You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


____________

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Tên đề tài
Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong
cuộc sống và học tập của sinh viên. Vận dụng vào
ngành nghề được đào tạo

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN


Trương Phi Long Lê Tất Sĩ Minh
Mã sinh viên: 2150101432
Lớp học phần: 000011010

Năm 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỀN TRÚC TP. HCM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

Họ và tên sinh viên : Lê Tất Sĩ Minh


Mã số sinh viên : 21510101432
Mã lớp học phần : 000011010

ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN


Ghi bằng số Ghi bằng chữ Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 25 tháng 2 năm 2022


Sinh viên nộp bài

Lê Tất Sĩ Minh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRI THỨC, TÌNH CẢM,
NIỀM TIN, Ý CHÍ...........................................................................................................2
1.1. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí. .........2

1.1.1. Khái niệm về tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí ............................................2

1.1.2. Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí .................................3

1.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với cá nhân, xã hội .................5

1.2.1. Vai trò của tri thức đối với cá nhân, xã hội ...................................................5

1.2.2. Vai trò của tình cảm đối với cá nhân, xã hội ................................................6

1.2.3. Vai trò của niềm tin, ý chí đối với cá nhân, xã hội........................................6

CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC, TÌNH CẢM, NIỀM TIN, Ý CHÍ ĐỐI VỚI
CUỘC SỐNG, HỌC TẬP, NGÀNH NGHỀ CỦA SINH VIÊN ....................................8
2.1. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với cuộc sống và học tập của
sinh viên .......................................................................................................................8

2.1.1. Vai trò của tri thức trong cuộc sống và học tập của sinh viên ......................8

2.1.2. Vai trò của tình cảm trong cuộc sống và học tập của sinh viên ...................8

2.1.3. Vai trò của niềm tin, ý chí trong cuộc sống và học tập của sinh viên ...............9

2.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với ngành nghề được đào tạo .9

2.2.1 Thực trạng của ngành nghề kiến trúc ở Việt Nam hiện nay ...........................9

2.2.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí của sinh viên ngành nghề kiến
trúc .........................................................................................................................10

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRI THỨC, TÌNH CẢM, NIỀM
TIN, Ý CHÍ CHO SINH VIÊN KIẾN TRÚC ............................................................... 13
3.1. Phương hướng phát triển yếu tố tri thức ở sinh viên kiến trúc ........................... 13

3.2. Phương hướng phát triển yếu tô tình cảm ở sinh viên kiến trúc ........................14

3.3. Phương hướng phát triển yếu tố niềm tin ở sinh viên kiến trúc .........................14

3.4. Phương hướng phát triển ý tố ý chí ở sinh viên kiến trúc .................................15

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................................17


TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 18

ii
PHẦN MỞ ĐẦU

Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Đã từng có nhiều ngành khoa học, nhiều
cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Mỗi cách tiếp cận phân tích kết cấu
của ý thức đều góp phần làm sáng tỏ các yếu tố cấu thành ý thức của con người, đem
lại những giá trị quan trọng trong việc phát huy vai trò của ý thức trong hoạt động của
con người và xã bội. Tuy nhiên, dù tiếp cận bằng phương pháp nào thì cũng đều cho
thấy, có 3 yếu tố quan trọng hợp thành đời sống ý thức của con người, đó là: tri thức,
tình cảm và ý chí. Các yếu tố đó hình thành, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ
ràng ruộc, chi phối, tác động lẫn nhau tạo nên tính chất phong phú trong sự biểu hiện
của chúng: trong mỗi tình cảm của con người có thể có nhân tố nguồn gốc và sự chi
phối của nhân tố tri thức và ý chí; ngược lại, trong mỗi ý chí lại có thể bao hàm trong
đó sự hiểu biết và tình cảm sâu sắc của con người,... Bên cạnh đó, niềm tin cũng là một
yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội của con người, là động lực để thúc đẩy tri
thức, tình cảm và ý chí phát triển lâu dài và mạnh mẽ.
Bốn yếu tố trên tác động qua lại với nhau và tác động đó đối với đời sống xã
hội là vô cùng to lớn. Chúng không chỉ là kim chỉ nam cho hoạt động của thực tiễn mà
còn là động lực của thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, sự phát triển
của đời sống xã hội phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin và ý
chí. Hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh viên cũng là một trong những thành
phần của đời sống xã hội và sự thành, bại của nó cũng góp phần vào công cuộc phát
triển đời sống xã hội.
Kiến trúc là ngành học đặc thù nằm giữa hai lĩnh vực nghệ thuật và kỹ thuật, tổ
chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Là một ngành
nghề kết hợp giữa tư duy logic và óc thẩm mỹ, sáng tạo, sự có mặt của tri thức và tình
cảm đối với những hình khối, kết cấu kiến trúc,… và bản thân ngành nghề nói chung
là vô cùng cần thiết để một sinh viên có thể theo đuổi con đường đã chọn. Bên cạnh
đó, để có thể hiện thực hóa ý tưởng của bản thân, không thể không kể đến sự có mặt
của niềm tin và ý chí để vượt qua những khó khăn, áp lực đặc thù của ngành nghề kiến
trúc. Do đó, ngay từ khi còn là sinh viên đại học, chúng ta phải biết rèn luyện, trau dồi
và vận dụng tốt bốn khía cạnh tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí vào cuộc sống và học
tập của mình, góp phần hoàn thiện bản thân và rộng hơn nữa là đặt tiền đề cho sự phát
triển của ngành nghề và xã hội nói chung.

1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRI THỨC,
TÌNH CẢM, NIỀM TIN, Ý CHÍ

1.1. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí.

