quy tắc xử sự, chia làm 3 nhóm:
a) Nhóm quy phạm bắt buộc:
Là loại quy phạm quy định những việc làm (hành vi) nhất định và buộc các chủ thể của quan hệ
pháp luật tài chính phải thực hiện. Đó là các quyền và nghĩa vụ tài chính được thực hiện thông
qua những việc làm ( hành vi) của các chủ thể. Nếu không làm là vi phạm pháp luật tài chính
Ví dụ: Quyền ( hành vi) thu thuế của các cơ quan thuế, nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp
11
5. QHAN HỆ PHÁP LUẬT TÀI CHÍNH
5.1. Khái niệm
Quan hệ pháp luật tài chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động tài chính
của các chủ thể được các quy phạm pháp luật tài chính điều chỉnh, trong đó các bên tham gia có
những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật vừa mang tính khách quan và mang tính chủ quan.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ, các quan hệ pháp luật trước hết chúng là các quan hệ xã hội,
hình thành một cách khách quan do nhu cầu tất yếu của các mối liên hệ xã hội giữa các thành
viên trong xã hội (yếu tố chủ thể) nhằm hướng tới lợi ích nào đó (yếu tố khách thể).
Tính chủ quan thể hiện ở sự điều chỉnh, sự tác động mang tính chủ quan của Nhà nước, thông
qua các quy phạm luật - cung là một sản phẩm của ý chí chủ quan, làm hình thành nên các quyền
và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên trong quan hệ pháp luật (Nội dung của quan hệ pháp luật).
Các chủ thể này cũng chính là chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước.
12
• Các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác tham gia trong quan hệ tài chính với tư
cách là các chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu nhằm
mục đích kinh doanh ... thể hiện trong các lĩnh vực thu hút và tập trung vốn, thực hiện nghĩa
vụ tài chính với nhà nước, phân phối lợi nhuận trong tổ chức đó ...
• Công dân Việt Nam là chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật tài chính với tư cách là nhà
đầu tư trong thị trường tài chính dưới hình thức mua trái phiếu, cổ phiếu do các doanh
nghiệp phát hành ... (các quan hệ tài chính này không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung).
• Chính phủ, tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế, tổ chức kinh tế nước ngoài, người nước
ngoài có thể trở thành chủ thể quan hệ pháp luật tài chính Việt Nam khi tham gia các quan
hệ tài chính với bên Việt Nam như góp vốn, đầu tư, viện trợ...
b) Khách thể
“Khách thể của quan hệ pháp luật là những gì mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham
gia vào quan hệ pháp luật”
Khách thể của quan hệ pháp luật tài chính chủ yếu là tiền và các giấy tờ, chứng từ có giá có thể
chuyển đổi thành tiền, bên cạnh đó, khách thể của quan hệ pháp luật tài chính còn bao gồm cả
những lợi ích phi vật chất khác.
Khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các chủ thể hướng tới khi thiết lập quan hệ, là
những lợi ích được nhà nước bảo đảm thực hiện có thể là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần.Các
lợi ích phi vật chất như quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế, danh dự, nhân phẩm, học vị,
học hàm...
Trong quan hệ pháp luật tài chính lợi ích mà các bên mong muốn hướng đến là tiền, các loại giấy
tờ, chứng từ có giá trị có thể chuyển đổi thành tiền như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc,
kỳ phiếu ngân hàng ... hoặc việc thực hiện các quan hệ tiền tệ nhất định.
Nội dung:
Nội dung của một quan hệ pháp luật là các quyền và nghĩa vụ được nhà nước quy định cho các
chủ thể khi họ tham gia vào các quan hệ pháp luật đó.
13
Trong quan hệ pháp luật tài chính, nội dung của quan hệ pháp luật tài chính là tập hợp các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể, được quy định bằng các quy phạm pháp luật hoặc được pháp
luật thừa nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Quan hệ pháp luật tài chính luôn gắn liền với vai trò Nhà Nước, chủ thể công quyền. Những chủ
thể khác trong quan hệ pháp luật tài chính là chủ thể chịu sự lãnh đạo.
Các quan hệ tài chính công khi được pháp luật điều chỉnh, hầu hết quyền và nghĩa vụ của các
bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tài chính công được quy định trước trong các quy phạm
pháp luật, chúng không phải là sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể tham gia.
Khi tham gia vào một quan hệ pháp luật tài chính cụ thể, các chủ thể được hưởng các quyền hoặc
phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mà không được tự ý xác lập hoặc thay đổi trái với pháp luật.
Các quan hệ pháp luật tài chính công chỉ có thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở pháp
luật.
Các quan hệ tài chính tư được phát sinh giữa các chủ thể độc lập, không bị phụ thuộc, bình đẳng
về địa vị, chỉ bị ràng buộc bởi yếu tố quyền lực nhà nước với tư cách nhà nước là tổ chức quyền
lực công, quản lý hoạt động tài chính của các chủ thể.cDo vậy, khi tham gia các quan hệ pháp
luật tài chính tư, các chủ thể có thể thỏa thuận nhằm xác lập quan hệ, xác lập quyền và nghĩa vụ
của các bên trong khuôn khổ do pháp luật quy định.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về quan hệ pháp luật tài chính còn xem xét về căn cứ làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tài chính. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ
pháp luật tài chính bao gồm:
• Quy phạm pháp luật tài chính.
• Chủ thể tham gia.
• Sự kiện pháp lý: đó là những sự kiện thực tế xảy ra trong hoạt động tài chính. Sự kiện pháp
lý đó có thể do hành vi của các chủ thể gây ra hoặc do nhiều điều kiện khách quan đem lại.
