You are on page 1of 13

Đề bài: Làm rõ quan điểm của triết học Mác về con đường biện

chứng của sự nhận thức chân lý. Từ đó rút ra ý nghĩa trong nghiên
cứu khoa học và học tập của bản thân.
Mục lục

Mở đầu...........................................................................................................2
I. Quan điểm của triết học Mác về con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý..........................................................................................3
1.1. Khái niệm.................................................................................................3
1.2. Nội dung..................................................................................................3
1.3. Ý nghĩa.....................................................................................................6
II. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học và học tập của bản thân.............7
Kết luận........................................................................................................12
Tài liệu tham khảo......................................................................................13
Mở đầu
Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức thực chất không phải là một sự
phản ánh mang tính thụ động, giản đơn, mà nhận thức chính là một quá trình
biện chứng. Trong thực tiễn, nếu như chúng ta chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính
thì con người sẽ mới chỉ có được những tri thức cơ bản về đối tượng còn bản
thân những tri thức đó liệu trên thực tế có thật sự chính xác hay không thì
thực chất con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức cũng đòi
hỏi phải xác định xem những tri thức đó có sự chân thực hay không. Để nhằm
mục đích có thể thực hiện được điều này thì nhận thức nhất thiết sẽ cần phải
trở về với thực tiễn, nhận thức phải dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước
đo đối với tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận
thức. Không những thế, ta cũng thấy rằng, mọi nhận thức suy đến cùng thì
cũng sẽ đều cần phải là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại để có thể phục
vụ thực tiễn. Để hiểu rõ hơn quan điểm của triết học Mác về con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, từ đó rút ra ý nghĩa trong nghiên cứu khoa
học và học tập của bản thân, em đã chọn nghiên cứu về đề tài này cho bài tiểu
luận của mình.
I. Quan điểm của triết học Mác về con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý
1.1. Khái niệm
Mọi quá trình nhận thức đều dẫn đến việc tạo ra tri thức. Tuy nhiên, không
phải tri thức nào cũng có nội dung trùng khớp với thực tại khách quan, vì tri
giác và ý thức đều là một bộ phận của sự phản ánh của con người đối với thực
tại khách quan này. Thực tế lịch sử nhận thức của không chỉ cá nhân con
người mà của cả nhân loại nói chung chứng tỏ rằng những tri thức mà con
người tiếp thu và đang tiếp thu không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế
khách quan. Ngược lại, nó thường không phù hợp, thậm chí hoàn toàn trái
ngược với thực tế khách quan.
Trong học thuyết nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân lý
được dùng để chỉ những tri thức có nội dung trùng khớp với hiện thực khách
quan. Sự phù hợp này đã được thử nghiệm và chứng minh trên thực tế. Theo
nghĩa này, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức hay khái
niệm giả thuyết. Đồng thời, sự thật cũng là một quá trình.
Theo V. I. Lênin, "Sự tương ứng giữa tư tưởng và đối tượng là một quá
trình. Tư tưởng (= con người) là chân thực ở dạng im lặng chết chóc, những
hình ảnh (hình ảnh) đơn giản, chóng mặt, cho đến chóng mặt, v.v. không nên
tưởng tượng là có". tích cực".
1.2. Nội dung
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính
cụ thể. Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh
của nó đối với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù
hợp với thực tế khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội
dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan,
không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận
thức; trái lại nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan
quy định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản
phân biệt quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ
nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại
khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức
được thế giới đó.
Chân lý không chỉ có tính khách quan mà còn có tính tuyệt đối và tính
tương đối. Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan về nguyên tắc,
chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan
không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể
nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả
năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau,
của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian
của đối tượngđược phản ánh. Do đó, chân lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức đã đạt được với hiện thực khách
quan mà nó phản ánh. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với
khách thể được phản ánh chỉ mới đạt được sự phù hợp từng phần, từng bộ
phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có
sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của
các chân lý tuơng đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao
giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Chân lý
tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển;
chân lý tương đối là những phản ảnh tương đối đúng của một khách thể tồn tại
độc lập đối với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác
hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố
của chân lý tuyệt đối”.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối
và tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán
và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong hành động.
Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ
rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược
lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt
đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan,
chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bẩt khả tri.
