Professional Documents
Culture Documents
NHÓM :
TRƯƠNG NGUYỄN GIA NGHI
NGUYỄN NGỌC VÂN ANH
TRẦN HUY THẮNG
NGUYỄN HOÀNG HẢI AN
I. SƠ LƯỢC TRẬN HIM LAM
II. MỞ MÀN
Trận Him Lam là trận đánh mở màn trong chiến dịch Điện Biên Phủ vào ngày 13
tháng 3 năm 1954 - cuộc đối đầu quyết định giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và
Quân đội viễn chinh Pháp trong chiến tranh Đông Dương. Mục tiêu của Quân đội
Nhân dân Việt Nam trong trận này là xóa sổ trung tâm đề kháng Béatrice trong
Phân khu Bắc của cứ điểm Điện Biên Phủ, mà phía Việt Nam gọi là đồi Him Lam.
Tiểu đoàn 3/13è D.B.L.E gồm bốn đại đội. Sở Chỉ huy Tiểu đoàn đóng ở cứ điểm
tây-bắc (cứ điểm Béatrice 1). Cứ điểm 1 là điểm tựa chủ yếu cho Tiểu đoàn, đóng
ở đây gồm Sở Chỉ huy và hai đại đội 10, 12. Cứ điểm phía bắc (cứ điểm Béatrice 2)
do Đại đội 9 đóng giữ. Cứ điểm phía đông-bắc (cứ điểm Béatrice 3) do Đại đội 11
đóng giữ, chỉ huy bởi Trung úy Bedeaux và sau thay thế bởi Trung úy Turpin.
Nếu Béatrice bị tiến công thì tất cả hỏa lực của tập đoàn cứ điểm, bao gồm toàn
bộ máy bay, 50 khẩu pháo, cối ở Mường Thanh, Hồng Cúm cùng các cứ điểm kế
cận đều tập trung chi viện. Lực lượng phản kích của De Castries ở cách đó 2,5 km
sẵn sàng ứng cứu. Đường từ Mường Thanh ra được Pháp mở rộng cho xe cơ giới
có thể cơ động khi bị tấn công. Khi cần có thể huy động cả máy bay từ Hà Nội lên
ứng cứu. Tất cả những hướng có thể bị uy hiếp hoặc quân đội Việt Nam có thể bố
trí quân số đều nằm trong tọa độ lửa. Kế hoạch bảo vệ Béatrice được diễn tập
nhiều lần.
Nhược điểm lớn nhất của Him Lam là một vị trí đột xuất, nằm cách phân khu
trung tâm 2,5 km. Khoảng cách này cho phép phía Việt Nam tập trung sức mạnh
cần thiết, cô lập cứ điểm trong một thời gian nhất định để tiêu diệt. Nếu trận
đánh kết thúc trong đêm, khả năng tăng viện của quân Pháp có thể loại trừ.
Hỏa lực pháo của Việt Nam không mạnh hơn Pháp, nhưng nếu tập trung vào một
số mục tiêu nhất định, có thể mang lại sự bất ngờ. Trừ pháo cao xạ, tất cả pháo
nặng đều được bố trí phân tán trong những căn hầm kiên cố, trên thế cao. Pháo
Quân đội Nhân dân Việt Nam nằm trên sườn núi đối diện với Mường Thanh, được
ngụy trang kín đáo, lại có những trận địa giả đánh lạc hướng, nên pháo binh Pháp
rất khó phản pháo hoặc dùng máy bay oanh tạc hiệu quả. Các khẩu pháo tuy bố
trí phân tán, nhưng khi tác chiến vẫn bắn tập trung được vào những mục tiêu chỉ
định.
Với cách đánh đã lựa chọn, Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể tập trung sức
mạnh vào những vị trí quyết định trong những thời điểm quyết định, cũng là điều
Đờ Cát không thể làm được ngay từ khi còn toàn bộ binh lực trong tay. Những
đường chiến hào sẽ giúp cho bộ đội tiếp cận đồn Pháp, bớt bị tiêu hao khi không
còn giữ được thế bất ngờ. Nhưng riêng ở Him Lam, Việt Nam không thể đẩy
đường hào vào giáp tất cả các cứ điểm vì hướng chủ yếu bị dòng sông Nậm Rốm
nằm cắt ngang.
Hai ngày trước khi diễn ra trận đánh, Sơn Hà, trưởng ban quân báo của Đại đoàn
312 tổ chức một trận đột kích vào trung đội Pháp cảnh giới ở Him Lam, bắt về
một viên trung úy người Đức bị thương nặng. Sau khi được ta tận tình cứu chữa,
viên trung úy đã cho ta biết về hệ thống hỏa lực ở Him Lam, đặc biệt là cứ điểm 1,
nơi Đại đội 9 của anh ta đóng quân. Viên trung úy khuyên: "Không nên đánh vào
Béatrice, vì đây là trung tâm đề kháng mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm".
