Professional Documents
Culture Documents
NCKH Kieu Nga 2021
NCKH Kieu Nga 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
MỤC LỤC
5
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
6
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
7
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
8
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
ỨNG PHÓ VÀ VƯỢT QUA ĐẠI DỊCH COVID-19, HƯỚNG TỚI PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
57. ThS. Nguyễn Thanh Lân, Lê Anh Minh, Nguyễn Cao Đức Anh, Nguyễn Dương Ngọc Minh 613
Chuyển đổi số trong lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam: Một số kết quả nghiên cứu ban đầu từ trải
nghiệm của khách hàng về chất lượng website bất động sản
58. ThS. Ngô Thanh Xuân, Phí Kiều Trang, Dương Thu Thủy, Lại Đỗ Phương Anh 628
Thực trạng và bài học kinh nghiệm trong sử dụng công cụ phái sinh để phòng tránh rủi ro của các
doanh nghiệp ngành Công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam
59. PGS.TS. Ngô Thị Tuyết Mai, Đinh Phan Thùy Dương, Phạm Thị Hương, Bùi Thị Huệ, 640
Phạm Thảo Nguyên, Phan Thị Phi Loan
Thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong bối cảnh thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
60. ThS. Vũ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Hà My 648
Đại dịch COVID-19 làm thay đổi hành vi người tiêu dùng: Thách thức đối với doanh nghiệp
61. ThS. Trần Đức Thành, TS. Hoàng Thị Lan Hương 654
Rủi ro cảm nhận ảnh hưởng đến ý định nghỉ việc của nhân sự ngành Khách sạn trong mùa dịch
COVID-19
62. TS. Nguyễn Thị Hồng Nhâm 662
Thực trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân và các chính sách hỗ trợ trong giai đoạn dịch COVID-19
63. TS. Đào Văn Thanh, ThS. Phạm Quốc Kiên, ThS. Dương Quốc Toản 669
Các nhân tố tác động đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các doanh nghiệp ngành
Bưu chính - Viễn thông
9
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
26.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH QUỐC GIA
CỦA VIỆT NAM NHẰM PHỤC HỒI VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NĂM 2021
Tóm tắt
Bài nghiên cứu của tác giả về đề tài “Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia của Việt Nam nhằm phục hồi và phát triển kinh tế năm 2021” bao gồm 3 phần chính:
Cơ sở lý thuyết; Nội dung và kết quả nghiên cứu; Đề xuất một số giải pháp. Bài nghiên cứu tập
trung nghiên cứu về Năng lực cạnh tranh, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0), thực
trạng năng lực cạnh tranh toàn cầu trên thế giới, thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2020 trong bối
cảnh đại dịch COVID-19, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, từ
đó đề ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
T� kh a: Năng lực cạnh tranh quốc gia, GCI 4.0, Kinh tế Việt Nam, COVID-19
1. Giới thiệu
Tác giả nghiên cứu về đề tài: “Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia của Việt Nam nhằm phục hồi và phát triển kinh tế năm 2021”.
Lý do và mục đích nghiên cứu: Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh như hiện nay, nâng cao
năng lực cạnh tranh là vấn đề được hầu hết các quốc gia quan tâm. Điều này chỉ có thể được thực
hiện thông qua nhiều giải pháp mang tính tổng thể và toàn diện nhằm cải thiện từng chỉ số của GCI
4.0. “Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu” (Global Competitiveness Index – viết tắt là GCI) được
Diễn đàn Kinh tế Thế giới sử dụng như một công cụ để đo lường các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô
305
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia, những điểm mạnh, điểm yếu của các nền kinh tế của
mỗi quốc gia. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu được chính thức công bố vào năm 2005, được
nâng cấp sửa đổi thành chỉ số GCI 4.0 vào năm 2018 cho phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, và hiện nay được Diễn đàn Kinh tế Thế giới sử dụng chính thức làm chỉ số đo lường, đánh giá
năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, do ảnh hưởng
của đại dịch COVID-19, kinh tế thế giới đã có một năm suy thoái nặng nề với sự tăng trưởng của
các nền kinh tế giảm sâu vào năm 2020. Kinh tế Việt Nam cũng không ngoài guồng quay đó, Việt
Nam cũng chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề về kinh tế và xã hội do COVID-19 gây ra. Hàng loạt
những hậu quả như tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh, tỷ lệ đói nghèo cũng đang tăng trở lại sau hàng
loạt các nỗ lực giảm nghèo của vài thập kỷ vừa qua, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản... cũng là
những khó khăn của Việt Nam trong con đường phục hồi và phát triển nền kinh tế. Trong tương lai,
muốn phục hồi và phát triển kinh tế, một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
đó là năng lực cạnh tranh toàn cầu. Vì vậy, bài nghiên cứu của tác giả bàn về một số các giải pháp
cải thiện nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam, cụ thể là nâng cao chỉ số GCI
4.0 trên thị trường quốc tế, nhằm phục hồi và phát triển kinh tế vào năm 2021.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài nghiên cứu là nền kinh tế Việt Nam, chỉ số GCI,
GCI 4.0 của Việt Nam, thực trạng kinh tế Việt Nam trong 10 năm gần đây.