1.1.1. Khái niệm về tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí
Tri thức là tất cả những dữ liệu, thông tin, kỹ năng,... có được qua trải nghiệm
thực tế hoặc học tập. Tri thức có thể chỉ về sự hiểu biết về một đối tượng hay sự vật về
lý thuyết và thực hành. Có 2 dạng tồn tại của tri thức là tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri
thức hiện là những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình ảnh,... được truyền
đạt dễ dàng qua hình thức giáo dục. Tri thức ẩn là những tri thức được thu lại nhờ sự
trải nghiệm thực tế rất khó truyền đạt, chuyển giao mà phải tự trải nghiệm và tập
luyện.
Người tri thức có thể hiểu là người lao động trí óc, là người có học thức, am
hiểu nhiều kiến thức và cũng có thể là người khám phá và truyền bá tri thức ở các
chuyên môn nhất định, sự tiếp nối đó là trong quá trình rèn luyện của con người, bạn
phải là người tích cực tham gia phản biện xã hội, đưa ra ý kiến quan điểm cá nhân. Tri
thức có thể được xem là lương tâm của xã hội. Một xã hội giàu đẹp văn minh đòi hỏi
người có tri thức cao, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tri thức càng ngày có sự tiến
bộ cao, trau dồi để trở thành con người hiện đại, ai có tri thức nhiều người đó có sức
mạnh, quyền lợi cao.
Tình cảm là thái độ cảm xúc mang tính ổn định của con người đối với hiện thực
khách quan, nó phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên quan đến nhu cầu và động
cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự phát triển xúc cảm trong điều kiện xã
hội. Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự
vật, hiện tượng của hiện thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên quan với nhu
cầu và động cơ của con người. Có thể nói tình cảm là một dạng phản ánh tâm lí mới –
phản ánh cảm xúc. Sự phản ánh cảm xúc, ngoài những đặc điểm giống với sự phản
ánh nhận thức – đều là sự phản ánh hiện thực khách quan, đều mang tính chủ thể và có
bản chất xã hội – lịch sử, lại mang những đặc điểm khác căn bản với sự phản ánh nhận
thức.
Niềm tin là cách bạn tiếp nhận và tin tưởng vào một điều gì đó. Điều đó thể là
đúng hoặc sai, xấu hoặc tốt. Tuy nhiên, bạn luôn tin rằng chắc chắn điều bạn tin sẽ xảy
ra theo lối nghĩ của bạn. Niềm tin thường được chia ra làm 2 loại: niềm tin tích cực và
niềm tin tiêu cực. Ngoài ra, hiện nay chúng ta còn biết đến một khái niệm khác của
niềm tin nữa gọi là niềm tin giới hạn.

2
Niềm tin tích cực được định nghĩa là niềm tin mang đến loạt cảm xúc đặc biệt.
Nó thúc đẩy bạn hoàn thành các mục tiêu, đồng thời tạo động lực để bạn thực hiện các
mong muốn và dự định của mình. Giúp bạn định hướng về các vấn đề sau đó đưa ra
quyết định và hành động đúng đắn. Niềm tin tiêu cực thì lại trái ngược với niềm tin
tích cực, nó sẽ xuất hiện cùng những suy nghĩ tiêu cực trong bạn. Việc bạn cảm nhận
và đánh giá sự việc theo hướng tiêu cực cũng là thứ niềm tin sẽ làm bạn rơi vào ngõ
cụt. Còn niềm tin giới hạn là khái niệm xuất hiện trong tâm lý học hiện đại. Nó ám chỉ
những quan niệm, suy nghĩ, định kiến hoặc thiên kiến của bạn đối với bất cứ việc gì
đang xảy ra, làm xuất hiện những điểm chuẩn về các việc bạn nên làm và không nên
làm hoặc không được phép làm. Tất nhiên suy nghĩ sẽ luôn ảnh hưởng đến hành động.
Loại niềm tin này khiến hành động, hướng đi mang tính nhất quán. Niềm tin giới hạn
buộc bạn phải tuân thủ và thực hiện nó một cách nghiêm ngặt. Đồng thời hành động sẽ
được xuất phát từ suy nghĩ và được thực hiện cùng một cá nhân, không được thực hiện
bởi người khác.
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành
động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn bên ngoài và bên
trong. Ý chí còn là hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người, là
năng lực tâm lí cho phép con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để thực hiện đến
cùng mục đích đã xác định. Sở dĩ như vậy là vì ý chí kết hợp được trong mình cả mặt
năng động của trí tuệ lẫn mặt năng động của tình cảm đạo đức, đó là mặt hoạt động
của trí tuệ và tình cảm đạo đức.
Năng lực này không phải tự nhiên ai cũng có như nhau – nói cách khác, ý chí là
một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí của nhân cách. Chúng ta cũng
có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường nói người này hoặc người kia
ý chí cao hoặc kém.

1.1.2. Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí
Tri thức, tình cảm và ý chí là “tam giác vàng” của đời sống tâm lý con
người. Suy nghĩ, phán quyết và hành động của con người đều lần lượt bị chi phối
bởi ba yếu tố cơ bản đó. Đây là những yếu tố có liên hệ mật thiết và có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó tri thức là tiền đề của hoạt động tình cảm và
ý chí, ngược lại tình cảm và ý chí gắn liền với hoạt động tiếp thu tri thức; chúng kết
hợp với nhau và dưới tác động của ý thức làm cho con người có những đặc
điểm tâm lý riêng biệt, ổn định.
Trong kết cấu ý thức, nhân tố tri thức là nhân tố chi phối mạnh mẽ các nhân tố
tình cảm, niềm tin và ý chí của con người, của xã hội; là nhân tố thể hiện tiêu biểu và
tập trung các đặc trưng bản chất của ý thức; là nhân tố đặc biệt quan trọng trong sự