Sáng 11-3, biết Việt Minh sẽ đánh vào Him Lam, Pháp điều bộ binh, xe tăng,
xe ủi đất hòng san lấp chiến hào. 2 đơn vị nhỏ của Tiểu đoàn 428 và Tiểu
đoàn 11 (Trung đoàn 141) dựa vào công sự được chuẩn bị vững chắc với
quyết tâm "một tấc không đi, một li không rời" đã đánh trả quyết liệt.
Tối 11-3, Trung đội 3 của Đại đội 670 do Đại đội phó Dần trực tiếp chỉ huy
được giao nhiệm vụ phòng ngự giữ đồi hỏa lực. Lúc đó Đinh Thế Phẩm đang
là Tiểu đội trưởng súng máy của trung đội, được trang bị 3 khẩu trung liên
với 12 chiến sĩ.
Tối 12-3, bộ đội ăn cơm ngay trên trận địa, xuống sông Nậm Rốm tắm gội
rồi khẩn trương kiểm tra sửa chữa lại công sự. Đêm 12, Đại đoàn 312 tiếp
tục đào trận địa xuất phát xung phong.
Sáng 13 tháng 3 năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến cơ quan tác
chiến sớm hơn thường lệ. Tướng Hoàng Văn Thái cho biết tình hình Pháp
trong ngày 12 chưa có gì thay đổi, và đêm qua Đại đoàn 312 đã lợi dụng
sương mù đào lại trận địa xuất phát xung phong. Mọi công việc chuẩn bị
cho trận đánh chiều 13 đã hoàn tất.
8 giờ sáng, 2 máy bay Đakôta vừa hạ cánh xuống sân bay bị trúng ngay đạn
sơn pháo của Việt Nam, bốc cháy. 10 giờ 30, súng cối 120 ly bắt đầu bắn
thử. Một chiếc Dakôta thứ ba nằm trên sân bay bị gãy đôi.
Ngay sau đó, bộ binh và 2 xe tăng từ Mường Thanh tiến ra, đánh vào trận
địa xuất phát xung phong của Việt Nam. Trung đội 3 đánh lui nhiều đợt
xung phong, giành giật với Pháp từng ụ súng, từng mét chiến hào. Đến 12
giờ trưa quân Pháp mới chiếm được một góc trận địa. Đại đội phó Dần bị
thương nặng. Trung đội trưởng Lục Văn Kiên ra lệnh đưa 2 khẩu trung liên
vòng sang trái trận địa, lợi dụng các hố bom, hố đạn đại bác, các gốc cây to
đánh vào sườn để cầm chân quân Pháp.
Tư lệnh pháo binh và Tư lệnh 312 đề nghị Bộ Chỉ huy Mặt trận cho một bộ
phận lựu pháo 105 bắn chặn quân Pháp, bảo vệ đường hào xuất phát xung
phong. Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh kết hợp với hiệu chỉnh pháo 105,
bắn 20 phát vào Him Lam. Đại đoàn 351 báo cáo: trừ 2 phát đầu không
trúng mục tiêu, 18 phát sau đều rơi vào Him Lam, phá vỡ nhiều công sự,
khói pháo đang trùm lên đồn. Thấy bị nã pháo, quân Pháp từ Mường Thanh
nhanh chóng rút lui.[2]
Sau 2 ngày đêm từ ngày 12-3 đến 14 giờ 30 phút ngày 13-3-1954, Trung đội
3 Đại đội 670, được sự chi viện hỏa lực của Tiểu đoàn 428 đã bảo vệ thành
công trận địa xuất phát xung phong và trận địa hỏa lực. Đại đội 670 sau đó
được bổ sung vũ khí, củng cố lại đội hình, tiếp tục chiến đấu tiêu diệt cụm
cứ điểm Him Lam, mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ở hướng chủ yếu, hai tiểu đoàn 428 và 11 của Trung đoàn 141, do Trung đoàn
trưởng Quang Tuyến và Chính ủy Mạc Ninh chỉ huy, phải vượt qua sông Nậm Rốm
và đoạn đường trống trải từ bờ sông đến đồn Pháp bị pháo bắn chặn, một số
chiến sĩ thương vong. Đại đội trợ chiến của Tiểu đoàn 428 bị pháo trùm lên đội
hình. Đại đội trưởng, Đại đội phó đều hy sinh, một khẩu ĐKZ bị hỏng. Thế nhưng,
toàn đại đội vẫn kiên quyết tiến vào chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn 428 có mặt tại
vị trí xuất phát xung phong cứ điểm số 2 đúng thời gian.
17 giờ 05 phút: Đại tướng Võ Nguyên Giáp hạ lệnh trận mở màn chiến dịch lịch sử
bắt đầu. Toàn bộ lực lượng pháo binh của Việt Nam, 40 khẩu pháo cỡ từ 75 mm
đến cối 120 mm, đồng loạt nhả đạn.
Hạ sĩ Kubiak sống sót trong trận thua ở Him Lam đã kể lại về trận pháo hỏa mở
màn chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954 như sau: "Vào lúc đó, dập một cái, ngày tận
thế đã đến... Béatrice bay đi, tan thành bụi. Quanh tôi đất đá tung lên, những
người lính Lê dương gục xuống, bị thương và chết nằm la liệt. Tất cả đều kinh
ngạc và tự hỏi không biết Việt Minh lấy ở đâu ra nhiều pháo đến thế, có thể bắn
mạnh đến thế. Đạn đại bác trút xuống không ngừng như một trận mưa đá bất
thần buổi chiều thu. Lô cốt, đường hào nối tiếp nhau bị đè bẹp, chôn vùi người và
vũ khí".