Bài nghiên cứu có đóng góp mới: cập nhật chỉ số GCI 4.0 mới nhất, kèm theo gợi ý khuyến
nghị từ bản báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020, kèm theo thực trạng kinh tế của Việt
Nam năm 2020, để đưa ra các giải pháp, khuyến nghị chính sách phù hợp nhất cho nền kinh tế
trong thời kỳ COVID-19, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam hướng tới phục hồi
và phát triển kinh tế vào năm 2021.
Cấu trúc bài nghiên cứu của tác giả chia thành 3 phần chính như sau:
- Cơ sở lý thuyết
+ Năng lực cạnh tranh
+ Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0)
- Nội dung và kết quả nghiên cứu
+ Thực trạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu trên thế giới
+ Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2020 trong bối cảnh COVID-19
+ Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp
2. Nội dung chính
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Năng lực cạnh tranh
a. Cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có nhiều cách hiểu
khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi nghành, phạm
vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia...
306
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Cạnh tranh là quy luật của kinh tế thị trường. Dưới góc độ kinh tế học, thuật ngữ “cạnh tranh”
là tập hợp các hành vi của các chủ thể kinh tế nhằm thích ứng với môi trường kinh doanh để tồn
tại và phát triển.
b. Năng lực cạnh tranh
Về cơ bản, năng lực cạnh tranh được phân thành 4 cấp độ, bao gồm:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: Có thể hiểu, năng lực cạnh tranh quốc gia là toàn bộ các
chính sách, thể chế và các nhân tố quyết định đến năng suất, sự phát triển và tính bền vững của
một nền kinh tế.
- Năng lực cạnh tranh ngành: cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa doanh
nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần
trong sản xuất hàng hóa, dịch vụ và đáp ứng được các yêu cầu của thị trường.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: thể hiện năng lực của sản phẩm, dịch vụ đó
thay thế một sản phẩm, dịch vụ khác dựa trên các yếu tố như: giá cả, đặc tính, chất lượng…
Trong bài nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu về năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
c. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực có thể sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng
các đòi hỏi của thị trường quốc tế, từ đó có thể duy trì và làm tăng thu nhập thực tế của người
dân. Cụ thể, năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm tổng hợp các thể chế, chính sách và tổng hợp
các nhân tố quyết định mức độ hiệu quả, tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có
năng lực cạnh tranh tốt là một nền kinh tế có khả năng sử dụng, khai thác tốt nguồn lực có hạn.
Hiện nay trên thế giới, “Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0” (GCI 4.0) của Diễn đàn
Kinh tế thế giới được công nhận rộng rãi là chỉ số phổ biến dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của các nền kinh tế trong tương quan so sánh toàn cầu.
2.1.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0)
“Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu” (Global Competitiveness Index – viết tắt là GCI) được
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum - WEF) sử dụng như một công cụ để đo
lường các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia, những điểm
mạnh, điểm yếu của các nền kinh tế của mỗi quốc gia. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu được
chính thức công bố vào năm 2005, trong bản “Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2004 - 2005”
và được Diễn đàn Kinh tế Thế giới sử dụng chính thức làm chỉ số đo lường, đánh giá năng lực
cạnh tranh của các nền kinh tế quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 2018, Diễn đàn Kinh
tế Thế giới áp dụng Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (GCI 4.0) thay cho chỉ số năng lực
cạnh tranh toàn cầu (GCI) nhằm phù hợp với nền kinh tế hiện đại trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0.