3
phân biệt giữa phản ánh sáng tạo của ý thức với các hình thức phản ánh khác của vật
chất trong giới tự nhiên; là nhân tố cơ bản làm tiền đề cho những sáng tạo của hoạt
động thực tiễn. Vai trò quan trọng của nó ngày càng thể hiện trong thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội trong thời đại phát triển công nghiệp và thị trường của các nước trên
thế giới.
Bên cạnh tri thức, tình cảm luôn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và chi phối
nhận thức, kích thích sự tìm tòi và sáng tạo của con người. Ví dụ: Nhà khoa học
Bogdanov rất yêu thích nghiên cứu khoa học và ông say sưa với công trình nghiên cứu
của mình, đó là công trình nghiên cứu về truyền máu với niềm tin có thể kéo dài tuổi
thọ của con người. Bogdanov đã dùng chính con người mình để thử nghiệm. Sau 11
lần truyền máu như thế, cùng với sự tìm tòi, sáng tạo, ông đã bày tỏ sự hài lòng khi
cho là đã cải thiện đáng kể về thị lực, chặn đứng việc hói đầu cùng nhiều triệu chứng
khác trong cơ thể. Không chỉ riêng Bogdanov mà nhiều người quen biết ông cũng
nhận ra điều đó. Hào hứng với những kết quả đạt được, năm 1925 Bogdanov thành lập
Viện nghiên cứu về máu. Chính bởi giới khoa học nhận ra tầm quan trọng và tính đúng
đắn của những công trình nghiên cứu về máu của Bogdanov, vậy nên, cho đến nay,
viện này vẫn còn tồn tại và được mang tên ông. Như vậy, chính tình yêu khoa học,
niềm tin vào sự trường sinh của con người đã trở thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy
nhận thức, sự sáng tạo, tìm tòi của Nhà khoa học Bogdanov.
Tình cảm và ý chí có mối quan hệ mật thiết với nhau, có thể xem ý chí là mặt
hoạt động của tình cảm. Trong đời sống hàng ngày, hoạt động của con người, tình cảm
thực hiện vai trò kích thích hành động. Khi tình cảm cùng chiều với ý chí thì nó làm
tăng sức mạnh ý chí. Đồng thời những rung động có thể là phương tiện kìm hãm hành
động. Nhưng bản thân tình cảm cũng chịu sự kiểm soát của ý chí, vì thực tế có khi con
người ta hành động trái ngược với tình cảm; Chẳng hạn con người ta đấu tranh với
những mất mát, với sự tức giận, với niềm vui, nỗi khổ,… làm được điều đó là nhờ ý
chí.
Niềm tin và ý chí lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đồng thời với tri thức,
tình cảm. Trên con đường nhận thức và tìm hiểu thế giới xung quanh gặp không ít
những khó khăn, thử thách, thì ý chí, niềm tin là những người bạn tuyệt vời giúp chúng
ta chinh phục, vượt qua những khó khăn đó để đi tới đỉnh cao của sự thành công trong
các lĩnh vực của đời sống. Ngay như sinh viên chúng ta, một khi bạn có ý chí vươn lên
trong học tập và niềm tin rằng bạn sẽ thực hiện được mục tiêu thì bạn sẽ có được thành
công và ngược lại, khi bạn không đủ ý chí và niềm tin để vượt qua khó khăn trong sự
nghiệp học hành của mình thì chắc chắn bạn sẽ là một người thất bại.

4
1.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với cá nhân, xã hội
1.2.1. Vai trò của tri thức đối với cá nhân, xã hội
Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì vai trò của trí thức đều vô cùng quan
trọng. Tri thức là một nhân tố vô cùng thiết yếu tạo nên sự giàu mạnh của một quốc
gia, dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức
thực sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người.
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức
thương gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể tách trí thức
ra khỏi xã hội để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về
tri thức, đó là việc làm không tốt, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách
những con cá ra khỏi dòng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò của
tri thức trong xã hội là rất cần thiết và quan trọng.
Đối với xã hội, văn hoá - giáo dục, tri thức cũng góp tiếng nói của mình vào sự
ổn định phát triển. Một đất nước có người dân đạt trình độ cao về trí thức thì tỉ lệ thất
nghiệp sẽ ít đi, mức sống của người dân được cải thiện hơn, con người được hạnh phúc
hơn. Xã hội ổn định, không bị những tệ nạn ma túy hay vấn nạn cướp bóc, trộm cướp
cũng được hạn chế hơn, nhờ vậy mà đất nước trở nên văn minh và giàu đẹp hơn. Tri
thức càng được coi trọng thì nền giáo dục càng được chú trọng lên hàng đầu, góp phần
xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn và cung cấp được cho đất nước
những nhân tài đưa đất nước ngày càng lớn mạnh hơn, góp phần nâng cao vị thế trên
thế giới.
Đối với mỗi người, tri thức lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Không có ai
không học mà lại thành tài cả. Tất cả mỗi người muốn có cuộc sống đủ đầy, muốn
nâng cao chất lượng đời sống và muốn sống có ích đều phải học tập. Bởi trí thức mang
đến cho ta những hiểu biết thuộc bản chất của các hiện tượng đời sống, giúp ta tìm
hiểu sâu về nguồn cội, về quá trình tiến hoá và cả những phát minh vĩ đại trên thế giới.
Tri thức đưa ta đến những vùng trời mới của sư hiểu biết, thôi thúc ta khám phá , sáng
tạo ra những cái mới cái hay. Tri thức giúp bản thân ngày càng hoàn thiện hơn, biết
lựa chọn những tinh hoa để tiếp nhận, rời xa những xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen tầm
thường trong cuộc sống, biết "gạn đục khơi trong", biết yêu thương nhiều hơn. Tri thức
còn là bản lề để mỗi người cố gắng cho tương lai, là nền móng vững chắc để phát triển
trí tuệ và kỹ năng thực hành, là ngọn đèn soi sáng trong đêm tối, là hành trang dẫn lối
ta vào đời.

5
1.2.2. Vai trò của tình cảm đối với cá nhân, xã hội
Tình cảm là động lực mạnh mẽ của con người trong mọi lĩnh vực và phát triển
kinh tế - xã hội cũng không ngoại lệ. Tình cảm thôi thúc con người hoạt động tích cực,
sáng tạo, giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống để đạt
được thành công. Mà trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội thì lại có vô vàn những
khó khăn, thử thách, luôn đòi hỏi con người phải nỗ lực sáng tạo. Tình cảm còn mang
lại nhiều cơ hội cho kinh tế phát triển.Ví dụ: Nhiều năm về trước khi Việt Nam chưa
thiết lập các mối quan hệ tình cảm hữu nghị giữa Việt Nam với các nước phát triển
trên thế giới thì 7 nền kinh tế Việt Nam phát triển rất chậm nhất là trong thời kỳ chiến
tranh. Nhưng sau khi thiết lập các mối quan hệ tình cảm hữu nghị với nhiều nước trên
Thế giới, Việt Nam được các nước bạn viện trợ, đầu tư nguồn vốn, nền kinh tế của
Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập toàn cầu và đến nay Việt Nam đang là đất
nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất ASEAN. Như vậy có thể thấy tình cảm
có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với văn hóa - giáo dục, tình cảm giữ một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng:
vừa là điều kiện,vừa là phương tiện giáo dục, đồng thời cũng là nội dung và mục đích
giáo dục. Đó là mối quan hệ hai chiều giữa người giảng dạy với học trò, công việc
trồng người hàng ngàn thế kỉ. Đó là sự quan tâm, sẻ chia về tất cả mọi điều như kiến
thức, tình cảm, quan tâm tới đời sống tinh thần và vật chất của nhau. Để thực hiện tốt
chức năng giáo dục, Bộ Giáo dục và đào tạo cần nắm bắt được tâm lí tình cảm của các
bậc phụ huynh và kể cả học sinh. Cần có những chính sách ưu tiên, khuyến khích
người học, có những trợ cấp xã hội cần thiết. Chính vì vậy mà tình cảm vừa là điều
kiện, vừa là phương tiện, nội dung là mục đích giáo dục.

