You are on page 1of 8

BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI TƯƠNG ĐỐI VÀ CÁI TUYỆT ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG

TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


Mục lục
I- Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kinh tế xã hội của thế giới hiện đại ngày nay, công tác quản trị trên hầu hết các
lĩnh vực không thể không vận dụng các nguyên tắc, phương pháp quản lý khoa học, mà còn đòi
hỏi cần phải có phương pháp tư duy đúng đắn để lựa chọn mô hình, thể chế phù hợp với quy mô
tính chất của chủ thể hoạt động để đưa đến thành công.

Hoạt động tài chính ngân hàng là một quá trình hoạt động, liên kết giữa các bộ phận trong ngân
hàng với mối quan hệ chủ quan và khách quan. Do đó việc nghiên cứu và vận dụng của tư duy
khoa học và phù hợp với nghệ thuật quản trị sẽ mang lại giá trị cốt lõi cho ngân hàng và có ý
nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.

Phép biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối là học thuyết về phát triển dưới hình thức
đấy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, về tính tương đối của tri thức con người. Chính sự vận dụng
các phép biện chứng nói chung, và biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối vào trong thực
tế hoạt động tài chính ngân hàng mang một ý nghĩ lý luận và thực tiễn quan trọng và to lớn. Do
đó, em xin chọn đề tài “Biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động ngân
hàng thương mại tại Việt Nam” để chứng minh cho lập luận trên.
II- Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
1.1 Khái niệm
a) Khái niệm chân lý: Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh được thực tiễn
kiểm nghiệm; Chân lý là một quá trình vì nhận thức của con người là một quá trình. Leenin nhận
xét: “Sự phù hợp giữa tưa tưởng và khách thể là một quá trình. Tư tưởng không nên hình dung
chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh
hướng, không vận động…”
b) Khái niệm biện chứng: Phương pháp biện chứng là một phương pháp tiếp cận trong triết học
và khoa học xã hội, được sử dụng để nghiên cứu và phân tích các vấn đề phức tạp bằng cách xem
xét các mâu thuẫn, mâu thuẫn nội tại và phân tích quá trình phát triển của một hiện tượng.
Phương pháp biện chứng xem xét một vấn đề không chỉ từ một góc nhìn đơn lẻ mà từ nhiều góc
nhìn khác nhau. Nó tập trung vào việc phân tích các mâu thuẫn và xung đột trong quá trình phát
triển của một hiện tượng, và qua đó đưa ra những kết luận tổng hợp và sự hiểu biết sâu sắc hơn
về sự phát triển của thực tại. Phương pháp biện chứng thường sử dụng các bước logic như phủ
định, mâu thuẫn, đấu tranh và đồng nhất để xác định và giải quyết các mâu thuẫn trong một hệ
thống. Điều này đòi hỏi sự phân tích cẩn thận và đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có khả năng tư duy
linh hoạt và sáng tạo. Phương pháp biện chứng không chỉ được sử dụng trong triết học và khoa
học xã hội, mà còn có thể áp dụng vào các lĩnh vực khác như khoa học tự nhiên, nghệ thuật và
triết học.
c) Tính tuyệt đối : Tính tuyệt đối (absolute) là khái niệm mô tả một sự tồn tại độc lập và không
bị phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào khác. Nó ám chỉ rằng một sự vật, hiện tượng hoặc khái niệm
tồn tại với tính chất, giá trị hoặc quy luật của riêng nó mà không cần phụ thuộc vào bất kỳ điều
kiện hay mối quan hệ nào khác. Ví dụ, "sự tồn tại" và "đúng sai" được coi là khái niệm tuyệt đối
vì chúng không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào khác để có ý nghĩa.
d) Tính tương đối : Cái tương đối và cái tuyệt đối không phải là hai phạm trù đối lập hoàn toàn,
mà thường tồn tại trên một độ dài liên tục. Trong nhiều trường hợp, một yếu tố có thể được coi là
tương đối trong một bối cảnh nhất định nhưng lại được coi là tuyệt đối trong bối cảnh khác. Sự
đánh giá về tính tương đối và tính tuyệt đối thường phụ thuộc vào ngữ cảnh và quan điểm cụ thể
của mỗi người hoặc hệ thống giá trị.

e) Tính cụ thể: Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là
mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định. Nội dung đó không phải là
sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định,
diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan
hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát
ly những điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào
sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được coi là
chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin đã khẳng định: “không có chân lý trừu tượng”,
“chân lý luôn luôn là cụ thể”.

Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự
kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ
những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản
chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương
pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời
điểm cụ thể nhất định.

1.2 Phép biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối của chân lý
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện
chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối. Mặt khác, trong
mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin
viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân
lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại;
những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù có tính tương đối,
vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.

Phép biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối đề cập đến quan hệ và tương quan giữa hai
khái niệm này. Trong triết học và các lĩnh vực liên quan, cái tương đối và cái tuyệt đối thường
được coi là hai khái niệm đối lập nhau. Cái tương đối ám chỉ đến sự tồn tại hoặc giá trị của một
thực thể, khái niệm hoặc sự việc trong bối cảnh so sánh hoặc liên quan tới những yếu tố khác. Nó
không tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc vào các điều kiện, ngữ cảnh hoặc quan hệ với những
thực thể khác. Ví dụ, khái niệm "cao" và "thấp" là tương đối vì chúng chỉ có ý nghĩa khi được so
sánh với nhau. Trong khi đó, cái tuyệt đối ám chỉ đến sự tồn tại hoặc giá trị mà không phụ thuộc
vào bất kỳ điều kiện nào khác. Nó tồn tại độc lập và không bị hạn chế bởi các yếu tố tương đối.
Ví dụ, khái niệm về sự tồn tại của một thực thể cơ bản như "tồn tại" hoặc "sự thật" có thể được
coi là tuyệt đối vì chúng không phụ thuộc vào bất kỳ điều kiện nào khác. Phép biện chứng giữa
cái tương đối và cái tuyệt đối nhấn mạnh sự tương quan và tương tác giữa hai khái niệm này.
Theo quan điểm biện chứng, thế giới không phải chỉ tồn tại dưới dạng tương đối hoặc tuyệt đối
mà là hiện thân của sự tương tác phức tạp giữa cả hai khái niệm này. Cái tương đối và cái tuyệt
đối không chỉ đối lập mà còn tồn tại trong một quá trình phát triển và biến đổi liên tục. Ví dụ,
trong triết học Hegelian, sự tiến triển của sự hiểu biết và thực tại được coi là một quá trình biện
chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối. Sự tiến bộ của hiểu biết không phải chỉ dựa trên sự bác
bỏ hoặc loại trừ cái tương đối, mà là sự tích hợp và vượt qua nó để đạt được sự nhận thức tương
đối tốt hơn về cái tuyệt đối. Tóm lại, phép biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối nhấn
mạnh sự tương quan và tương tác giữa hai khái niệm này, và cho rằng sự phát triển và hiểu biết
đạt được thông qua quá trình biện chứng giữa chúng.
1.3 Vai trò đối với thực tiễn

“Chân lý là một trong những điều kiện tiến quyết đảm bảo sự thành công và tính hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn”

Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải thực hiện các hoạt động thực tiễn-cầu
nối trung gian giữa con người với thế giới. hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người tác
độkng vào môi trường tự nhiên và xã hội, từ đó phục vụ cho mục đích hoàn thiện và phát triển
con người về mọi mặt. Qua hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức của con người cũng ngày
càng được nâng cao. Bởi xét cho cùng , thực tiễn chính là cơ sở, động lực và mục đích của nhận
thức. xét trên phương diện thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, thực tiễn cung cấp thông
tin, tài liệu, vật liệu cho nhận thức con người. Khoa học, lý luận hay kinh nghiệm đều sẽ không
tồn tại và duy trì nếu không có thực tiễn. Hay nói cách khác, tri thức của con người đều phát sinh
từ thực tiễn. Để hoạt động thực tiễn được thực thi hiệu quả và mang lại những lợi ích nhất định,
tri thức về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của con người hay cũng chính là
chân lý phải được vận dụng một cách đúng đắn, chính xác.

Một dẫn chứng sáng rõ về điều này là tư tưởng “Không gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Đây là một chân lý phản ánh rõ tính lý luận sâu sắc, còn mãi với thời đại. Lời kêu
gọi thiêng liêng của Bác diễn ra trong thời điểm cuộc kháng chiến chống đề quốc Mỹ xâm lược
của dân tộc Việt Nam ta bước vào giai đoạn căng thẳng. Nhân dân cả nước đã vận dụng đúng
đắn chân lý này từ đó tiến hành hiệu quả hoạt động thực tiễn, cụ thể là dưới hình thức hoạt động
chính trị-xã hội; đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh để giành lại độc lập, tự do. Từ đó có thể
khẳng định được rằng, chân lý nắm giữ một vai trò hàng đầu, ảnh hưởng đến sự thành công của
hoạt động thực tiễn.