307
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
Bảng 2.1. Các trụ cột chính trong chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI 4.0
12 trụ cột của chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI 4.0
Chỉ số GCI 4.0 đánh giá năng lực cạnh tranh của từng quốc gia thông qua 12 chỉ số trụ cột,
với 98 chỉ sốvào năm 2018 và tăng lên 103 chỉ số vào năm 2019 (năm 2020 chỉ số được tạm dừng
đánh giá do đại dịch COVID-19, Diễn đàn Kinh tế Thế giới thông báo chỉ số này sẽ tiếp tục được
trở lại vào năm 2021), được phân vào 4 nhóm chính như sau:
Nhóm 1 - Các chỉ số phản ánh cho việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, gồm: (1) thể chế,
(2) cơ sở hạ tầng, (3) ứng dụng công nghệ thông tin, (4) ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhóm 2 - Các chỉ số phản ánh chất lượng nguồn nhân lực gồm: (5) y tế, (6) kỹ năng.
Nhóm 3 - Các chỉ số phản ánh thị trường gồm: (7) thị trường hàng hoá, (8) thị trường lao
động, (9) thị trường tài chính, (10) quy mô thị trường.
Nhóm 4 - Các chỉ số phản ánh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm: (11) năng động trong kinh
doanh, (12) năng lực đổi mới sáng tạo.
2.2. Nội dung và kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng Năng lực cạnh tranh toàn cầu trên thế giới
Biểu đồ 2.1. Top 10 quốc gia đứng đầu về xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu
Top 10 xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019
86 85.4
85
84 83.7
83.1
83 82.4 82.3 82.3
81.8
82
81.2 81.2 81.2
81
80
79
Singapore Mỹ Hong Hà Lan Thuỵ Sỹ Nhật Bản Đức Thuỵ Điển Anh Đan Mạch
Kong
Điểm số
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
308
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Do tình hình đại dịch COVID-19 diễn ra bất thường, đột ngột vào cuối năm 2019, vì vậy, vào
năm 2020, bảng xếp hạng chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu đã tạm dừng đánh giá vào năm 2020,
chỉ số này sẽ được tiếp tục đánh giá vào năm 2021. Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu năm 2019 là văn
bản mới nhất của loạt báo cáo được công bố hàng năm kể từ năm 1979, cung cấp đánh giá thường
niên về các yếu tố thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế dài hạn. Báo cáo Năng lực cạnh tranh
toàn cầu 2020 tập trung trình bày các giải pháp ưu tiên cho phục hồi dành cho các quốc gia trên thế
giới, đồng thời xem xét các nền tảng của sự chuyển đổi hướng tới các hệ thống kinh tế mới kết hợp
các mục tiêu “năng suất”, “con người” và “hành tinh”. Chỉ số GCI 4.0 sẽ được tiếp tục đánh giá vào
năm 2021, nhằm đánh giá khả năng phục hồi về năng lực cạnh tranh toàn cầu của các quốc gia trên
thế giới. Vì vậy, các số liệu trong bài nghiên cứu của tác giả sẽ được sử dụng số liệu mới nhất của
bảng xếp hạng chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu, tức là bảng xếp hạng năm 2019.
Trong bản báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu mới nhất, đứng đầu trong bảng xếp hạng Chỉ
số năng lực cạnh tranh toàn cầu là Singapore, với điểm số 85,4 trên tổng điểm 100. Singapore là
quốc gia tiến gần đích nhất về năng lực cạnh tranh tính theo chỉ số GCI 4.0. Mỹ rơi xuống vị trí
thứ hai, với số điểm 83,7/100 (năm 2018 Mỹ đứng vị trí thứ nhất). Mặc dù về tổng thể Mỹ đứng
ở vị trí thứ hai, nhưng về chỉ số năng động trong kinh doanh và về tìm kiếm lao động có chuyên
môn cao, Mỹ đứng ở vị trí thứ nhất. Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông đứng ở vị trí số ba với
số điểm 83,1/100. Vị trí thứ tư thuộc về Hà Lan với số điểm 82,4/100. Vị trí thứ năm và sáu thuộc
về Thuỵ Sỹ và Nhật Bản, với cùng số điểm 82,3/100. Tiếp theo là Đức với số điểm 81,8/100 đứng
vị trí số bảy. Thuỵ Điển, Anh và Đan Mạch cùng đạt được số điểm 81,2/100 lần lượt xếp ở vị trí
số tám, chín, mười. Nhóm 20 nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới G20 lọt vào Top
10 theo bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu là: Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh. Trong
nhóm G20, Argentina đứng thứ hạng thấp nhất, giảm 2 bậc so với năm 2018, đứng ở vị trí thứ 83.