1.2.3. Vai trò của niềm tin, ý chí đối với cá nhân, xã hội
Cũng như tình cảm, niềm tin và ý chí cũng đóng góp một vai trò vô cùng quan
trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội . Những yếu tố này giúp ta chống lại những
đam mê, dục vọng trên con đường phát triển sự nghiệp, đất nước. Không những vậy,
niềm tin và ý chí cũng là một sức mạnh phi thường giúp con người vượt qua được
những khó khăn mà tưởng chừng không thể vượt qua. Ví dụ: Kinh doanh là một công
việc không hề dễ dàng, ngành nghề này có rất nhiều rủi ro và khó khăn. Chưa từng có
một người chủ nào mà chưa từng bị thua lỗ trong kinh doanh. Nhưng nếu người đó có
ý chí thì sau khi thua lỗ họ vẫn có thể vượt qua để có thể thành công. Ngược lại nếu
người đó không có ý chí vươn lên thì rất dễ sa ngã vào những con đường sai trái trong
xã hội. Như vậy có thể thấy, trên con đường phát triển kinh tế - xã hội không thể thiếu
ý chí và cả niềm tin vào điều mình đang làm, đang suy nghĩ.

6
Giống như các lĩnh vực khác, với lĩnh vực văn hóa - giáo dục, niềm tin và ý chí
cũng có vai trò rất quan trọng. Văn hóa - giáo dục là một trong những lĩnh vực vô cùng
quan trọng đối với con người, chính bởi vậy mà lĩnh vực này cũng không ít áp lực và
khó khăn. Hàng năm đã có biết bao nhiêu người vì không có ý chí có thể chịu được áp
lực, vất vả mà từ bỏ công việc trong lĩnh vực này. Nhưng bên cạnh đó cũng có rất
nhiều người có ý chí và niềm tin vào bản thân, luôn kiên trì tìm hiểu, sáng tạo các
phương pháp mới để ngày càng nâng cao, phát triển văn hóa - giáo dục của Việt Nam.

7
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC, TÌNH CẢM, NIỀM TIN, Ý CHÍ
ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG, HỌC TẬP, NGÀNH NGHỀ CỦA SINH VIÊN

2.1. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với cuộc sống và học
tập của sinh viên
2.1.1. Vai trò của tri thức trong cuộc sống và học tập của sinh viên

Kiến thức nhân loại là vô cùng rộng lớn và không ngừng lớn mạnh, học tập kiến
thức là cả một chặng đường dài đầy khó khăn thử thách mà đích đến cuối cùng bạn
phải lĩnh hội hết được những kiến thức đó, đặc biệt đối với học sinh sinh viên – những
thế hệ tương lai của đất nước, tri thức trong học tập là cần thiết.
Như đã tìm hiểu, tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo, là những khả năng, kỹ năng
có thể ứng dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy mà tri thức có
vai trò như là sản phẩm của hoạt động học tập và nghiên cứu của sinh viên. Bản chất
của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viênchính là quá trình sinh viên tích lũy
kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội và các kỹ năng để sau này có thể áp dụng
vào những công việc thực tế giúp phát triển kinh tế - xã hội. Nếu không có tri thức thì
quá trình nghiên cứu, học tập của sinh viên sẽ không có nội dung, không có mục đích
vì có thể nói dễ hiểu rằng quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên là quá trình
tích lũy tri thức.
Tri thức có ở mọi nơi tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên nghiên cứu và học
tập. Sinh viên có thể nghiên cứu và học tập từ sách vở nơi tri thức được đúc kết và ghi
chép lại. Sinh viên có thể nghiên cứu hoặc học tập từ sự truyền đạt của giảng viên -
một trong những phương pháp lưu truyền tri thức. Thậm chí sinh viên có thể nghiên
cứu, học tập từ đời sống xã hội thực tế vì đó chính là nguồn tri thức vô tận và rất thiết
thực.
Tri thức không chỉ có vai trò là sản phẩm, là nguyên liệu trong quá trình nghiên
cứu và học tập của sinh viên mà nó còn giúp sinh viên nghiên cứu, học tập đúng đắn,
có định hướng. Có tri thức, sinh viên sẽ biết nghiên cứu và học tập những nền tri thức
tiên tiến hơn của nhân loại, biết nghiên cứu và học tập như thế nào để có thể tích lũy
được nhiều tri thức nhất, để không bị lãng phí quá trình nghiên cứu của mình khi còn
là sinh viên. Tri thức giúp sinh viên không tiếp thu những quan điểm sai lệch với
chuẩn mực xã hội trong quá trình nghiên cứu và học tập bên ngoài xã hội. Như vậy có
thể thấy, trong nghiên cứu và học tập của sinh viên không thể thiếu tri thức.

