Professional Documents
Culture Documents
III Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng pháp luật
III Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật và một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng pháp luật
giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng pháp luật
3.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL) theo quy định. Theo đó, sản phẩm của quá
trình xây dựng pháp luật là các VBQPPL, tạo lập hệ thống VBQPPL điều
chỉnh tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi nói đến chất lượng xây
dựng pháp luật cần nói đến các tiêu chí đánh giá chất lượng xây dựng pháp
luật được quy định tại Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm
2015 và Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14-5-2016 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL năm
2015. Đó là các tiêu chí về tính hợp pháp, hợp lý, tính khả thi, dân chủ, minh
bạch và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Để bảo đảm chất lượng xây dựng pháp
luật cần có các yếu tố sau đây:
- Hệ thống các quy định của pháp luật về xây dựng pháp luật, như các
quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan nhà nước, trách nhiệm cá nhân có thẩm quyền xây dựng và ban
hành VBQPPL. Ngoài ra, các quy định pháp luật ghi nhận, bảo đảm các
quyền tham gia xây dựng pháp luật của các cơ quan, tổ chức và người dân.
Ở Việt Nam, hoạt động xây dựng pháp luật phải căn cứ các quy định tại
Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Trường hợp các văn bản đó quy định khoa học, lôgíc,
chặt chẽ, hợp lý sẽ làm cho quy trình xây dựng pháp luật được bảo đảm, các
quy phạm pháp luật ra đời có tính khả thi, hợp hiến, hợp pháp..., ngược lại sẽ
ảnh hưởng tới chất lượng xây dựng pháp luật.
- Sự ảnh hưởng của văn hóa pháp luật đối với xây dựng pháp luật thể
hiện thông qua hành vi pháp luật, sự tuân thủ pháp luật của từng chủ thể có
thẩm quyền trong quá trình xây dựng pháp luật, đó là sự nghiêm chỉnh thực
hiện đúng, đủ, kịp thời các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây
dựng và ban hành VBQPPL. Bên cạnh đó, các yếu tố cổ hủ lạc hậu, sự tồn
tại tư tưởng thờ ơ hoặc coi thường pháp luật ở một số nơi, một số người sẽ
có tác động tiêu cực tới hoạt động xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện
nay. Ngoài ra, ý thức, niềm tin của người dân đối với pháp luật, đối với hoạt
động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền cũng có ảnh hưởng
quan trọng đối với hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và chất lượng
xây dựng pháp luật nói riêng.
Tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao, còn tồn tại những văn
bản có những quy định mâu thuẫn, chồng chéo. Các văn bản pháp luật chưa
tạo thành một chỉnh thể thống nhất với những nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt
mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Vì vậy, khi có quy định liên quan
đến chức năng của nhiều ngành, mỗi ngành lại có những cách hiểu khác
nhau, dẫn đến tình trạng cùng một vấn đề chính sách nhưng lại có nhiều văn
bản hướng dẫn khác nhau, làm giảm tính minh bạch, khiến cho chính sách
pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng, chậm đi vào cuộc sống.
Còn đa dạng về hình thức, phạm vi điều chỉnh rộng. Thực tế cho thấy,
các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta thường được xây dựng theo
hướng có phạm vi, đối tượng điều chỉnh rộng. Điều này có ảnh hưởng không
tốt tới tính cụ thể, tính khả thi của pháp luật do phải ban hành nhiều văn bản
dưới luật và khó sửa đổi, bổ sung để theo kịp sự thay đổi của đời sống xã
hội. Hạn chế này đặt ra yêu cầu cần phải có sự thay đổi về xây dựng chính
sách pháp luật trong thời gian tới.
Tính ổn định chưa cao. Chính sách pháp luật không ổn định chủ yếu do
năng lực của đội ngũ công chức xây dựng chính sách. Nguyên nhân từ sự e
ngại, né tránh với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín
muồi, có sự đồng thuận cao, thiếu vắng tầm nhìn và quan điểm chiến lược
cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể và của cả hệ thống pháp
luật. Nhiều văn bản pháp luật thời gian áp dụng rất ngắn, thậm chí mới ban
hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật
thường xuyên thay đổi sẽ tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã
hội, nhất là đối với các quan hệ kinh tế.
Chính sách pháp luật có tính quy phạm thấp. Bản chất của quy phạm
pháp luật là để xác định mô hình hành vi, xác định những quy tắc xử sự cụ
thể mà chủ thể chính sách phải thực hiện. Nhưng trên thực tế, có những văn
bản chứa đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm
chính sách pháp luật.
Việc xây dựng pháp luật chưa thực sự gắn kết với tổ chức thi hành pháp
luật, làm giảm hiệu lực pháp luật...
3.2.2 Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xây dựng pháp luật
Một là, cần xác định “bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng
pháp luật” là một nguyên tắc quyết định, nguyên tắc này đòi hỏi trong quá
trình xây dựng và ban hành VBQPPL các chủ thể tham gia phải quán triệt và
nghiên cứu quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng để bảo đảm thể chế
hóa đúng, đủ, kịp thời thành quy định pháp luật.
Hai là, trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách pháp luật cần
phải được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng với những luận cứ, chứng cứ đầy
đủ, khách quan cho từng phương án chính sách, tuân thủ quy trình, bảo đảm
sự tham gia của các nhà khoa học, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội và tầng lớp nhân dân, bảo đảm tính công khai, khách quan, đồng
thời phát huy được trí tuệ củ Ba là, bên cạnh việc nâng cao chất lượng xây
dựng chính sách pháp luật, phải có sự gắn kết với việc xây dựng hệ thống
các công cụ quản lý khác để tạo sự đồng bộ. Ví dụ, việc triển khai thực hiện
cải cách tư pháp chậm, nhất là về tổ chức các cơ quan tư pháp theo khu vực,
một phần là do chưa có sự nghiên cứu đồng bộ với đổi mới tổ chức chính
quyền địa phương các cấp.
Bốn là, về mục tiêu, định hướng của chính sách xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cần có sự thay đổi theo hướng đồng bộ, toàn diện hơn để
phù hợp với chủ trương phát triển “bền vững”, “tăng trưởng xanh” dựa trên
ba trụ cột là kinh tế - xã hội - môi trường. Để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân thì chính sách hệ thống pháp luật nước
ta không chỉ “ưu tiên” đẩy mạnh việc ban hành văn bản pháp luật về lĩnh
vực tổ chức bộ máy nhà nước và kinh tế, mà cần tăng cường số lượng, chất
lượng chính sách pháp luật về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như an
sinh xã hội, an ninh trật tự và môi trường, ứng phó giảm thiểu biến đổi khí
hậu.
Năm là, về chương trình xây dựng pháp luật, trước mắt cần nhanh
chóng và tập trung vào những văn bản chính sách pháp luật có nội dung, vấn
đề liên quan đến thi hành Hiến pháp năm 2013; đồng thời xác định nguyên
tắc chỉ đưa vào chương trình những văn bản chính sách pháp luật thật sự cần
thiết với đời sống xã hội và được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt. Trong đó,
phải thực hiện nghiêm túc việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động của văn
bản chính sách pháp luật cũng như về nguồn lực tài chính.
Sáu là, về cách thức xây dựng văn bản chính sách pháp luật, cần có sự
thay đổi về tư duy trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật theo hướng thu hẹp phạm vi, đối tượng điều chỉnh. Điều này không chỉ
bảo đảm tính cụ thể, chuyên sâu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc sửa
đổi, bổ sung nhằm đáp ứng sự thay đổi của các quan hệ xã hội.