Biểu đồ 2.2. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 của ASEAN
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu mới nhất cho thấy, trên thang điểm 100,
điểm trung bình của 141 nền kinh tế được nghiên cứu là 60,7/100.
Về khu vực, cạnh tranh nhất trên thế giới thuộc về khu vực châu Á – Thái Bình Dương, xếp
thứ hạng tiếp theo sau đó là châu Âu và Bắc Mỹ. Trong khi đó, các quốc gia Bắc Âu nằm trong
số những quốc gia có công nghệ tiên tiến nhất, sáng tạo và năng động nhất.
309
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
2.2.2. Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2020 trong bối cảnh đại dịch COVID-19
Do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, kinh tế thế giới đã có một năm suy thoái với
sự tăng trưởng của các nền kinh tế giảm sâu, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng
với tốc độ tăng GDP đạt 2,91% vào năm 2020.Với các giải pháp quyết liệt và hiệu quả trong việc
thực hiện mục tiêu kép: “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”, nền kinh tế
Việt Nam đã đạt được kết quả tích cực với việc duy trì tăng trưởng. Mặc dù với mức tăng trưởng
2,91% là mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, nhưng trong đại dịch COVID-19, thì đây
là là một thành công của Việt Nam trong năm 2020. Biểu đồ 2.3 dưới đây thể hiện tốc độ tăng
GDP giai đoạn 2010 - 2020.
Biểu đồ 2.3. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2010 - 2020
Mặc dù đạt được những thành tựu trên, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều
vấn đề cần được giải quyết.Với mức độ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, mọi
biến động và diễn biến đối với nền kinh tế trên thế giới đều có tác động tới nền kinh tế Việt Nam.
Do đại dịch COVID-19 vẫn còn tiếp tục tồn tại trên thế giới, do đó các hoạt động thương mại,
dịch vụ, du lịch, lao động, việc làm bị ảnh hưởng không ít. Nhất là đối với ngành du lịch, số lượt
khách quốc tế cũng như nội địa bị suy giảm mạnh. Bên cạnh đó, khi nền kinh tế có lượng xuất
siêu cao thì sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ các cú sốc đến từ bên ngoài, thực tế này đòi hỏi Việt Nam
cần đa dạng hóa hơn nữa các đối tác thương mại.
2.2.3. Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam
Theo bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 mới nhất cho tới thời điểm hiện tại, thứ
hạng của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên bên cạnh có còn nhiều thách thức. Cụ
thể, năm 2019 Việt Nam tăng 3,5 điểm từ 58 lên 61,5 trên thang điểm 100, với điểm số này, Việt
Nam đã tăng 10 bậc từ vị trí 77/141 lên vị trí 67/141 trong bảng xếp hạng, và Việt Nam cũng đã
đạt được mức điểm số cao hơn điểm trung bình toàn cầu (60,7).
