You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TRIẾT LUẬN MÔN HỌC

KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC-LÊNIN

Đề tài: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI Ở


CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

GV phụ trách: PGS.TS. Trần Ngọc Chung


MÃ MÔN HỌC: LLCT120205_22_2_29CLC

Sinh viên thực hiện:


Nguyễn Ngọc Lân 22147064
Lê Nguyễn Thu Hà 22128016
Mạch Trung Ngọc 22147068
Vũ Minh Trí 22147085
Lâm Chí Bảo 22146077
Lê Hoàng Khương 22147062
Phạm Thị Ngọc Hân 22161120
Lê Khánh Duy 22147039
Nguyễn Phi Long 22147066

TP. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2023


DANH SÁCH THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KỲ II NĂM HỌC 2022-2023

Tên đề tài: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI Ở CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN TỈ LỆ HOÀN THÀNH


01 Nguyễn Ngọc Lân 22147064 100%
02 Lê Nguyễn Thu Hà 22128016 100%
03 Mạch Trung Ngọc 22147068 100%
04 Vũ Minh Trí 22147085 100%
05 Lâm Chí Bảo 22146077 100%
06 Lê Hoàng Khương 22147062 100%
07 Phạm Thị Ngọc Hân 22161120 100%
08 Lê Khánh Duy 22147039 100%
09 Nguyễn Phi Long 22147066 100%

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................

NGÀY…..THÁNG…..NĂM 2023
GIÁO VIÊN CHẤM ĐIỂM

2
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường
Đại học Sư Phạm Kỹ thuật TP.HCM đã đưa môn học Kinh tế chính trị
Mác- Lênin vào chương trình giảng dạy. Chúng em xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến PGS.TS Trần Ngọc Chung đã có những bài giảng hay,
kiến thức bổ ích và những kỹ năng để làm hành trang cho tương lai.

Môn học Kinh tế chính trị Mác-Lênin là một môn học cực kỳ thú vị
và gắn liền với cuộc sống thường ngày. Sau khi kết thúc môn học này
chúng em tin rằng bản thân có thể nắm vững những kiến thức này
và áp dụng chúng vào cuộc sống thực tiễn. Tuy vậy, dù rằng đã có
những cố gắng và nỗ lực hết sức mình nhưng chúng em vẫn không thể
tránh khỏi những thiếu sót trong bài tiểu luận này. Mong thầy sẽ có
những góp ý để bài tiểu luận của chúng em sẽ được hoàn thành một
cách chỉn chu nhất. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.

3
MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................5

2. Mục tiêu chọn đề tài..................................................................................................5

B. PHẦN NỘI DUNG

1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...................

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.........................................................................................

3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam................

4. Liên hệ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam...........................................................................................................

C. PHẦN KẾT LUẬN......................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................

4
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự nỗ lực sáng tạo
của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng
hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động
thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng
nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội
lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, bộ mặt kinh tế - xã
hội thay da đổi thịt từng ngày, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải
thiện rõ nét.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề duy lý luận cốt lõi thuộc
về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải
phát triển kinh tế thị trường, mục đích phát triển kinh tế thị trường là gì,
những đặc điểm và thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta... Vì vậy em đã chọn đề tài “ Một số vấn đề kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.

2. Mục tiêu chọn đề tài

Trong nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế thị
trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Và trong
mỗi quốc gia lại có những biến thể khác nhau xuất phát từ quan niệm, trình
độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các quốc gia
trên thế giới, và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường
lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước
phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của
5
Đảng ta.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống
nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó
là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Đồng thời hiểu rõ trong phần báo cáo về chủ đề “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” cũng sẽ làm rõ về nhận thức và sự
hiểu của một số bộ phận là sinh viên về: “Đường lối, quan điểm, chính sách
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và
phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thật sự khoa
học, có nhiều nội dung mới, kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân. Những đường lối, quan điểm, chính sách này có tính
khái quát cao; vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản
ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước
nhanh, bền vững.”

