You are on page 1of 5

2.2.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân.

* Bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong
công nghiệp, kỷ luật lao động của giai cấp công nhân ở nước ta thích ứng với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thiếu trình độ học vấn: Một số công nhân có trình độ học vấn thấp, điều này làm cho
họ khó có thể thích ứng với các công việc và công nghệ mới trong Cuộc Cách mạng
Công nghiệp 4.0.
Chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục và đào tạo nghề nghiệp cho công nhân còn bị
hạn chế, không đảm bảo rằng họ có đủ kiến thức và kỹ thuật cần thiết.

Sự thay đổi nhanh chóng: Cuộc cách mạng Công nghệp 4.0 đòi hỏi sự linh hoạt và sẵn
sàng thay đổi trong công việc và quy trình làm việc. Một số công nhân có thể gặp khó
khăn trong việc thích ứng với sự thay đổi này.

Khả năng tiếp cận công nghệ:Một số công nhân ở các khu vực nông thôn hoặc khu vực
có điều kiện kỹ thuật kém có thể không có dễ dàng tiếp cận và sử dụng công nghệ mới.

Nguyên nhân:
Đầu tư giáo dục hạn chế: Chính phủ và doanh nghiệp có thể chưa đầu tư đủ vào giáo
dục và đào tạo công nhân để nâng cao trình độ học vấn kỹ năng.
Sự bất ổn trong quyền lợi lao động: Công nhân có thể không đủ quyền lợi lao động và
bảo vệ, dẫn đến sự không ổn định trong công việc và thúc đẩy sự thiếu kiên nhẫn và tinh
thần lao động.
Thiếu quyền tham gia quyết định: Công nhân có thể không có quyền tham gia vào các
quyết định liên quan đến công việc và môi trường làm việc của họ, làm giảm sự động
viên và tác phong công nghiệp.
Thiếu hỗ trợ để thích ứng: Thiếu hộ trợ từ chính phủ và doanh nghiệp để giúp công
nhân thích ứng với sự thay đổi và sử dụng công nghệ mới để có thể tạo ra khó khăn trong
quá trình thích ứng.

* Tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho giai cấp công nhân.

Hiệu suất tuyên truyền: Tuyên truyền và giáo dục chính trị có thể không hiệu quả nếu
không được triển khai một cách đúng đắn. Có thể xảy ra tình trạng người lao động không
hiểu rõ hoặc không quan tâm đến tư tưởng và lý tưởng mà chính phủ hoặc các tổ chức xã
hội cố gắng truyền đạt.

Khả năng tiếp cận thông tin: Các công nhân, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn hoặc
khu vực đang phát triển, có thể không có dễ dàng tiếp cận với thông tin tư tưởng và chính
trị do hạn chế về hạ tầng truyền thông.
Không đảm bảo tính khách quan: Tuyên truyền và giáo dục chính trị có thể bị thiên vị
hoặc không đảm bảo tính khách quan, làm cho công nhân không tin tưởng vào thông tin
và tư tưởng được truyền đạt.

Nguyên nhân:

Hạn chế tài nguyên: Khả năng cung cấp tài nguyên và nhân lực để thực hiện tuyên
truyền và giáo dục chính trị có thể bị hạn chế do nguồn lực tài chính và nhân lực hạn hẹp.

Trở ngại về tự do thông tin: Một số chính phủ có thể áp đặt hạn chế về tự do thông tin và
tự do ngôn luận, làm hạn chế khả năng tuyên truyền tư tưởng và chính trị đa dạng.

Thách thức về văn hóa và ngôn ngữ: Trong một số trường hợp, văn hóa và ngôn ngữ có
thể tạo ra rào cản trong việc truyền đạt thông tin và tư tưởng cho công nhân.

*Chăm lo đời sống vật chất tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân.

Đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân hiện nay chưa được đảm bảo. Mức
lương của người lao động hiện nay về cơ bản không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối
thiểu của bản thân, chưa tính đến việc tích lũy hay chăm lo cho con cái của họ.

Về vấn đề nhà ở của người công nhân, đặc biệt là ở các tỉnh hay thành phố lớn thì hầu
hết các nhà máy, xí nghiệp không có xây nhà lưu trú cho công nhân. Trong tổng số người
lao động tại các khu công nghiệp thì chỉ có khoảng 20% số người công nhân là có chỗ ở
ổn định. Đa số người công nhân ngoại tỉnh làm việc tại các khu công nghiệp này đều phải
thuê nhà trọ, với điều kiện vệ sinh và môi trường không được đảm bảo.