2.1.2. Vai trò của tình cảm trong cuộc sống và học tập của sinh viên
Sau khi tìm hiểu chung đã thấy tình cảm luôn là một trong những thành phần vô
cùng quan trọng với mọi lĩnh vực và tất nhiên trong nghiên cứu và học tập của sinh
8
viên cũng vậy, cũng không thể thiếu tình cảm. Tình cảm tạo động lực mạnh mẽ giúp
sinh viên nghiên cứu, học tập hiệu quả hơn. Khi sinh viên được nghiên cứu, học tập
chuyên ngành, lĩnh vực mà họ yêu thích thì không cần tác động tự họ sẽ có động lực
rất mạnh mẽ để nghiên cứu, học tập không ngừng nghỉ và rất hăng say. Ngược lại nếu
không có tình cảm với lĩnh vực mà mình nghiên cứu học tập thì có cố gắng nỗ lực đến
mấy cũng không thấy hiệu quả và rất dễ gây nản.
Bên cạnh đó tình cảm giữa người với người còn tạo thuận lợi cho sinh viên
nghiên cứu và học tập. Nếu một sinh viên nào đó rất ngại thiết lập các mối quan hệ xã
hội như bạn bè, thầy cô,… thì đó như là một hạn chế về nguồn để nghiên cứu và học
tập vì tri thức không chỉ có trong sách vở, không chỉ được ghi chép mà nó còn được
lưu truyền miệng. Ngược lại nếu sinh viên đó rất tình cảm, rất thích tạo mối quan hệ
với mọi người thì sinh viên đó sẽ có rất nhiều nguồn tri thức để nghiên cứu và học tập.
2.1.3. Vai trò của niềm tin, ý chí trong cuộc sống và học tập của sinh viên
Giống như tri thức và tình cảm, niềm tin, ý chí cũng đóng vai trò vô cùng cần
thiết trong nghiên cứu và học tập của sinh. Nếu tình cảm tạo động lực thì niềm tin, ý
chí chính là sức mạnh giúp sinh viên vượt qua mọi trở ngại trong nghiên cứu và học
tập. Niềm tin thể hiện qua sự tin tưởng vào khả năng của bản thân để học thêm được
nhiều thứ mới mẻ và tiến bộ nhanh trong học tập. Ý chí trong học tập là khả năng tự
xác định mục đích trong học tập, xây dựng kế hoạch, phương thức học tập và kiên trì
vượt qua khó khăn, trở ngại, thực hiện thành công kế hoạch ấy để đạt đến mục đích
cuối cùng. Phương thức học tập chính là sự chiếm lĩnh tri thức một cách có tổ chức.
Suy cho cùng, mục đích cuối cùng của học tập là sự hiểu biết thế giới.
Trong thời đại nền công nghệ phát triển ồ ạt và xâm nhập sâu rộng vào trong
đời sống dễ khiến học sinh buông bỏ nhiệm vụ học tập. Tâm lí đề cao đời sống vật
chất, nền văn hóa truyền thống có nhiều biến đổi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
niềm tin và ý chí học tập của học sinh. Nếu không rèn luyện ý chí, nuôi dưỡng nềm
tin, không có mục đích rõ ràng trong học tập, không kiên định với kế hoạch đã đặt ra,
học sinh rất dễ bị cám dỗ bởi sự tiện nghi của đời sống và tụt lại phía sau.
2.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với ngành nghề được
đào tạo
2.2.1 Thực trạng của ngành nghề kiến trúc ở Việt Nam hiện nay
Ngành kiến trúc là một trong những ngành nghề liên quan tới khối mỹ thuật và
cả kỹ thuật. Kiến trúc chính là việc tổ chức, thiết kế các công trình kiến trúc nghệ thuật
độc đáo. Nhiệm vụ chính của các kiến trúc sư đó chính là thiết kế mặt bằng, không
gian, hình thức, cấu trúc của các công trình; cung cấp các giải pháp cụ thể về những

9
lĩnh vực liên quan đến kiến trúc để đáp ứng nhu cầu vui chơi, làm việc, ăn ở,… của
người dân.
Trong bối cảnh hội nhập như hiện nay tại nước ta thấy được thì kiến trúc lại
càng là lĩnh vực sôi động theo thời gian và ngày càng phát triển theo hướng mạnh hơn
với thành tựu đáng tự hào hơn bao giờ hết. Sự phong phú về quy mô đa dạng mở rộng
về các loại hình công trình từ nhà ở nội thất đến các công trình dịch vụ thương mại lớn
hiện nay, văn hoá, công trình công nghiệp, nhà hàng, khách sạn lớn… Nhiều công
trình với quy mô và tiếng tăm lớn đã hình thành bởi bàn tay của những kiến trúc sư
giỏi, có tay nghề, nhất là đã có những tổ hợp công trình đa chức năng lớn từ trước đến
nay. Sự đa dạng này đã góp phần tạo nên một phần diện mạo cảnh quan hiện đại ở
nước ta nói riêng. Tuy vậy chúng ta cũng nhận ra rằng sự đa dạng mở rộng, phong phú
về loại công trình hiện nay vẫn chưa tạo ra được các xu thế sáng tác kiến trúc ổn định
nhất, có giá trị còn mang tính thử nghiệm nhiều hơn.
Do vậy, đối với kiến trúc nhiệm vụ hàng đầu chính là đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận trong thiết kế, tạo được sức mạnh cao cho đội ngũ cán bộ làm nghề thiết
kế. Để thực hiện được điều này, cần có một sự tác động mang tính định hướng mạnh
mẽ đối với sinh viên, những người tiếp nối tương lai của ngành nghề kiến trúc. Cụ thể,
sinh viên cần có sự phát huy hài hòa về các mặt tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí để có
đủ năng lực cần thiết nhằm đổi mới thực trạng ngành nghề kiến trúc ở Việt Nam.

2.2.2. Vai trò của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí của sinh viên ngành
nghề kiến trúc
* Vai trò của tri thức đối với ngành kiến trúc
Ngành kiến trúc là ngành đặc thù nằm giữa hai lĩnh vực nghệ thuật và kỹ thuật
liên quan đến việc tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến
trúc. Công việc của một kiến trúc sư là thiết kế mặt bằng, không gian, hình thức, cấu
trúc của một công trình và cung cấp những giải pháp về kiến trúc ở các lĩnh vực xây
dựng khác nhau xuất phát từ nhu cầu thực tế về nơi ở, vui chơi, làm việc, đi lại,… của
con người. Do đó người kiến trúc sư cần có tri thức, hiểu biết sâu rộng về địa lý, lịch
sử, văn hóa, quản lý, xã hội luật pháp và nhu cầu của con người,… Đồng thời, trong xã
hội ngày nay, người kiến trúc sư cũng cần một sự am tường các kiến thức về kỹ thuật,
công nghệ, các xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời đại mới,… để áp
dụng vào nghề nghiệp của mình.
Bên cạnh việc xây dựng các giải pháp thiết kế thì giải quyết vấn đề luôn là một
phần trong công việc của họ. Xác định nguyên nhân và sử dụng kiến thức sẵn có để
tìm ra những phương hướng để giải quyết vấn đề đó chính là một trong những phẩm
chất cơ bản của người làm kiến trúc.