6
B. PHẦN NỘI DUNG

1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vẫn hành
theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước
xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; có sự điều tiết cả Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống kinh tế ở
đó hoạt động của thị trường được điều chỉnh và hỗ trợ bởi nhà nước với
mục tiêu mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Hệ thống này tập trung vào việc
xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh, khuyến khích sự đổi mới, triển khai
công nghệ tiên tiến, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành công, tạo
việc làm và phục vụ các nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng giữ vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước, đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn và bảo vệ môi
trường, giảm bớt bất đồng thu nhập và đảm bảo trật tự an ninh kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế được
thực hiện ở Việt Nam từ năm 1986, khi chính phủ đưa ra chính sách Đổi
mới để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế đất nước. Mô hình này kết hợp giữa
nền kinh tế thị trường và sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ quyền lợi
của các tầng lớp nhân dân yếu thế và đảm bảo sự phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa áp dụng sự
can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các ngành kinh tế chủ chốt như
ngành công nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, giao thông vận tải. Tuy nhiên,
các hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, sản xuất và tiêu thụ đều có sự
tham gia của các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp phát triển, tăng sản xuất, mở rộng thị trường và đóng góp
vào nền kinh tế Việt Nam.

7
Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình
kinh tế hiện đại và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, đảm bảo
công bằng xã hội, phát triển kinh tế bền vững và hoàn thiện thị trường đối
ngoại.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải bao hàm đẩy
đủ các đặc trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có
những đặc trưng riêng của Việt Nam. Đây là kiểu mô hình kinh tế thị
trường phù hợp với đặc trưng riêng của Việt Nam. Muốn thành công phải
do nhân dân nổ lực xây dựng mới có thể đạt được.