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có
tính cụ thể. Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội
dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử – cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có
một nội dung cụ thể, xác định. Nội dung đó không phái là sự trừu tượng thuần
túy, thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định,
diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một
mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với
những điều kiện lịch sử – cụ thể, tức là có tính cụ thể. Nếu thoát ly những
điều kiện lịch sử – cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình
nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế, nó không phải là những
tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này,
V.I.Lênin đã khẳng định: “không có chân ly trừu tượng”, “chân lý luôn luôn
là cụ thể”. Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoại động nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc
làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ
những điều kiện lịch sử – cụ thể mà vận dụng những lý luận chung cho phù
hợp. Theo V.I.Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích
cụ thế mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét
nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất
định.
1.3. Ý nghĩa
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực
tiễn. Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội đồng thời
cũng qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá trình
hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã làm phát
sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ
có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri
thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của
mình. Vì vậy, chân lỷ là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự
thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện
chứng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý
phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt
được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường
xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển
thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức
đó vào trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những
hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học
trong thực tiễn hiện nay.
II. Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học và học tập của bản thân
Khả năng đặt câu hỏi, phát hiện vấn đề là một yếu tố quan trọng của tư
duy phản biện tốt. Việc đặt ra câu hỏi nhiều khi còn quan trọng hơn cả tìm
kiếm câu trả lời bởi đó là khởi nguồn của sáng tạo, đổi mới. Nhờ khả năng đặt
câu hỏi, chủ thể tư duy không dễ dàng chấp nhận những tri thức, niềm tin có
sẵn, bị áp đặt mà luôn đặt chúng dưới sự xem xét, đánh giá về tính đúng sai,
về độ tin cậy trước khi áp dụng vào giải quyết vấn đề; nhờ đó, có khả năng
phát hiện, tìm ra các cách tiếp cận hoặc giải pháp mới. Việc học tập triết học
kích thích khả năng này bởi triết học được hình thành từ chính những câu hỏi
của con người về thế giới và chính bản thân mình, thể hiện niềm khát khao
khám phá thế giới, tìm kiếm chân lý. Khi học sinh, sinh viên tiếp cận với các
quan niệm triết học sẽ có cơ hội vượt ra khỏi những niềm tin giới hạn, những
định kiến, suy nghĩ máy móc để biết nhìn mọi vấn đề dưới con mắt của sự
“hoài nghi” khoa học, có năng lực suy nghĩ độc lập, chủ động trong tiếp nhận
đánh giá thông tin, tri thức.
Trong quá trình giải quyết vấn đề và ra quyết định, người có năng lực tư
duy phản biện tốt sẽ không đánh giá, xem xét vấn đề một chiều mà ở nhiều
khía cạnh khác nhau, có tính toàn diện. Năng lực này có thể được phát triển
tốt nhờ học triết học. Vấn đề nghiên cứu của triết học vừa rộng vừa phức tạp
do đó không chỉ có một cách nhìn duy nhất đúng. Thực tế sự vận động của
lịch sử triết học cho thấy ở các thời đại khác nhau, và ở cùng một thời đại
luôn xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau, mâu thuẫn nhau khi trả lời các câu
hỏi chung về thế giới và con người. Triết học là cuộc đối thoại của các tư
tưởng khác nhau xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Trả lời các câu hỏi về
nguồn gốc và sự tồn tại của thế giới có trường phái duy vật, duy tâm, nhị
nguyên luận; trả lời các câu hỏi về khả năng nhận thức thế giới của con người
có trường phái khả tri luận, bất khả tri luận, hoài nghi luận; các vấn đề về con
người, mục đích, ý nghĩa của đời sống, các vấn đề lợi ích, nhân phẩm, quyền
con người đều có nhiều các quan điểm khác nhau; đặc biệt là, mỗi quan điểm
trong đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, học sinh, sinh viên
cần có tư duy phản biện tốt để tiếp thu kiến thức một cách chủ động, biết chọn
lọc thông tin, đánh giá các quan niệm, ý kiến, niềm tin một cách có căn cứ.
Triết học không cung cấp những tri thức, kĩ năng cho một nghề nghiệp cụ thể
nào nhưng triết học dạy cách chúng ta suy nghĩ, cách chúng ta tiếp nhận
những quan niệm trên tinh thần phản biện.