Chương 2: Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt
động ngân hàng thương mại tại Việt Nam
2.1 Khái quát chung
2.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại tổ chức tài chính có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng
cho cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức khác trong một cộng đồng. Ngân hàng thương mại thường
hoạt động như một trung gian tài chính, thu thập tiền gửi từ khách hàng và chuyển đổi chúng
thành các khoản vay và dịch vụ tài chính khác.

2.1.2 Bản chất ngân hàng thương mại

- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp và là một đơn vị kinh tế

- Nói Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp và là một đơn vị kinh tế nghĩa là Ngân hàng
thương mại hoạt động trong một ngành kinh tế, có cơ cấu tổ chức bộ máy như một doanh nghiệp,
Ngân hàng thương mại bình đẳng trong quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp khác.

- Hoạt động của Ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Để hoạt động kinh doanh, các
Ngân hàng thương mại phải có vốn, phải tự chủ về tài chính. Đặc biệt hoạt động kinh doanh cần
đạt đến mục tiêu tài chính cuối cùng là lợi nhuận, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương
mại cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên việc tìm kiếm lợi nhuận là phải chính đáng
trên cơ sở chấp hành luật pháp của nhà nước.

- Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng. Đây là lĩnh vực “đặc biệt” vì liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến
mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội, lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực “nhạy cảm”, đòi hỏi
một sự thận trọng và khéo léo trong điều hành hoạt động ngân hàng để tránh những thiệt hại cho
xã hội. Lĩnh vực hoạt động này của Ngân hàng thương mại góp phần cung ứng một khối lượng
vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế-xã hội…

Tóm lại, Ngân hàng thương mại là loại hình định chế tài chính trung gian hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là loại định chế tài chính trung gian quan trọng
vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường, góp phần tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế,
tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế -xã hội phát triển.