Về điều kiện làm việc thì nhìn chung, điều kiện làm việc của người công nhân vẫn chưa
được bảo đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường bị ô nhiễm nặng như
nóng, bụi, tiếng ồn,... đã gây ra những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động, đặc
biệt là gây ra các bệnh nghề nghiệp.

Nguyên nhân:
Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm chí có quy định về
mức lương tối thiểu vùng đối với người công nhân làm ở các loại hình doanh nghiệp,
nhưng mức tăng lương này thường không theo kịp với tốc độ tăng giá của thị trường.
Phần lớn các chủ công ty, doanh nghiệp hiện nay vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả
lương cho người công nhân, chưa quan tâm nhiều đến việc xây dựng bảng lương. Bên
cạnh đó, các chủ doanh nghiệp còn bớt một phần lương của người công nhân để chi cho
các khoản phụ cấp,...
Trong quy hoạch phát triển ở các khu công nghiệp thì phần lớn chưa tính tới nhu cầu về
chỗ ở cho người công nhân. Các dự án triển khai nhà ở cho công nhân tại các khu công
nghiệp đa số đều chậm tiến độ so với yêu cầu, một số nơi xây nhà ở cho người công nhân
thì lại thiếu đồng bộ với việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội.

Thiếu sự đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình sản xuất tại nơi làm việc.
Các chủ doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm nhiều trong việc sắp xếp và xây dựng các kế
hoạch hợp lý để đảm bảo điều kiện làm việc cho người công nhân.

*Vai trò của công đoàn đối với việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân, tập thể công nhân

Sự yếu đuối tài chính: Một số công đoàn có tài chính hạn chế, dẫn đến khả năng hạn chế
trong việc tổ chức hoạt động và chiến lược địa hiện cho công nhân.

Áp lực từ doanh nghiệp: Công đoàn có thể đối mặt với áp lực từ doanh nghiệp để không
tham giao vào các hoạt động hoặc cuộc đàm phán đòi hỏi quyền lợi của công nhân.

Chính trị: Công đoàn có thể bị chính trị hóa và sử dụng cho mục tiêu chính trị thay vì tập
trung vào quyền lợi của công nhân.

Thách thức trong tổ chức: Việc tổ chức và duy trì sự đoàn kết trong công đoàn có thể
khó khăn do sự đa dạng về quan điểm và mục tiêu của các công nhân.

Nguyên nhân:
Quyền lực doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thể có quyền lực và tài chính mạnh mẽ hơn
so với công đoàn, dẫn đến sự bất cân đối trong cuộc đàm phán và bảo vệ quyền lợi của
công nhân.
Quyền lực chính phủ: Một số chính phủ có thể có kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động
công đoàn và có thể áp đặt hạn chế về tự do thông tin và tự do ngôn luận.
Sự đa dạng của công nhân: Sự đa dạng về lợi ích và quan điểm của các công nhân có
thể làm cho việc đại diện trở nên phức tạp hơn.
Thiếu quyền lợi lao động: Trong một số trường hợp, quyền lợi lao động và quyền tự do
đoàn kết có thể bị hạn chế,làm giảm sự ảnh hưởng của công đoàn.
Thách thức trong quản lí công đoàn:Quản lý và lãnh đạo công đoàn có thể gặp khó
khăn trong việc duy trì và phát triển tổ chức công đoàn.

*Sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức
công đoàn hiện nay

Có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá nếu chúng ta không có biện pháp
quản lý hữu hiệu.
Có thể gây ra những xung đột trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp, ảnh hưởng xấu
đến môi trường đầu tư và trật tự, an toàn xã hội, nếu không có những quy định pháp luật
rõ ràng và thực thi một cách nghiêm minh.
Có thể xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức công đoàn trong cùng
một doanh nghiệp, làm suy giảm sức mạnh tập thể của người lao động trong cùng một
doanh nghiệp.

Nguyên nhân:
Thách thức về nhận thức.
Xu hướng buông lỏng quản lý, kiểm soát để TCCCN ra đời và phát triển tự phát trong
các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
Sự thiếu gắn kết giữa “tổ chức của công nhân” ở cơ sở với công đoàn cơ sở thuộc Công
đoàn Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ chia rẽ, phá vỡ tính hệ thống của phong trào công
nhân, công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Mất cảnh giác để lực lượng đối lập, phản động trong và ngoài nước lợi dụng quyền tự
do, dân chủ, sử dụng “tổ chức của công nhân” làm công cụ chống phá Đảng, Nhà nước
và chế độ.
TCCCN: Tổ chức của Công nhân

You might also like