Triết học lý giải các vấn đề về thế giới và con người không phải bằng
niềm tin hay tưởng tượng mà bằng những suy tư có tính logic, có căn cứ dựa
trên sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của đời sống loài người,
sự tổng kết tri thức của các khoa học cụ thể. Chính vì thế những kết luận triết
học hay những đối thoại triết học chỉ thực sự thuyết phục nếu nó dựa trên
những căn cứ được chứng minh đầy đủ. Mặt khác, nghiên cứu về tư duy cũng
là một nội dung quan trọng trong triết học (nhận thức luận, logic học); ở đó,
tư duy trở thành đối tượng phản ánh, được làm rõ các thành tố cấu thành và
quá trình vận động, phát triển của nó, cũng như các tiêu chuẩn để đánh giá,
kiểm nghiệm chân lý được làm rõ (như quan sát, kinh nghiệm, thực tiễn, tiêu
chuẩn logic). Việc hiểu được quá trình vận động của tư duy đi đến chân lý
như thế nào cũng như các nguyên tắc cơ bản của quá trình lập luận đúng sẽ
giúp cho học sinh, sinh viên nâng cao năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh,
chứng minh, lý giải, biết tìm các lý lẽ, căn cứ để xác minh tính đúng, sai của
các tri thức, quan niệm; từ đó nâng cao năng lực giải quyết vấn đề và ra quyết
định. Học tập và tiếp cận với triết học cũng giúp người học hình thành thái độ
tôn trọng sự thật, chân lý một cách có căn cứ.
Học tập luôn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với học sinh, sinh viên để
phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của xã hội thì
học sinh, sinh viên cần phải nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển,
để từ đó vận dụng một cách tối ưu nhất, sáng tạo vào hợp lý.
Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động đi lên, tức là phải thấy
được tính quanh co, phức tạp của sự vật hiện tượng trong quá trình phát triển
của nó. Sinh viên có thể nhìn nhận và xác định trước, vạch ra trong đàu các
giai đoạn phát triển của bản thân, từ đó học cách vượt qua gián đoạn và thúc
đẩy sự vật hiện trượng đó phát triển trong hiện tại và tương lai. Trong công
cuộc học tập, có những lúc học sinh, sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập
không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan và tránh
những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên phải có sự phát triển về trí tuệ và thể
chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập, rèn luyện khác nhau để nâng
cao trí tuệ và cảm xúc. Mỗi người sẽ có một thước đo cuộc sống khác nhau
không thể từ đố mà áp vào bản thân mình rồi tự cảm thấy tự ti, áp lực đối với
những người cùng tranh lứa, những người thành công hơn mình. Quá trình
học tập và rèn luyện luôn là quá trình tích luỹ kiến thức lâu dài. Sinh viên
không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp tát cả,
mà cần xem xét cả quá trình phấn đấu, tìm ra nguyên nhân và nỗ lực cải thiện
vấn đề đó để trở lên tốt hơn.
Nhận diện và phê phán các quan điểm bảo thủ, cổ hủ, trì trệ, định kiến
trong nhận thức và hành động. Bệnh bảo thủ là trì trệ, là tình trạng ỷ lại, chậm
đổi mói, ngại thay đổi, dựa dẫm vào người khác thậm chí cản trở cái mới. Để
ngăn chăn các vấn đề này, sinh viên cần rèn luyện ý thức tự chủ, độc lập ham
học hỏi và sẵn sàng tiếp thu các tư tưởng, văn hóa, khoa học tiến bộ một cách
có chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân tộc. Cần loại bỏ những phương pháp
cũ, những tư duy lạc học khi vận dụng vào quá trình học tập. Không phải lúc
nào lựa chọn của chúng ta cũng là đúng, sinh viên cần lắng nghe ý kiến của
bạn bè, thầy cô, cha mẹ, ... Không bác bỏ ngay lập tức, cần tôn trọng những ý
kiến đó, không áp đặt suy nghĩ của bản thân mình lên người khác. Việc bảo
thủ, khăng khăng giữ ý kiến của ban thân sẽ làm trì trệ, không mang lại kiến
thức cho bản thân hay giá trị của mình. Giáo dục mỗi ngày không ngừng thay
đổi và đổi mới để phù hợp với nhu cầu và tình hình của xã hội, sinh viên cần
không ngừng học tập, cập nhập kiến thức, tra cứu tài liệu, nâng cao kỹ năng
mềm. Khi học tập một kiến thức mới thì sinh viên cần dựa trên những kiến
thức cũ mà mình đã tích lũy được, phân tích, so sánh và tim ra sự liên kết giữa
chúng. Từ đó, việc tiếp thu kiến thức trong quá trình học tập sẽ giúp sinh viên
dễ dàng nắm bắt nhanh chóng và tạo động lực trong việc học tập.