2.1.3 Hoạt động ngân hàng thương mại


Các hoạt động chính của ngân hàng thương mại bao gồm:
1. Tiền gửi: Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi từ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Các
loại tiền gửi phổ biến bao gồm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi tiền mặt, và tài khoản ngân hàng.
2. Cho vay: Ngân hàng thương mại cung cấp các khoản vay cho cá nhân và doanh nghiệp. Điều
này có thể bao gồm vay mua nhà, vay mua ô tô, vay vốn kinh doanh và các sản phẩm tín dụng
khác.
3. Dịch vụ thanh toán: Ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ thanh toán như chuyển
khoản tiền, phát hành séc, cung cấp thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, và cung cấp các hình thức thanh
toán điện tử như Internet Banking và Mobile Banking.
4. Tư vấn tài chính: Một số ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính cho khách
hàng, bao gồm lập kế hoạch tài chính cá nhân, đầu tư và quản lý rủi ro tài chính.
5. Dịch vụ ngoại hối: Một số ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ giao dịch ngoại hối, cho
phép khách hàng mua, bán và quy đổi tiền tệ của các quốc gia khác nhau.
Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong hỗ trợ hoạt động kinh tế bằng cách cung cấp
vốn và các dịch vụ tài chính. Chúng đóng vai trò trung gian giữa những người có dư nợ và những
người có nhu cầu vay vốn, đồng thời cung cấp các dịch vụ thanh toán và tài chính khác để hỗ trợ
hoạt động kinh doanh và tiền tệ.
2.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động ngân hàng
thương mại tại Việt Nam
Trong hoạt động ngân hàng thương mại, mối quan hệ biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt
đối có thể được hiểu qua các khía cạnh sau:
1. Tương quan giữa tiền gửi và cho vay: Ngân hàng thương mại tồn tại dựa trên mối quan hệ
tương đối giữa tiền gửi và cho vay. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhận lãi suất và an
toàn cho số tiền của họ, trong khi ngân hàng sử dụng tiền gửi này để cung cấp cho vay cho
những người có nhu cầu tài chính. Điều này tạo ra một mối quan hệ tương đối giữa người gửi
tiền và người vay tiền, và ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình này.
2. Tương quan giữa rủi ro và an toàn: Ngân hàng thương mại phải đối mặt với mối quan hệ biện
chứng giữa rủi ro và an toàn. Khi ngân hàng cho vay, có một mức độ rủi ro liên quan đến khả
năng vay không trả nợ. Để đảm bảo an toàn tài chính và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, ngân
hàng thương mại phải áp dụng các biện pháp để đánh giá và quản lý rủi ro, ví dụ như xác định
mức cho vay hợp lý, yêu cầu tài sản thế chấp và đánh giá khách hàng đúng mức.
3. Tương quan giữa dịch vụ và lợi nhuận: Ngân hàng thương mại phải đối mặt với mối quan hệ
biện chứng giữa cung cấp dịch vụ và tạo lợi nhuận. Để thu hút và duy trì khách hàng, ngân hàng
phải cung cấp các dịch vụ tài chính hữu ích và chất lượng. Tuy nhiên, để duy trì hoạt động và
sinh lợi, ngân hàng cũng cần tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động của mình. Điều này yêu cầu sự
cân nhắc và tương đối giữa việc cung cấp dịch vụ và tối ưu hóa lợi nhuận.
4. Tương quan giữa sự cạnh tranh và hợp tác: Trong môi trường ngân hàng thương mại, có sự
tương đối giữa sự cạnh tranh và hợp tác giữa các ngân hàng. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau
để thu hút khách hàng và tăng trưởng kinh doanh. Tuy nhiên, đồng thời, các ngân hàng cũng có
thể hợp tác thông qua hệ thống thanh toán liên ngân hàng, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm để
nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.
Tóm lại, mối quan hệ biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động ngân hàng
thương mại liên quan đến tương quan giữa tiền gửi và cho vay, rủi ro và an toàn, dịch vụ và lợi
nhuận, cũng như sự cạnh tranh và hợp tác. Hiểu và cân nhắc đúng mứcđiều này là quan trọng để
ngân hàng thương mại có thể hoạt động hiệu quả và đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong môi
trường tài chính phức tạp.
Cái tương đối và cái tuyệt đối trong hoạt động của ngân hàng thương mại thể hiện ở chỗ: Các
chính sách, mô hình, mục tiêu mà ngân hàng đưa ra là cái tuyệt đối. Tuy nhiên do những nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, hoạt động triển khai và quản lý đôi khi có điểm hạn
chế, máy móc rập khuôn,... và những điều đó chính là cái tương đối trong hoạt động ngân hàng,
chưa nhận thức và tuân theo quy luật khách quan, chưa đạt tới cái tuyệt đối.
Trong hoạt động nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn để đạt đến chân lý, trong hoạt động thực
tiễn phải tự giác vận dụng mối quan hệ giữa cái tương đối và cái tuyệt đối để phát triển thực tiễn,
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng thương mại. Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo
dự thành công và tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của
chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm trong nhận
thức và hành động. Nếu phóng đjai tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ dễ
rơi vào bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò
của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối.
2.3 Tồn tại hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động ngân hàng tại Việt Nam cũng đối diện với một số hạn chế. Dưới đây là một số hạn
chế chính trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam:
1. Thiếu tin cậy và thiếu lòng tin: Một số khách hàng có sự thiếu tin cậy và thiếu lòng tin vào hệ