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong phép biện chứng của sự phát triển, “khâu trung gian” được
coi là mắt khâu tất yếu giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
giai đoạn phát triển trong cùng một sự vật, hiện tượng. Nhà triết
học vĩ đại người Đức, Ph. Hê-ghen, cho rằng, các dạng khác nhau
của tồn tại, đòi hỏi những dạng trung gian hóa của chính chúng,
hoặc chứa đựng trong bản thân chúng những dạng ấy.
Ph. Ăng-ghen cho rằng: “Phép biện chứng thừa nhận trong
trường hợp cần thiết là bên cạnh cái “hoặc là... hoặc là” thì có cả
cái này lẫn cái kia”, “thực hiện sự môi giới giữa các mặt đối lập”.
Trong quá trình vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng,
sự chuyển hóa từ sự vật này thành sự vật khác đều phải thông qua
những “khâu trung gian”.
Đặc trưng của “khâu trung gian”, về mặt kết cấu, gồm những mặt,
những bộ phận, những yếu tố, những quá trình khác nhau, đối lập
nhau, cùng tồn tại đan xen với nhau, thâm nhập vào nhau, đấu
tranh và chuyển hóa lẫn nhau. Trong đó, những nhân tố mới, tiến
bộ bao giờ cũng đóng vai trò định hướng, chi phối, định hình sự
vật mới, ngược lại, những nhân tố cũ sẽ dần trở thành bảo thủ, lạc
hậu và chúng chỉ mất đi khi những điều kiện cho nó tồn tại không
8
còn nữa.
Chính vì sự đan xen tồn tại, đấu tranh với nhau giữa cái mới và
cái cũ đã làm cho sự vật mới chiến thắng sự vật cũ rất khó khăn.
Do vậy, ở trạng thái “trung gian” quá độ ấy, khuynh hướng phát
triển của sự vật cũng trở nên phức tạp, thiếu ổn định, có cả sự tiến
lên lẫn thụt lùi, cả sự tiến bộ lẫn thoái bộ, thậm chí sự vật còn
“tròng trành, nghiêng ngả”, nhưng mang trong mình sức mạnh
của tất yếu, cuối cùng cái mới sẽ chiến thắng hoàn toàn cái cũ.
“Khâu trung gian” có vai trò tất yếu trong quá trình giải quyết
mâu thuẫn giữa các mặt đối lập, quá trình phủ định biện chứng và
sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất của các sự vật, hiện tượng. Trong tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen cho rằng: “tất cả các mặt đối lập đều
thông qua những khâu trung gian mà chuyển hóa lẫn nhau”, “thực
hiện sự môi giới của các mặt đối lập”.
Điều đó cho thấy vai trò tất yếu của “khâu trung gian” là thực
hiện được sự chuyển hóa từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia, bằng cách “dung hợp” các mặt đối lập trong những hình thức
nhất định. Do vậy, “khâu trung gian” đóng vai trò là những tiền
đề, điều kiện làm “môi giới” cho sự chuyển hóa giữa các mặt đối
lập, thông qua đó mâu thuẫn được giải quyết.
Quan điểm siêu hình thường tuyệt đối hóa sự đối lập giữa các
mặt, cho nên trong khi tiến hành giải quyết mâu thuẫn, họ mưu
toan muốn “thoát khỏi” tình trạng mâu thuẫn bằng cách vứt bỏ
giản đơn một trong các mặt đối lập của mâu thuẫn, trong khi lại
xem mặt kia như một chỉnh thể “phi” mâu thuẫn. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng không những vạch ra nguồn gốc, động lực của
mâu thuẫn mà còn chỉ rõ vấn đề có tính quy luật trong quá trình
giải quyết mâu thuẫn.
Xem xét vấn đề lý luận và phương pháp luận giải quyết mâu
thuẫn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin cho
9
rằng cần phải học ở chủ nghĩa Mác cách “làm thế nào và khi nào
có thể và cần phải kết hợp các mặt đối lập,... trong thực tiễn
chúng ta đã nhiều lần thống nhất các mặt đối lập”.
Vì vậy, nếu sự chuyển hóa của các mặt đối lập là phương thức để
giải quyết mâu thuẫn của sự vật thì “khâu trung gian” là những
điều kiện tất yếu để các mặt đối lập đấu tranh, chuyển hóa và giải
quyết mâu thuẫn. Đây là vấn đề có ý nghĩa về lý luận và phương
pháp luận rất lớn trong việc giải quyết các mâu thuẫn, nhất là các
mâu thuẫn xã hội.
Quá trình phủ định của phủ định, theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, không phải là sự thay thế giản đơn cái này
bằng cái khác mà phải thông qua những “vòng khâu” liên hệ,
“vòng khâu” của sự phát triển, trong đó cái cũ và cái mới kết hợp
với nhau, tác động vào nhau, vừa kế thừa, vừa phủ định để cuối
cùng cái mới được khẳng định.
Đối với mọi quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên, xã hội và
tư duy, “khâu trung gian” đóng vai trò là cơ sở, là điều kiện để
cái mới và cái cũ kết hợp với nhau, thâm nhập vào nhau, vừa kế
thừa, vừa lọc bỏ, tạo nên khuynh hướng phát triển vừa tiến lên,
vừa lặp lại thông qua vô số những lần phủ định.
Đối với quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất, “khâu trung gian” cũng có vai trò quan
trọng trong quá trình nhảy vọt về chất. Đó là một trạng thái tồn
tại tất yếu của sự vật trong quá trình chuyển hóa từ chất cũ sang
chất mới, trong đó chất cũ và chất mới đan xen, thâm nhập vào
nhau, đấu tranh với nhau, thông qua đó cái cũ bị lọc bỏ và chuyển
hóa thành cái mới.
Bất kỳ một hình thức nhảy vọt nào dù “đột biến” hay “dần dần”
đều thông qua “khâu trung gian” để thực hiện bước quá độ từ
chất cũ sang chất mới, “khâu trung gian là cơ sở, điều kiện tất yếu
để bước nhảy vọt có thể xảy ra, không qua “khâu trung gian” thì
10
nhảy vọt chỉ còn là một “phép lạ””.
Sự tồn tại của “khâu trung gian” mang tính tất yếu và phổ biến
trong sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quá
trình tiến hóa giống loài sinh vật luôn tồn tại những loài có đặc
điểm của “khâu trung gian”. Trong lĩnh vực xã hội, biểu hiện của
những “khâu trung gian” cũng vô cùng phổ biến.
Trong tài liệu “Những hình thức có trước sản xuất tư bản chủ
nghĩa” chuẩn bị cho viết tác phẩm Bản thảo kinh tế, C. Mác phân
tích đặc điểm của các hình thức kinh tế quá độ trong lịch sử, như
công xã nông thôn, phương thức sản xuất châu Á, kinh tế trang ấp
phong kiến, kinh tế diêu dịch (ở Nga), kinh tế phường hội... và
nhận xét rằng, về bản chất chúng có đặc điểm của “khâu trung
gian” quá độ giữa hình thái kinh tế - xã hội trước lên hình thái
kinh tế - xã hội sau. Trong lĩnh vực chính trị, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng chỉ ra không ít những “khâu trung
gian” quá độ như chế độ dân chủ chủ nô thời kỳ cổ đại, trong đó
vừa chứa đựng những hình thức làm chủ cộng đồng của công xã
tự quản và chế độ chủ nô quý tộc của chế độ nô lệ, kể cả chế độ
chuyên chế phương Đông cũng được các ông coi là hình thức
chính trị “trung gian” quá độ từ chế độ công xã tự quản lên chế
độ quân chủ phong kiến.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin phân tích đặc biệt sâu
sắc tính chất “khâu trung gian” trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thời kỳ mà trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội có sự đan xen tồn tại giữa những “mảnh
đoạn” của xã hội cũ cùng với những yếu tố của xã hội mới đang
ra đời nhưng còn non yếu, chúng kết hợp với nhau, thâm nhập
vào nhau, đấu tranh với nhau, do đó, mọi hình thức phát triển đều
mang đặc trưng, đặc điểm của cả xã hội cũ và xã hội mới. Về mặt
kinh tế, còn nhiều hình thức tổ chức phù hợp với trình độ phát
triển sản xuất, như V.I. Lê-nin chỉ rõ trong thời kỳ quá độ ở bất
11
kỳ nước tư bản chủ nghĩa nào khi đi lên chủ nghĩa xã hội cũng
gồm ba thành phần cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa (xã hội chủ
nghĩa), kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế hàng hóa nhỏ.
Đặc biệt, đối với những nước tiền tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển thì cơ cấu kinh tế còn đa dạng, phức tạp hơn, bao
gồm cả các thành phần kinh tế sản xuất nhỏ - tự cấp, tự túc. Về
chính trị, sự tồn tại của các thành phần kinh tế quy định sự tồn tại
của những lực lượng, giai cấp xã hội có lợi ích khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, vừa liên minh, vừa đấu tranh với nhau, vì thế
trong thời kỳ quá độ, mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp sẽ
trở nên gay gắt và phức tạp hơn. Trong lĩnh vực ý thức xã hội,
những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu và phản động của chế độ cũ chưa
thể mất đi ngay mà còn tiếp tục cản trở sự ra đời của ý thức tư
tưởng tiến bộ.
Trong những di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “chính
sách kinh tế mới - NEP” có ý nghĩa về mặt lý luận và phương
pháp luận rất quan trọng, đó không chỉ là phép biện chứng của
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà còn là
một “học thuyết” về nhận thức và vận dụng “khâu trung gian” để
“bắc những chiếc cầu nhỏ” xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước
để đi lên chủ nghĩa xã hội đối với những nước còn chưa đủ điều
kiện chín muồi.
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người cộng sản
Nga đứng đầu là V.I. Lê-nin đã thi hành chính sách “cộng sản
thời chiến” để quá độ tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng sau một
thời gian ngắn, chính sách ấy đã bộc lộ những hạn chế, sai lầm to
lớn, đó là xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế và nền sản xuất
hàng hóa để xác lập nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa, tiến hành tổ
chức sản xuất và phân phối trực tiếp theo kế hoạch của chính
quyền Xô-viết. Hậu quả là sản xuất đình đốn, đời sống xã hội cực
kỳ khó khăn, chủ nghĩa xã hội đứng bên bờ vực sụp đổ. Thực
12
chất chính sách kinh tế “cộng sản thời chiến” là mô hình kinh tế
“quá độ” trực tiếp tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản, không qua
những “khâu trung gian”, những hình thức quá độ.
Và chính sách kinh tế mới là mô hình kinh tế quá độ, rốt cuộc đã
được tìm ra từ những sai lầm về đường lối cách mạng chủ quan,
duy ý chí. V.I. Lê-nin khẳng định dứt khoát rằng, không nghi ngờ
gì nữa, một nước trong đó nền sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại
đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa
bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không
cần thiết ở những nước tư bản phát triển. Áp dụng những biện
pháp quá độ “đặc biệt” đó, nghĩa là phải nắm lấy những mắt xích
trung gian, những bậc thang, những hình thức quá độ cụ thể để
thực hiện sự “môi giới” giữa xã hội cũ và xã hội tương lai. V.I.
Lê-nin cũng chỉ ra những hình thức kinh tế trung gian, quá độ
như chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế hợp tác xã và các hình
thức kinh tế cá thể, tiểu chủ... tạo thành nền kinh tế với nhiều
thành phần; chủ trương khôi phục nền sản xuất hàng hóa, thương
mại, cơ chế thị trường đi đôi với sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ
của nhân dân và chính quyền Xô-viết. Đáng tiếc, sau khi V.I. Lê-
nin mất, chính sách kiểu “cộng sản thời chiến” lại được duy trì,
trở thành mô hình kinh tế chung của các nước xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử một lần nữa lặp lại sai lầm và dẫn tới sự khủng hoảng, đổ
vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, và cũng một lần nữa “Chính
sách kinh tế mới” của V.I. Lê-nin được kế thừa và phát triển
trong điều kiện mới, đem lại sức phát triển mạnh mẽ và những
thành tựu to lớn cho các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước
ta.