Thông qua các chỉ số về năng lực cạnh tranh toàn cầu trên, có thể thấy Việt Nam đã và đang
thực sự nỗ lực để cải thiện năng lực cạnh tranh của mình. Đặc biệt về cải thiện môi trường kinh
doanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Chính phủ Việt Nam
đã tập trung cải thiện môi trường kinh doanh với việc ban hành và triển khai thực hiện nhiều nghị
quyết, chính sách có liên quan, trong đó nổi bật nhất là cải cách về điều kiện kinh doanh. Ngoài
310
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
ra, có thể kể tới những nỗ lực nổi bật như: chú trọng đẩy mạnh chính phủ điện tử, giao dịch không
dùng tiền mặt, giảm chi phí doanh nghiệp, đơn giản hóa ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều
kiện và điều kiện kinh doanh; thay đổi phương thức quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý,
chú trọng cải thiện các quy định, thủ tục nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, từng bước
tạo lập thể chế chính sách vượt trội nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo…
Hình 2.1. Kết quả năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Trong 12 trụ cột của chỉ số GCI 4.0, Việt Nam có tới 8 trụ cột tăng điểm và tăng bậc, trong đó
trụ cột ứng dụng CNTT tăng điểm và tăng hạng nhiều nhất, sau đó là trụ cột thị trường sản phẩm,
tiếp theo là các trụ cột mức độ năng động trong kinh doanh, trụ cột thị trường lao động, trụ cột
năng lực đổi mới sáng tạo, trụ cột thể chế, trụ cột kỹ năng, trụ cột quy mô thị trường. Trụ cột ổn
định kinh tế vĩ mô không thay đổi điểm số và thứ hạng. Ba trụ cột giảm thứ hạng là: trụ cột hệ
thống tài chính, trụ cột y tế và trụ cột cơ sở hạ tầng. Cụ thể về điểm số và thứ hạng của các trụ
cột được thể hiện rõ trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Sự thay đổi điểm và thứ hạng của 12 trụ cột GCI 4.0 Việt Nam
STT Tên trụ cột Thay đổi điểm và thứ hạng
TĂNG 0,3 điểm và 5 bậc (từ vị trí 94 lên vị trí 89).
Cụ thể:
- Nhóm chỉ số thể hiện Mức độ định hướng tương lai của Chính phủ
1 Trụ cột 1: Thể chế tăng 35 bậc (từ xếp hạng 75 lên vị trí 40),
- Chỉ số về Quy định pháp lý thích ứng linh hoạt với mô hình kinh
doanh đạt 43,1 điểm và ở vị trí 71,
- Chỉ số Ổn định chính sách đạt 50,3 điểm và thứ hạng 67.
2 Trụ cột 2: Cơ sở hạ tầng TĂNG 0,5 điểm, nhưng GIẢM 2 bậc
311
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
312
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
Các trụ cột có xếp hạng dưới xếp hạng chung về năng lực cạnh tranh toàn cầu (đánh giá 141
nền kinh tế) gồm: thể chế (xếp thứ hạng 89), cơ sở hạ tầng (xếp hạng 77), y tế (xếp hạng 71), kỹ
năng (xếp hạng 93), thị trường hàng hóa (xếp hạng 79), thị trường lao động (xếp hạng 83), mức
độ năng động trong kinh doanh (xếp hạng 89), năng lực đổi mới sáng tạo (xếp hạng 76).
Bảng 2.3. Một số chỉ số thành phần suy giảm mạnh
6 Khuôn khổ pháp lý về giải quyết phá sản GIẢM 5 bậc (từ vị trí 93 xuống vị trí 98)
7 Mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm GIẢM 10 bậc (từ vị trí 51 xuống vị trí 61)
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019, Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Kết quả này cho thấy, tiếp cận tín dụng vẫn là trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Bên cạnh đó, mức độ sẵn có về vốn đầu tư mạo hiểm tuy có sự cải thiện, nhưng chậm hơn
so với nhiều nền kinh tế. Như vậy, có thể nhận thấy, cho đến nay, năng lực cạnh tranh của Việt
Nam có thay đổi và được cải thiện rất nhiều so với những năm trước đây. Tuy nhiên, bên cạnh
đó, khách quan nhìn nhận cũng phải thấy rằng, so với thế giới và kể cả khu vực, ASEAN vẫn còn
ở mức thấp và còn những hạn chế về các chỉ tiêu cần tiếp tục được cải thiện.
313
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
314
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua ại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển
cột y tế chúng ta đứng ở vị trí 71/141 quốc gia. Do đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, sự cải
cách, mở rộng năng lực hệ thống y tế là thực sự cần thiết. Về lâu dài, cần mở rộng thêm cơ sở hạ
tầng, quan tâm hơn nữa tới vấn đề già hóa dân số, chăm sóc trẻ em và sức khoẻ toàn dân.