thống ngân hàng. Điều này có nguồn gốc từ quá khứ khi ngân hàng gặp khó khăn trong việc giải
ngân, xử lý nợ xấu và bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Sự thiếu tin cậy và lòng tin này có thể
làm giảm sự sử dụng các dịch vụ ngân hàng và gắn kết của khách hàng với ngân hàng.
2. Hạn chế về hạ tầng: Hạ tầng ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở các vùng
nông thôn và miền núi. Việc phát triển mạng lưới chi nhánh và cung cấp dịch vụ tài chính ở các
khu vực này vẫn còn đáng kể khó khăn. Hơn nữa, việc đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin
trong hoạt động ngân hàng cũng là một thách thức đối với hạ tầng công nghệ thông tin.
3. Quản lý rủi ro chưa đầy đủ: Mặc dù đã có sự tiến bộ trong việc quản lý rủi ro tại các ngân
hàng, nhưng vẫn còn một số hạn chế. Một số ngân hàng vẫn đối mặt với rủi ro tín dụng cao, đặc
biệt là trong việc cho vay không đảm bảo đủ hoặc không đánh giá rủi ro đầy đủ. Hơn nữa, quản
lý nợ xấu và khả năng thu hồi nợ cũng còn là một thách thức tại Việt Nam.
4. Quy định và quy trình pháp lý phức tạp: Một số quy định và quy trình pháp lý liên quan đến
hoạt động ngân hàng tại Việt Nam vẫn còn phức tạp và khó hiểu. Điều này có thể gây trở ngại
cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng và làm gia tăng chi phí hoạt động.
5. Thiếu nhân lực chất lượng: Ngành ngân hàng đòi hỏi nhân lực có kiến thức chuyên môn cao
và kỹ năng quản lý tài chính. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc đào tạo và thu hút nhân lực chất lượng
cho ngành ngân hàng vẫn còn gặp khó khăn. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ
và khả năng quản lý rủi ro của ngân hàng. Tuy có những hạn chế, ngành ngân hàng tại Việt Nam
cũng đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính và hỗ trợ phát triển kinh
tế. Các hạn chế này đang được chính phủ và ngành ngân hàng nỗ lực để vượt qua thông qua việc
cải thiện quy định, đầu tư vào hạ tầng và đào tạo nhân lực.
6. Môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Các
văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng chủ yếu được xây dựng trên cơ sở các giao dịch thủ
công với nhiều loại giấy tờ và quy trình xử lý nghiệp vụ phức tạp. Trong khi đó, phát triển dịch
vụ đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới và quy trình nghiệp vụ hiện đại, nhanh chóng. Với tốc độ
phát triển dịch vụ như hiện nay, nhiều quy định pháp lý đã tỏ ra bất cập và không bao hàm hết
các mặt nghiệp vụ, gây khó khăn cho các NHTM khi muốn triển khai dịch vụ mới.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Để nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam, trong thời gian tới cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, cải cách ngân
hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy
mô và năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập ddaonf tài chính-ngân
hàng đủ lớn, mạnh dạn sắp xếp lại hệ thống các NHTM, đặc biệt các ngân hàng yếu kém,
không đủ vốn pháp định sáp nhập vào các ngân hàng lớn. Giải quyết triệt để các khoản
nợ xấu, nợ tồn đọng.
- Cần có một chiến lược kinh doanh trung và dài hạn, đặc biệt là chiến lược nhân sự. Gắn
chiến lược nhân sự với các trường đại học trọng điểm và hình thành các trung tâm đào tạo
tại các ngân hàng thương mại. Nhân viên ngân hàng là những người làm việc trên lĩnh
vực dịch vụ cao cấp nên phải đảm bảo tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, cần có chế độ tiền
lương phù hợp với trình độ và năng lực của cán bộ, tránh chi lương theo cơ chế doanh
nghiệp nhà nước, hạn chế việc bình bầu thi đua khen thưởng. Nếu tiếp tục như vậy dễ dẫn
đến chảy máu chất xám, quan liêu, tham nhũng,…
- Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh, đi liền với
chính sách chăm sóc khách hàng và tang cường công tác tiếp thị. NHTM VN cần tiếp tục
đa dạng hóa cá sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy động vốn, tín dụng sản xuất kinh
doanh, tín dung tiêu dung, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu chi hộ, giữ
hộ, ủy thác, ngân hàng điện tử… cần chú ý phát triển các sản phẩm gắn với thị trường
chứng khoán và hoạt động bảo hiểm.
- Hiện đại hóa công nghệ và xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân
hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khacsh hàng trong nước. đặc
biệt là cơ chế thanh toán phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ.
- Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống ngân
hàng và tạo niềm tin cho công chúng, nâng cao thương hiệu “hàng Việt Nam chất lượng
cao và giá dịch vụ pahir chăng”, tang cường công tác kiểm toán, kiểm soát nội bộ nhằm
giám sát và ngăn ngừa sai sót trong từng ngân hàng. Các quy định về thanh tra giám sát
cần nghiên cứu và ban hành phù hợp với thị trường kinh tế hiện tại.
Nếu các giải pháp trên được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
III/ Kết luận
Ngày nay, tình hình kinh tế tại Việt Nam nói riêng, cũng như trên toàn thế giới nói chung
diễn biến rất quanh co, phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần
được giải quy ết. Nắm vững phép biện chứng giữa cái tương đối và cái tuyệt đối; và mài sắc
tư duy biện chứng, vận dụng linh hoạt, mềm dẻo các nguyên tắc phương pháp luận của phép
biện chứng vào thực tiễn quản lý doanh nghiệp sẽ giúp các nhà quản trị nhận thức được tính
biện chứng của doanh nghiệp hay ngân hàng, của các sự vật, hiện tượng bên trong cũng như
bên ngoài doanh nghiệp có liên quan, tác động đến doanh nghiệp. Từ đó sẽ giúp các nhà quản
trị điều hành hiệu quả doanh nghiệp mình và tránh được những sai lầm đáng tiếc
Tài liệu tham khảo

You might also like