3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
13
nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống
nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và
từng bước khá giả hơn.
1. Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP
đầu người tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu,
nghèo trong xã hội ngày càng được thu hẹp.
- Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị
trường cho ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ
môi trường sinh thái, bảo vệ các bí mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa
học, công nghệ và an ninh, quốc phòng.
- Làm cho xã hội công bằng, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ
lợi ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn
vào giải quyết các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ
có giá trị không chỉ về kinh tế mà còn có giá trị cao về văn hóa, xã hội.
- Phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng
mạnh mẽ lực lượng sản xuất; xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người
khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Kinh tế thị trường bản thân nó
là nội lực thúc đẩy tiến trình kinh tế - xã hội.
2. Sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và nhà nước:
- Các hoạt động sản xuất và kinh doanh được thực hiện dưới hình thức
kinh tế thị trường, tức là các doanh nghiệp được tự do tham gia vào thị
trường, sản xuất và kinh doanh theo cơ chế cạnh tranh. Tuy nhiên, nhà
nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý, điều hành và can
thiệp vào hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân và sự
phát triển bền vững của nền kinh tế.
- Nhà nước sẽ thực hiện chính sách và biện pháp can thiệp để điều tiết hoạt
động của thị trường, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và người lao
động, đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Nhà nước cũng có thể can thiệp vào hoạt động sản xuất và kinh doanh của