- Nhóm giải pháp phục hồi và thúc đẩy thị trường
Trong những năm gần đây, Việt Nam có bước tiến đáng kể trong việc thúc đẩy thị trường.
Tuy nhiên không phải vì vậy mà chúng ta chủ quan. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển,
vì vậy đây là nhóm giải pháp chúng ta nên tập trung để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong
thời điểm hiện tại. Việt Nam hiện tại đã có những gói hỗ trợ doanh nghiệp đạt được những kết
quả tốt, cần duy trì và tiếp tục phát huy, tăng khả năng tiếp cận tài chính cho những doanh nghiệp
phù hợp. Cần tiếp tục phát huy các chính sách đang thể hiện tốt giúp năng lực cạnh tranh quốc
gia của Việt Nam tăng nhanh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, cần có một số điểm chú ý về thị
trường tài chính, quyền của người lao động. Nhất là trong thời kỳ đại dịch COVID-19 như hiện
nay, sự giảm sút về độ mở thương mại và sự di chuyển của người dân ra quốc tế bị đình trệ, chúng
ta cần cân bằng giữa hàng hóa xuất nhập khẩu, cũng như thúc đẩy lưu thông hàng hóa nội địa.
- Nhóm giải pháp phục hồi và chuyển đổi hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, nhất là trong giai đoạn hồi sinh hiện nay, Việt Nam
nên mở rộng đầu tư công và R&D, khuyến khích đầu tư mạo hiểm và R&D trong khu vực tư
nhân, đồng thời thúc đẩy đầu tư kinh doanh vào các công ty mới và việc làm ở thị trường tương
lai. Về lâu dài, để có sự phát triển và cạnh tranh tốt, Việt Nam nên đầu tư vào việc hỗ trợ và tạo
nên động lực cho các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu, đổi mới và phát minh những
ý tưởng về khoa học công nghệ.
3. Kết luận và khuyến nghị
Kinh tế Việt Nam năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề về kinh tế và xã hội do suy thoái kinh
tế sâu sắc do đại dịch COVID-19 gây ra. Hàng loạt những hậu quả như tỷ lệ thất nghiệp tăng
nhanh, tỷ lệ đói nghèo cũng đang tăng trở lại sau hàng loạt các nỗ lực giảm nghèo của vài thập kỷ
vừa qua, hàng loạt các doanh nghiệp phá sản... cũng là những khó khăn của Việt Nam trong con
đường phục hồi và phát triển nền kinh tế. Đối với Việt Nam, việc nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tác giả dựa vào thực trạng
kinh tế Việt Nam năm 2020, cùng với thực trạng năng lực cạnh tranh quốc gia Việt Nam do Diễn
đàn Kinh tế Thế giới đánh giá, kèm theo khuyến nghị của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong bản
báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2020, để đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia cho Việt Nam. Các nhóm giải pháp chính bao gồm: nhóm giải pháp phục hồi và
thay đổi tạo môi trường kinh doanh thuận lợi; nhóm giải pháp phục hồi và phát triển nguồn nhân
lực; nhóm giải pháp phục hồi và thúc đẩy thị trường; nhóm giải pháp phục hồi và chuyển đổi hệ
sinh thái đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, để phục hồi và phát triển bền vững, Việt Nam cần thực sự
ưu tiên năng cao năng lực tư duy dài hạn trong chính phủ, tức là mức độ định hướng tương lai
của Chính phủ cần được quan tâm nhiều hơn nữa, ngoài ra, Chính phủ nên linh hoạt đối với các
quy định liên quan tới các mô hình kinh doanh, doanh nghiệp... cải thiện cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh
thanh toán không dùng tiền mặt, phủ rộng internet, thuê bao di động nhiều hơn nữa tới người
dân, đặc biệt những khu vực miền núi, nghèo khó, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao
năng suất các yếu tố tổng hợp. Ngoài ra, chúng ta cần phải chú ý hơn việc tạo lập các cơ hội thị
315
KỶ YẾU H I TH�O KHOA HỌC QUỐC GIA
KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021
Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19,
hướng tới phục hồi và phát triển
***
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Địa chỉ: 207 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Website: http://nxb.neu.edu.vn - Email: nxb@ neu.edu.vn
Điện thoại/ Fax: (024) 36280280/ Máy lẻ: 5722