Xác định khuynh hướng phát triển trong tương lai của sự vật, không chỉ
nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như
những biến đổi có tính chất thụt lùi. Đối với sinh viên khi lựa chọn môn học,
chuyên ngành học, cần nắm rõ chương trình học, những điều cần biết về môn
học đó và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai đòi hỏi
những gì, qua đó hoàn thiện bản thân và nâng cao tri thức cho phù hợp với
nhu cầu của xã hội. Ngày nay, để trở thành một công dân toàn cầu việc học
thêm ngoại ngữ, áp dụng các phần mềm, máy móc của nước ngoài trong học
tập là điều cần thiết. Cuộc sống luôn luôn thay đổi và chúng ta không chỉ sống
cho hiện tại mà cần cập nhập những khuynh hướng phát triển của cuộc sống
và không bị đào thải.
Trong quá trình học tập cần phải phân biệt rõ các mối liên hệ của bản thân,
những ưu điểm đang có và những hạn chế còn tồn tại và xây dựng phương
pháp tác động đúng đắn, kịp thời nhằm đem lại khả năng tiềm ẩn như năng
khiếu, sở thích, sự tiến bộ tích cực ... được phát triển hiệu quả nhất. Mỗi sinh
viên đều có những ưu điểm của ban thân khác nhau. Người có khả năng vẽ,
người có khả năng lập trình, người có khả năng ghi nhớ tốt, người có khả
năng thuyết trình ... thì người đó cần tập trung tạo điều kiện và phát huy, nâng
cao khả năng đó, cùng với việc học tập vã tích lũy kiến thức chuyên môn.
Như vậy, sự vận dụng biện chứng của sự nhận thức chân lý cho bản thân
trong công việc học tập có thể được hiểu đơn giản là những việc sau đây:
Hoàn thành tốt các bài tập, bài kiểm tra để rút ra kinh nghiệm và mày mò
thêm phương pháp để làm bài tập nhanh hơn; Tìm hiểu các phương pháp học
tập mới để so sánh với bản thân xem có phù hợp, điều chỉnh lại phương pháp
học tập so cho phù hợp với môi trường học và điều kiện học tập; Đặt ra cho
bản thân những câu hỏi, những mục tiêu cần hoàn thành để thúc đẩy bản thân
làm việc, học tập tránh tình trạng trị trệ mọi thứ; Lắng nghe ý kiến, nhận xét
của thầy cô về bài làm của mình để rút kinh nghiệm cho bản thân, tiếp thu
cách làm bài mới cũng như thay thế các phương pháp làm bài cũ của mình;
Học nhóm, trao đổi kiến thức và bài tập với các bạn, chia sẻ những kiến thức
mà mình nắm được và học hỏi những kiến thức mới, đồng thời phát triển kỹ
năng làm việc nhóm của bản thân,...
Kết luận
Từ quan điểm của triết học Mác về con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý, chúng ta cũng có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi
lặp lại của quá trình vận động, phát triển của nhận thức cụ thể đó là từ thực
tiễn đến nhận thức, từ nhận thức trở về với thực tiễn và từ thực tiễn cũng sẽ
vẫn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức,… Trên thực tế thì quá trình này sẽ
lặp đi lặp lại liên tục và sẽ không có điểm dừng cuối cùng, thông thường thì
trình độ của nhận thức và thực tiễn ở những chu kỳ sau thông thường thì sẽ
cao hơn khi thực hiện so sánh với chu kỳ trước, cũng chính vì vậy mà càng
ngày thúc đẩy quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng
đắn hơn, đầy đủ hơn và có sự sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình chủ nghĩa duy vật biện chứng (hệ cử nhân lý luận chính trị) của
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia xuất bản.
2. G.W.F.Hegel, Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Bách khoa thư các
khoa học triết học I- Khoa học Lôgíc, Nhà xuất bản. Tri thức, 2008, trang
178
3. Các Mác, triết học Mác và thời đại ngày nay, Đặng Hữu Toàn, Tạp chí
Triết học, số 12 (211), tháng 12 - 2008
4. Website
https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Tin-tuc/post/19492/y-nghia-cua-viec-
nghien-cuu-vai-tro-cua-thuc-tien-doi-voi-ly-luan-trong-hoat-dong-chuyen-
mon-cua-giang-vien-o-truong-chinh-tri-tinh-binh-thuan

You might also like