14
các doanh nghiệp để dảm bảo sự công bằng, chống độc quyền và phát triển
các ngành kinh tế chiến lược.
3. Sự đa dạng hóa hình thức sở hữu:
- Sự đa dạng hóa hình thức sở hữu trong kinh tế Việt Nam đang được phát
triển mạnh mẽ, bao gồm sở hữu nhà nước, tư nhân và hợp tác xã. Sở hữu
nhà nước tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các ngành kinh tế lớn, nhưng
đồng thời đã cho phép tư nhân và hợp tác xã tham gia và phát triển trong
nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Việc đa dạng hóa hình thức sở hữu mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế
Việt Nam.
•Giúp tăng cường sự cạnh tranh, đẩy mạnh sự phát triển và đa dạng hóa
nguồn lực.
•Giúp tăng cường sự đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, giúp người tiêu
dùng có nhiều sự lựa chọn.
•Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản
xuất và kinh doanh, giúp tăng cường sự phát triển và tạo ra nhiều việc làm
mới cho người lao động.
4. Chính sách ưu tiên doanh nghiệp nhỏ và vừa:
- Hỗ trợ vốn: chính phủ đầu tư vào các quỷ hỗ trợ tài chính cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa, giúp học có thể tiếp cận với các nguồn tài chính với lãi
suất thấp hơn.
- Giảm thuế: chính phủ giảm thuế hoặc miễn thuế với mục đích hỗ trợ phát
triển sản xuất và kinh doanh.
-Đào tạo nguồn nhân lực: chính phủ đầu tư vào các chương trình đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực, giúp họ có thể cải thiện năng lực cạnh tranh
của mình
- Hỗ trợ thủ tục hành chính: chính phủ đơn giản hóa các thủ tục hành
chính, giảm thiểu thời gian và chi phí để có thể tiết kiệm tài nguyên và tập
trung vào sản xuất kinh doanh.
- Hỗ trợ tiếp thị: chính phủ cung cấp các dịch vụ tiếp thị, quảng cáo và
thương mại điện tử để có thể tiếp cận với khach hàng tiềm năng và mở
rộng thị trường.
- Việc ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ vừa giúp tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp mới thành lập, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tạo ra
nhiều việc làm mới cho người lao động.