10
Hiện nay, đã có rất nhiều người cho rằng kiến trúc sư là người mà công việc
chính của họ chỉ là thiết kế các công trình phục vụ con người hàng ngày; tuy nhiên, họ
còn phải làm rất nhiều việc khác liên quan nữa mà không hề đơn giản chỉ có như vậy.
Là một công việc liên quan đến tính chất an toàn cao cho không gian sống của con
người vì thế kiến trúc sư phải là được đào tạo bài bản và có bằng cấp cụ thể. Kiến trúc
sư là người duy nhất được phép ký tên vào bản thiết kế sau khi đã hoàn thành bản thiết
kế hoàn thiện và phải chịu mọi trách nhiệm đối với các vấn đề có liên quan trực tiếp
đến bản thiết kế đó từ khi bắt đầu đến kết thúc công trình theo bản vẽ của họ. Điều này
đòi hỏi ở người kiến trúc sưmột khối lượng tri thức nhất định để giải quyết những vấn
đề khác nhau và đáp ứng tối đa các nhu cầu thẩm mỹ, thích dụng, kinh tế để tạo ra
những công trình kiến trúc đẹp và hoàn hảo nhất có thể.
* Vai trò của tình cảm đối với ngành kiến trúc
Nếu trình độ chuyên môn giỏi giúp kiến trúc sư tạo nên những công trình đẹp
kiệt xuất, thì cái tâm của người kiến trúc sẽ là nhân tố giúp họ làm nên những công
trình gắn liền với những nhu cầu của người dùng. Nói một cách dễ hiểu hơn thì để có
thể tạo ra được những sản phẩm kiến trúc kiệt xuất đáp ứng được những nhu cầu của
khách hàng, thì bên cạnh những yếu tố về tình độ chuyên môn thôi thì chưa đủ mà
người làm kiến trúc cũng cần phải đặt cả cái tâm mình vào trong từng tác phẩm kiến
trúc ấy. Sự khao khát, đam mê hình khối, háo hức tạo dựng công trình,… là những
biểu hiện tình cảm rõ ràng giúp người sinh viên kiến trúc có những khởi đầu vững
chắc để có thể theo đuổi con đường mình đã đặt ra – con đường khám phá kiến trúc.
Bên cạnh đó, có thể tình yêu không phải là tất cả những yếu tố giúp sinh viên
tạo được những công trình hoàn hảo trong tương lai thế nhưng nó lại là những yếu tố
đầu tiên mà họ phải có trước khi quyết định bản thân phải gắn bó với nghề này. Không
chỉ là nhân tố giúp họ dễ dàng vượt qua những khó khăn, áp lực trong công việc mà
bản thân yêu thích mỗi ngày cũng khiến cho cuộc sống của họ trở nên ý nghĩa và tốt
đẹp hơn.
*Vai trò niềm tin đối với ngành kiến trúc
Có thể nói niềm tin là một phẩm chất không thể thiếu của người làm nghề kiến
trúc nói riêng và những người làm công việc thiết kế sáng tạo nói chung. Họ cần phải
có niềm tin vào những điều mình đang xây dựng nên – những sản phẩm của khối óc và
con tim – và biến chúng thành một công trình thực tiễn. Một người kiến trúc sư thực
thụ luôn phải biết chấp nhận những rủi ro, phá vỡ những nguyên tắc, những khái niệm
cũ kĩ và thu hút các giác quan của con người. Muốn được vậy, việc đặt niềm tin vào
công việc của mình là vô cùng cần thiết.
Kiến trúc sư tạo ra hình thức, hình dạng, không gian trải nghiệm, và những thứ
này luôn đi liền với chức năng. Tuy nhiên, đôi khi chúng có thể được nâng cao hơn để
11
gây ấn tượng. Tôi luôn hào hứng với các dự án hóc búa giúp giải quyết những vấn đề
phức tạp, Alan Tay.
Qua câu nói này, ta dễ nhận thấy trong công việc sáng tác kiến trúc, việc đặt
niềm tin vào bản thân, vào những tác phẩm kiến trúc của mình, cùng với một ý chí của
người khám phá, luôn tìm kiếm những phương pháp mới để giải quyết những vấn đề
của thiết kế, không buông xuôi trước những khó khăn, rào cản.
* Vai trò của ý chí đối với ngành kiến trúc
Ngạn ngữ Tây Ban Nha có câu nói “Mọi công việc thành đạt đều nhờ sự kiên trì
và lòng say mê” và ngành nghề kiến trúc cũng không phải ngoại lệ. Kiến trúc từ lâu đã
là một công việc có cường độ lớn và áp lực tinh thần cao, đòi hỏi ở người kiến trúc sư
không chỉ tri thức, tình cảm và niềm tin mà còn ý chí, sự kiên định, chăm sáng tạo, khả
năng chịu đựng áp lực công việc với một tinh thần chịu khó học hỏi cao.
Để tìm được những thiết kế tối ưu nhất đã có nhiều kiến trúc sư phải mất rất
nhiều năm, tốn nhiều công sức để suy nghĩ và tìm ra một giải pháp tối ưu nhất cho
những công trình đó, nên chắc chắn sự áp lực và những khó khăn bủa vây luôn là
những yếu tố khó có thể tránh khỏi trong những chuỗi ngày như vậy, thế nhưng tuyệt
nhiên sự bỏ cuộc không bao giờ được nhắc tên. Thiết kế một công trình không hề là
một việc dễ dàng nhưng chính tố chất luôn tiếp tục tiến lên và cố gắng chính là yếu tố
giúp người làm kiến trúc đạt được kết quả tốt nhất.