Ví dụ:
14
Anh B là người lao động làm việc tại công ty C. Anh B có thu nhập hàng tháng là 10 triệu đồng.
Theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2023, anh B có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập
cá nhân với mức thuế suất là 10%.
Việc anh B nộp thuế thu nhập cá nhân cho Nhà nước là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan
hệ pháp luật giữa anh B và Nhà nước. Theo đó, anh B có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân
theo quy định của pháp luật và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm cho anh B được hưởng các quyền
lợi về thuế.
Việc tìm hiểu căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tài chính có ý nghĩa rất
quan trọng trong quá trình Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các hoạt động tài chính
nhằm góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và tạo nên sự ổn định xã hội.
Đối tượng điều chỉnh của luật tài chính đó là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tài chính. Đó là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của
các chủ thể hoạt động phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
Khi căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của tài chính thì có thể chia đối tượng điều chỉnh của luật tài
chính thành các nhóm quan hệ sau:
• Nhóm 1: Các quan hệ tài chính phát sinh trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Bao gồm: Quan
hệ thu nộp ngân sách Nhà nước; quan hệ cấp phát chi tiêu ngân sách Nhà nước; quan hệ phát
sinh trong quá trình phân cấp ngân sách Nhà nước; quan hệ tài chính phát sinh trong lĩnh vực
chấp hành, quyết toán ngân sách Nhà nước.
• Nhóm 2: Các quan hệ tài chính phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh. Các quan hệ phát sinh
trong quá trình hình thành quỹ của doanh nghiệp. Các chủ thể tham gia trong quan hệ này
nhằm mục đích kinh doanh.
• Nhóm 3: Nhóm quan hệ tài chính phát sinh trong khu dân cư và các tổ chức phi kinh doanh
chủ yếu phát sinh trên cơ sở hợp đồng dân sự và thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự.
Đồng thời với sự phát triển của thị trưởng tài chính tạo điều kiện kết nối các mối quan hệ tài
chính giữa tài chính dân cư, các tổ chức phi kinh doanh với thị trường tài chính, các quan hệ
15
này cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính. Nhằm phân phối đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng tích luỹ, không nhằm mục đích kiếm lời.
• Nhóm 4: Nhóm quan hệ tài chính phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động
của các tổ chức kinh doanh bảo hiểm (bên bảo hiểm) làm phát sinh các quan hệ tài chính giữa
các tổ chức này với bên mua bảo hiểm trong việc thu nộp phí bảo hiểm và trả tiền bảo hiểm
• Nhóm 5: Nhóm các quan hệ tài chính phát sinh trong thị trường tài chính. Hoạt động mua bản
quyền sử dụng vốn trên thị trường tài chính làm phát sinh quan hệ tài chính giữa các chủ thể
có cung - cầu vốn.
• Nhóm 6 Nhóm các quan hệ tài chính có nhân tố nước ngoài như đầu tư vốn, cho vay, viện
trợ...
=> Tóm lại, tất cả các quan hệ tài chính phát sinh dù ở nhiều nhóm lĩnh vực khác nhau đều mang
một đặc trưng chung là luôn luôn gắn liền với việc hình thành, quản lý và sử dụng các nguồn vốn
tiền tệ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tuỳ thuộc vào từng nhóm quan hệ tài chính mà nhà nước
sử dụng các biện pháp tác động cho phù hợp. Có hai phương pháp điều chỉnh đó là:
• Phương pháp mệnh lệnh: Thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng, một bên có quyền ra lệnh
buộc chủ thể bên kia phải thực hiện những hành vi. Nếu chủ thể bị bắt buộc thực hiện
không thực thi, thực thi sai hoặc không đầy đủ sẽ bị coi là trái pháp luật và sẽ bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế.
• Phương pháp bình đẳng thỏa thuận: thể hiện các chủ thể tham gia trong quan hệ tài chính
bình đẳng về địa vị pháp lý. Sự bình đẳng thể hiện ở quyền và nghĩa vụ tài chính mà các
bên phải thực hiện hoặc trong trường hợp các bên không phải thực hiện nghĩa vụ. Thể
hiện quyền tự quyết định trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể tham gia trong quan
hệ tài chính.
16
Tuy nhiên quyền tự thỏa thuận và quyết định của các bên luôn đặt trong khuôn khổ pháp lý
chung.
Phương pháp này điều chỉnh các quan hệ kinh tế chủ yếu phát sinh trong quá trình phân phối
nguồn tài chính do các tổ chức kinh tế tạo ra trong quá trình hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ của
các chủ thể khác nhau trong xã hội doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, dân cư được thực hiện thông
qua hình thức hợp đồng, điều lệ....
Như vậy, Luật tài chính là một ngành luật độc lập, bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành,
phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội. (1996). Lý luận về nhà nước và pháp luật. Hà Nội: NXB.
2. Thư viện Đại học Luật Hà Nội. (2019). Bộ sưu tập luận văn thạc sĩ
3. Nguyễn, T. H. (2018). Phân tích tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu
giai đoạn 2011 - 2017 và định hướng đến năm 2020
4. Sở Thông tin và Truyền thông Bạc Liêu. (2019). Lịch sử tỉnh Bạc Liêu
5. PACE. (2020). Tài chính là gì?
6. Luật Minh Khuê. (2019). Quan hệ pháp luật là gì?.
7. Vietnambiz. (2019). Quan hệ pháp luật tài chính là gì? Phân loại quan hệ pháp luật tài
chính.
18