15
5. Chính sách bảo vệ người lao động:
- Luật lao động: được ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, quy định về thời gian làm việc, lương tối thiểu, nghỉ ngơi, bảo hiểm
xã hội và các chế độ phúc lợi khác.
- Bảo hiểm xã hội: hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. Các chế độ này giúp người lao động
có được bảo đảm về sức khỏe, thu nhập và chế độ phúc lợi khi nghỉ hưu
hoặc mất việc.
- Kiểm tra và giám sát: nhà nước có trách nhiệm kiểm tra và giám sát việc
thực hiện chính sách bảo vệ người lao động tại các doanh nghiệp. Nếu phát
hiện vi phạm, sẽ có những hình thức xử lý, từ cảnh cáo đến việc phạt tiền
hoặc đình chỉ hoạt động doanh nghiệp.
- Tạo việc làm: chính phủ cũng đẩy mạnh việc tạo ra nhiều việc làm hơn
cho người lao động thông qua các chương trình, dự án và chính sách hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp.
6. Tham gia vào các hiệp định thương mại tự do:
- Việt Nam đã ký kết và tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự
do(FTA) với các đối tác lớn như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Liên minh châu Âu (EU) và hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương(TPP). Nhờ đó, Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế
lớn hơn, tăng cường xuất khẩu và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến
đầu tư Việt Nam. Tuy nhiên, việc tham gia vào các FTA cũng đặt ra những
thách thức trong việc cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài và yêu cầu
Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và đảm
bảo tuân thủ các quy định về văn hóa, môi trường và quyền lao động.