12
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRI THỨC, TÌNH CẢM,
NIỀM TIN, Ý CHÍ CHO SINH VIÊN KIẾN TRÚC

3.1. Phương hướng phát triển yếu tố tri thức ở sinh viên kiến trúc
Để trau dồi được tri thức trong ngành nghề của bản thân, trước hết ta phải luôn
có tư tưởng, ý thức “hướng học” và “hiếu học”, “ăn vóc học hay”, “đi một ngày đàng
học một sàng khôn”, phải luôn thường trực sự học hỏi, học tập ở mọi nơi mọi lúc, phải
kết hợp cả “learn” (học thường xuyên và linh hoạt) và “study” (học tập, nghiên cứu bài
bản). Đặc biệt đối với nghề kiến trúc, ngoài những kiến thức được giảng dạy trên
trường học, sinh viên phải biết tự tìm kiếm những nguồn tri thức khác như từ sách vở,
các anh chị khóa trên, người đi làm,… Điều này đặc biệt quan trọng đối với việc hoàn
thiện kiến thức, kĩ năng, tạo nền tảng cho việc xác định phương thức giải quyết các
vấn đề kiến trúc khác nhau cũng như xây dựng cho bản thân những lối thiết kế riêng,
được đúc kết và trau chuốt từ tri thức có sẵn của kiến trúc thế giới.
Bên cạnh đó, Nhà trường cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên kiến trúc
có thể tiếp cận được cũng như tìm được nguồn cảm hứng đối với tri thức như khuyến
khích sinh viên đọc sách; cung cấp, giới thiệu các đầu sách, tài liệu tham khảo hay về
các công trình kiến trúc, lịch sử kiến trúc,… Bên cạnh đó, học tập cũng cần gắn liền
với thực hành để tạo điều kiện sinh viên thành thạo kiến thức ở mức độ cao thông qua
chương trình đào tạo chú trọng thực hành như kỹ năng về sử dụng phần mềm, kí họa,
diễn họa,… và tạo nhiều cơ hội để sinh viên vừa rèn luyện kĩ năng, vừa trao đổi, vừa
giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Có thể thấy phương hướng này phù hợp với khái niệm
về tri thức đã được đề cập trước đó.
Trong thời đại công nghệ phát triển ngày nay, sinh viên ngày càng có nhiều cơ
hội để tiếp cận với nguồn tri thức khổng lồ của nhân loại. Điều này đòi hỏi ở mỗi
người sự trau dồi chăm chỉ, miệt mài và đầy cảm hứng đối với tri thức nói chung và về
kiến trúc nói riêng, nếu không sẽ dễ dàng bị bỏ lại phía sau. Trong xã hội, trí tuệ, trình
độ và kiến thức của mỗi người sẽ quyết định vị thế, vai trò của cá nhân trong tổ chức,
ngoài cộng đồng mà không thể một sớm một chiều tích lũy được nếu không thông qua
tư tưởng hướng học tập hằng ngày. Không chỉ ở tinh thần, thái độ cầu tiến trong học
tập mà còn thể hiện ở tư duy học tập, tự trau dồi nghiêm túc, có nền tảng, có tính khoa
học; có mục tiêu, kế hoạch cụ thể, có phương thức hành động rõ ràng, có sự kiên trì,
bền bỉ, có nỗ lực sáng tạo đổi mới, được nâng tầm thành một triết lý nhân sinh và nghệ
thuật rèn luyện.

13
3.2. Phương hướng phát triển yếu tô tình cảm ở sinh viên kiến trúc
Gắn liền với việc trau dồi tri thức, rèn luyện kĩ năng là phải phát triển tình cảm
đối với ngành nghề được đào tạo. Tình cảm và niềm đam mê mang đến ý nghĩa lớn đối
với cuộc sống và học tập của sinh viên. Khi một người có tình cảm với ngành nghề là
họ sẽ có mục tiêu, mục đích sống, từ đó cố gắng kiên trì theo đuổi và thành công. Tình
cảm đó khiến chúng ta có động lực sống, có niềm cảm hứng thúc đẩy chúng ta đứng
lên thực hiện ước mơ, lý tưởng một cách đầy nhiệt huyết và có trách nhiệm, vượt qua
mọi khó khăn gian khổ.
Cụ thể đối với sinh viên kiến trúc, tình yêu ngành nghề sẽ giúp họ không bị
lung lay bởi những khó khăn, áp lực của đồ án, các môn học phần liên quan, v.v. Về
lâu về dài, tình yêu nghề sẽ giúp sinh viên gắn bó với nghề, đặt trọn tâm vào từng tác
phẩm kiến trúc của mình, góp phần phát triển ngành nghề nói chung, cải thiện chất
lượng cuộc sống và nâng tầm bộ mặt đô thị. Muốn được vậy, người sinh viên kiến trúc
cần phải luôn nuôi dưỡng khát khao, đam mê học tập của mình. Tinh thần học tập
cũng là một loại phẩm chất cá nhân được rèn luyện, thậm chí được coi là một trong
những năng lực cá nhân quan trọng trong một số khung năng lực được xây dựng cho
cán bộ nhân viên của nhiều tổ chức, công ty hiện nay.
Trong khi đó, Nhà trường cũng cần tổ chức những hoạt động bổ ích cho tinh
thần của sinh viên theo học ngành kiến trúc, tạo điều kiện phát huy tình cảm với ngành
nghề, hạn chế việc học theo phong trào, theo kiểu “được chăng hay chớ”. Việc tuyên
truyền những ý nghĩa tốt đẹp của ngành nghề thông qua các buổi dạy, các môn học là
rất cần thiết, vừa giúp sinh viên hiểu và yêu nghề hơn, vừa giảm phần nào không khí
học thuật máy móc, nhàm chán đối với sinh viên. Đồng thời, Nhà trường cũng có thể
tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên, khuyến khích sinh viên tự tìm hiểu,
cập nhật các xu hướng kiến trúc của thế giới mới nhằm nuôi dưỡng, thúc đẩy tình yêu
nghề, vốn là một phần không thể thiếu trong sự nghiệp tương lai của các sinh viên sau
khi ra trường.
3.3. Phương hướng phát triển yếu tố niềm tin ở sinh viên kiến trúc
Sinh viên kiến trúc cần phải biết cách xây dựng niềm tin vào chính bản thân
mình và vào chính ngành nghề mà mình lựa chọn. Họ cần phải biết học tập, tìm kiếm
thông tin một cách chủ động và khi đã tìm được ý tưởng tốt cho riêng mình, cần phải
biết phát huy ý tưởng, kết hợp với sự hướng dẫn của thầy cô, và tiếp đến là hoàn thiện
nó. Điều này đòi hỏi cần phải có một sự tin tưởng nhất định vào hướng đi của mình,
được thể hiện qua từng bài tập, từng đồ án, tuy nhiên không quên tham khảo có chọn
lọc ý kiến của người khác, bạn bè khác nhằm tạo sự trau chuốt cho lý tưởng vốn có
của bản thân. Khi hành nghề cũng vậy, cần phải xây dựng một niềm tin vững chắc, và