Thiếu tá, Bác sĩ Grô-vanh, nguyên Giám đốc Bệnh viện Phẫu thuật dã chiến tại
Điện Biên Phủ, cho biết: "Pháo Việt Minh bắn cấp tập với nhịp độ có thể so sánh
với liên quân Mỹ, Anh bắn phá tuyến phòng thủ của phát xít Đức trong cuộc đổ bộ
lên bờ biển Normandie của Pháp năm 1944".[3] Ê-ru-an Béc-gô, nguyên Đại đội
trưởng Đại đội Súng cối nặng tại Điện Biên Phủ nói: "Đây là một trận pháo bắn
chuẩn bị rất dày đặc, rất khiếp sợ. Từ nhiều tuần, các đài quan sát của Việt Minh
đã nghiên cứu kỹ các mục tiêu nhắm bắn và cũng đã bắn thử để chỉnh lưới lửa
nên lúc này bắn rất trúng. Chỉ trong chốc lát, toàn bộ các vị trí của Pháp ở Điện
Biên Phủ như tan hoang dưới đạn pháo, không một vật gì, không một người nào
được lo.
Trong khi quân Pháp tập hợp lại để chuẩn bị một cuộc tiến công thì một sĩ quan lê
dương cuốn băng đầy người, từ phía đối phương tập tễnh đi về phía chúng. Đó là
Trung úy Turpin của Đại đội 11, cầm trong tay lá thư của Bộ Chỉ huy Đại đoàn 312
cho phép quân Pháp ra thu lượm xác chết và binh lính bị thương tại Him Lam từ 8
giờ đến 12 giờ trưa. Đờ Cát báo cáo với Hà Nội. Cônhi điện hỏi ý kiến của Tổng
hành dinh ở Sài Gòn, rồi trả lời chấp thuận.
9 giờ, một chiếc xe jeep cắm cờ trắng có dấu chữ thập đỏ cùng với một xe vận tải
và một xe cứu thương từ Mường Thanh chạy ra Him Lam. Viên Đại úy Bác sĩ Le
Damany xuống xe. Cùng đi với viên đại úy có hai cha tuyên úy và 12 lính lê dương,
trong đó có viên Hạ sĩ Kubiak. Pháo đài thép Him Lam chỉ còn là một đống đổ nát,
lô cốt, ụ súng, đường hào đều bị phá vỡ, sặc mùi thuốc súng. 750 người của Tiểu
đoàn 3 Bán Lữ đoàn Lê dương 13 chỉ còn là hàng trăm xác chết nằm la liệt khắp
nơi. Họ thu lượm được 14 thương binh.
Cuộc phản kích giành lại Him Lam sau đó không diễn ra còn có một lý do khác. Đờ
Cát cho rằng không nên dùng lực lượng phản kích ít ỏi để giành lại một vị trí đã
mất, mà phải dùng nó để bảo vệ những vị trí còn đang nằm trong tay quân Pháp
có thể mất tiếp trong đêm nay. Đó chính là Gabriel (đồi Độc Lập). Cônhi cũng
đồng ý.
6 chiếc máy bay ném bom - khu trục Bearcat bị trúng đạn pháo nằm bất động trên
sân bay từ chiều hôm trước. l4 giờ ngày 14 tháng 3, bất thần có ba chiếc Bearcat
nối đuôi nhau rời khỏi đường băng. Nhìn lại trên sân vẫn còn đủ sáu chiếc. Thợ
máy Pháp đã cố tìm mọi cách làm cho những chiếc đang nằm sửa chữa trong
xưởng có thể cất cánh. Để xổng mất ba chiếc máy bay, pháo binh Việt Nam một
lần nữa trút đạn vào những chiếc còn nằm trên sân bay. Thêm một chiếc máy bay
Morane cuối cùng bốc cháy. Lực lượng không quân tại chỗ của Điện Biên Phủ đã
hoàn toàn bị tiêu diệt.
V. Ý NGHĨA LỊCH SỬ
VỚI PHÁP
Với quân Pháp, thất bại ở Him Lam báo trước một sự thất bại lớn hơn đang đến.
Toàn bộ tiểu đoàn Pháp trấn giữ Him Lam gồm 750 lính hầu như bị xóa sổ chỉ sau
3 giờ đồng hồ. Thêm vào đó, Chỉ huy Pháo binh Pháp là Piroth kinh ngạc nhận
thấy pháo binh Pháp hoàn toàn không có khả năng dập tắt pháo binh Việt Nam
như ông ta từng tuyên bố một cách chắc chắn. Kết quả này cùng với thất bại kế
tiếp ở đồi Độc Lập khiến Piroth suy sụp, hổ thẹn. Ông ta nhận thấy Điện Biên Phủ
sẽ thất thủ, và sau đó đã tự sát.