4. Liên hệ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam

Trên cơ sở nhận thức lý luận, quan điểm, chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế đất nước, các ngành,
lĩnh vực với những thành tựu to lớn
16
1/Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục
phát triển ở trong nước
Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền
kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức
khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng
trưởng được cải thiện. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu
cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các loại thị trường Việt nam phát triển đồng bộ với thị trường
khu vực và thế giới như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường
chứng khoán. Quy mô, phạm vi tự do hóa các loại thị trường
ngày càng được mở rộng,... Các yếu tố cơ bản của thị trường tài
chính, như thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường chứng
khoán, thị trường bảo hiểm cùng nhiều loại công cụ tài chính,
giấy tờ có giá đã được hình thành tương đối hoàn chỉnh và đang
được đưa vào vận hành, góp phần tạo điều kiện thu hút, tạo ra
nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thị
trường tiền tệ phát triển với quy mô giao dịch ngày càng tăng,
hàng hóa trên thị trường tiền tệ ngày càng đa dạng, hoạt động của
thị trường góp phần thúc đẩy cơ chế điều hòa vốn ngắn hạn một
cách linh hoạt trong phạm vi toàn hệ thống các ngân hàng, từ đó
phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị
trường, các loại thị trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành
chính từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển các
loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ;
môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp
sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có
hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động
17
lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước được
đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa
dạng về hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song
phương, đa phương thế hệ mới; kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng
trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
2/Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đem lại những thay đổi rất to lớn cho Việt Nam trong công cuộc
đổi mới.
Với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam
đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô
GDP theo giá năm 2022 ước đạt 9,513 triệu tỷ đồng, tương đương
409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện
hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD. Cơ
cấu tổng sản phẩm quốc nội xét trên phương diện quan hệ sở hữu,
gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30%
từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài
Đặc biệt, khi khống chế được đại dịch COVID-19,nền kinh tế
Việt Nam đã mở cửa trở lại với sự hồi phục và tăng trưởng mạnh
mẽ. Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, lạm phát cơ bản
bình quân tăng 2,59% so với năm 2021, kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước; kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 360,65 tỷ USD, tăng 8,4% so với
năm trước. Thặng dư cán cân thương mại 11,2 tỷ USD. Vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt 22,4 tỷ USD,
tăng 13,5% so với năm trước.
An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo
dục, y tế, hỗ trợ các trường hợp đặc biệt. Nhiều dịch bệnh phổ
18
biến đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6
tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy
dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm đáng kể.
Tháng 4-2022, cả nước có 5.706/8.227 xã đạt chuẩn nông thôn
mới, trong đó 663 xã đạt chuẩn nâng cao và 71 xã đạt chuẩn kiểu
mẫu, hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô-tô đến trung tâm,
có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y
tế và điện thoại.
Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những
chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh
tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã
hội được giải quyết; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng
được mở rộng; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
được củng cố.

19
C. PHẦN KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam em đã biết vì sao nước ta phải lựa chọn phát triển kinh
tế thị trường và kinh tế kinh tế thị trường là lực chọn đúng đắn và
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi chúng ta
chuyển sang chế độ mới xã hội chủ nghĩa từ một nước kinh tế
còn lạc hậu và nền kinh tế còn kém phát triển vì vậy để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tìm ra con đường đúng
đắn tạo cơ sở vững chắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Vì thế chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Để kinh tế thị
trường không đi chệch hướng tư bản chủ nghĩa. Chúng ta phải
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa vận hành trên cơ chế thị trường có sự quản lí vĩ mô
của nhà nước. Trong kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm
khác với kinh tế thị trường của các nước khác. Trong kinh tế thị
trường ở nước ta tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và
công bằng xã hội. Đó là xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời phát triển

20
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vậtchất kĩ thuật cho chủ nghĩa
xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba mặt: sở hữu, tổ
chức, phân phối. Chúng ta cũng thấy được phương hướng và giải
pháp của Đảng và nhà nước đề ra trong những năm tới để đưa
kinh tế thị trường ngày càng phát triển, đưa nước ta phát triển ổn
định bền vững.

Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin.

2. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
t.3, 27, 45.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.4.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

21
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2021.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016.

22

You might also like