14
nương tựa vào đó để giúp bản thân vượt qua khó khăn, định kiến, đồng thời phải kiên
trì học hỏi, tích cực rèn luyện kĩ năng tư duy, làm việc để biến niềm tin trở nên sắc
bén, rõ ràng hơn.
Niềm tin là một yếu tố quan trọng trong học tập và làm việc tuy nhiên muốn có
một niềm tin vững vàng không thể thông qua mua bán hoặc vay mượn mà cần biết xây
dựng chúng qua từng ngày và bắt đầu từ những việc làm nhỏ nhất. Các ví dụ có thể kể
đến như học một phần mềm thiết kế mới, cố gắng đặt mục tiêu đạt điểm cao trong đồ
án, viết lách mỗi ngày,… miễn là các hoạt động này làm mình cảm thấy yêu thích và
ngày càng có niềm tin vào khả năng của bản thân. Bởi vì niềm tin có quan hệ chặt chẽ
với tri thức và tình cảm, do đó sinh viên cần biết tự tạo niềm tin thông qua việc “nạp”
thêm kiến thúc, rèn luyện kĩ năng liên quan đến ngành nghề, vừa tích lũy cho bản thân,
vừa có thể ứng dụng vào công việc, cuộc sống một cách có ý nghĩa nhất.
Giống như phương pháp xây dựng tình cảm ngành nghề cho sinh viên kiến trúc,
Nhà trường cũng có thể vận dụng linh hoạt để hình thành niềm tin cho sinh viên.
Giảng viên có thể làm những việc có thể làm như hỗ trợ các bạn khi cần thiết, nghiêm
khắc song song với ủng hộ, khích lệ tinh thần sinh viên trong quá trình học tập, thực
hiện đúng mục tiêu của giáo dục: truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp theo.
3.4. Phương hướng phát triển ý tố ý chí ở sinh viên kiến trúc
Giống với niềm tin, ý chí cũng là một phẩm chất cần được rèn luyện không
ngừng nghỉ và trong một quá trình lâu dài. Trước hết ta phải xác định mục tiêu học tập
rõ ràng cho bản thân và thực hiện mục tiêu đó một cách có kỷ luật, phải biết sắp xếp
thời gian, tránh trì hoãn để có thể hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Với từng
việc làm đó sẽ giúp sinh viên có thêm ý chí để phấn đấu vì con đường học tập của bản
thân. Sinh viên cũng cần xác định rõ định hướng ngành nghề của mình, tránh biểu hiện
chán nản với nghề mà chuyển qua học nghề khác hoặc lao vào những mong muốn nhất
thời mà bỏ đi lợi ích lâu dài của bản thân. Đồng thời, sinh viên kiến trúc cũng rất cần
có ý chí vươn lên trong học tập, vượt qua những khoảng thời gian khó khăn và không
bị nhụt chí bởi những khó khăn đó. Việc trau dồi kiến thức không chỉ loanh quanh ở
điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở giá trị con người và sự đóng góp những điều
có ích cho xã hội. Do đó, thay vì quá lo lắng, ảo não về điểm số, sinh viên cần có một
cái nhìn rộng hơn, trước hết là xây dựng bản thân tốt hơn ngày hôm qua, sau đó là xây
dựng xã hội, đất nước mới.
Một trong các phương hướng mà Nhà trường có thể làm để tăng cường ý chí
cho sinh viên như giới thiệu thêm về những tấm gương ý chí liên quan đến ngành
nghề, cụ thể ở đây là kiến trúc. Các tấm gương ấy có thể kể đến như KTS. Frank Lloyd
Wright, Zaha Hadid, Antoni Gaudí,… đều là những hình ảnh sáng giá về cả ý chí và
niềm tin không ngừng nghỉ. Hoặc cũng có thể rèn luyện ý chí cho sinh viên kiến trúc
15
thông qua các chương trình thực tập, trải nghiệm thực tế công việc của kiến trúc sư,
càng hiểu rõ về ngành nghề, sinh viên sẽ biết cách tiếp cận và rèn luyện ý chí của bản
thân để phù hợp với ngành nghề mình đã chọn. Làm để biết, để kế thừa ý chí của thế
hệ đi trước rồi áp dụng cho sự nghiệp tương lai của bản thân. Được như thế thì mới thể
hiện đúng vai trò ý chí của thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước.

16
PHẦN KẾT LUẬN

Tri thức, tình cảm, và ý chí là những nhân tố cấu thành ý thức, cùng với niềm
tin giúp thúc đẩy hành động, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và không thể
tách rời. Trong sự phát triển xã hội nói chung, tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí có
vai trò quan trọng với mọi lĩnh vực. Nugời hành nghề ở bất kì lĩnh vực nào thiếu một
trong các nhân tố trên thì sẽ không phát triển được dẫn đến thua kém những người
khác. Và tất nhiên trong nghiên cứu và học tập của sinh viên cũng vậy, tri thức, tình
cảm, niềm tin và ý chí cũng có vai trò rất quan trọng. Cả bốn nhân tố kết hợp với nhau
giúp cho quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên đạt kết quả cao nhất, tạo tiền đề
cho sinh viên sau khi ra trường.
Đối với sinh viên ngành nghề kiến trúc nói riêng, cần rất nhiều sự nỗ lực để trau
dồi và cân bằng cả bốn yếu tố nói trên. Điều này phải được thực hiện một cách kỷ luật,
bền bỉ và lâu dài thông qua các công việc học tập và thực hành liên tục, có bài bản để
chuẩn bị một tâm thế vững vàng cho bản thân trước khi trở thành một kiến trúc sư
tương lai. Bên cạnh đó, Nhà trường cũng có thể góp phần hỗ trợ, đánh giá, truyền cảm
hứng cho sinh viên kiến trúc nhằm đào tạo nên đội ngũ sinh viên tốt nghiệp chất
lượng, phát huy ngành nghề kiến trúc và nâng tầm nền văn minh xã hội Việt Nam./.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] 1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh). Nxb. Chính trị quốc gia sự thật
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác- Lênin (Sử dụng trong
các trường đại học - hệ chính quy không chuyên lý luận chính trị). Hà Nội 8-2019
[3] Phạm Văn Đức, 2019. Giáo trình Triết học Mác-Lênin. Hội đồng biên soạn
giáo trình môn Triết học Mác – Lênin, Hà Nội.
[4] https://vieclam123.vn/tri-thuc-la-gi-b248.html
[5] https://luathoangphi.vn/tinh-cam-la-gi/
[6] https://trinhducduong.com/niem-tin-la-gi/
[7] https://text.xemtailieu.net/tai-lieu/bang-tri-thuc-tam-ly-hoc-hay-phan-tich-
moi-quan-he-giua-nhan-thuc-tinh-cam-y-chi-y-nghia-thuc-tien-cua-moi-quan-he-nay-
873533.html
[8] https://hocnghehanoi.edu.vn/thuc-trang-nghe-kien-truc-su-o-viet-nam-hien-
nay/
[9] https://timviec365.vn/blog/pham-chat-cua-kien-truc-su-new5339.html
[10] https://luxuo.vn/culture/alan-tay-cua-formwerkz-architects-niem-tin-vao-
kien-truc-hien-dai.html
[11] https://www.qdnd.vn/giao-duc-khoa-hoc/chuyen-doi-so/bai-hoc-sau-sac-
ve-tu-hoc-cho-the-he-tre-viet-nam-hom-nay-665947
[12] https://khotrithucso.com/tai-lieu-chuyen-nganh/cacmon-dai-cuong/triet-
hoc

18

You might also like