You are on page 1of 6

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ CHÂN LÝ

I. Khái niệm:
*Quan niệm về chân lý .
Chân lý là một vấn đề được đề cập nhiều trong lịch sử triết học, tuy nhiên chưa có đại
biểu triết học nào trước và ngoài triết học duy vật biện chứng có quan niệm hoàn
chỉnh, đúng đắn về chân lý. Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, chân lý là tri thức
phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lý phải được
hiểu như một quá trình, bởi lẽ bản thân sự vật có quá trình vận động, biến đổi, phát
triển và sự nhận thức. Nó cũng phải được vận động, biến đổi, phát triển. Vì vậy, nhận
thức chân lý cũng phải là một quá trình.

-Chân lý là tri thức (lý thuyết, lý luận…) phù hợp với khách thể mà nó phản ánh
và được thực tiễn kiểm nghiệm.
- Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy, chân
lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Sự phát triển của sự vật khách quan
+ Điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức
+ Hoạt động thực tiễn
+ Hoạt động nhận thức của con người.
- Như thế, do sự biến đổi của nhiều yếu tố, một “thông tin” hôm nay có thể được
gọi là chân lý, nhưng thời gian về sau chưa chắc là chân lý.
- Ngược lại, một “thông tin” mới phát hiện có thể chưa được công nhận là chân
lý, nhưng về sau có thể được gọi là chân lý.
- Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá
trình. Tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự
đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ),
không khuynh hướng, không vận động.

Ví dụ: thuyết Nhật Tâm - thuyết Địa Tâm


II. Tính chất
1. Tính khách quan:
- V.I.Lênin nhấn mạnh: "Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý
không phụ thuộc vào con người và loài người" .
- Chân lý là tri thức chứ không phải hiện thực khách quan, nhưng tri thức
đó phải phản ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm là đúng.
- (Và nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy
của chủ quan, ko là sự xác lập tùy tiện của con người hay có sẵn trong nhận
thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do TGKQ qui định.)
- Cho nên, theo nghĩa đúng của từ này, chân lý bao giờ cũng là khách quan
vì nội dung phản ánh của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể của
nhận thức.
=> Công nhận chân lý khách quan nghĩa là công nhận rằng nội dung tri thức
của chân lý là khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người chỉ phụ thuộc vào thế giới khách quan.
+Chân lý là nhận thức của con người
+Nhưng nội dung chân lý không phụ thuộc vào con người

- Ví dụ:
+ Trái đất quay xung quanh mặt trời và tự quay xung quanh trục của nó.
+ Khủng long là loài động vật xuất hiện trên trái đất trước loài người.
=> Đây là chân lý khách quan không phụ thuộc vào việc con người có nhận thức được
nó hay không.

=> Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt
quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới
vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.

2. Tính tương đối và tính tuyệt đối


- Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng nhưng
chưa hoàn toàn đầy đủ, mới phản ánh đúng một mặt, một bộ phận nào đó của hiện
thực khách quan trong những điều kiện giới hạn xác định.
- Tính tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý phản ánh đầy
đủ, toàn diện hiện thực khách quan ở một giai đoạn lịch sử cụ thể xác định.
- Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật,
hiên tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó
trong quá trình phát triển là vô hạn. Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều
kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân
lý có tính tương đối.
- Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng có độ cong bằng 0 thì tổng các góc trong của tam
giác tuyệt đối bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có
độ cong khác 0) thì định lý đó không còn đúng nữa (tính tương đối), nó cần phải
được bổ sung bằng định lý mới (sự phát triển quá trình nhận thức dần tới chân lý
đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối).
⇒ Mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất dịnh, còn ngoài giới hạn đó
thì nó có thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ
phản ánh được một phần thực tại khách quan.
- Tính tương đối và tuyệt đối không tách rời mà có sự thống nhất và biện chứng với
nhau.
- Ví dụ: trong câu chuyện thầy bói xem voi, do các ông thầy bói mù không thống
nhất được các quan điểm với nhau dẫn đến việc các ông đánh nhau xô xát, chảy
máu. Chính cái nhìn toàn thể con voi bằng các bộ phận khác nhau là chân lý tương
đối. Để biết chính xác hình thù con voi thì các ông phải tập hợp ý kiến lại thì sẽ
thành hình thù chính xác của con voi, và là chân lý tuyệt đối.
Tuy nhiên trong tính tuyệt đối chân lý còn có thêm 1 điều cần lưu ý nữa:
mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất định, ngoài giới
hạn đó thì nó có thể không còn đúng nữa. Đúng vậy, hiện tại từ những
đóng góp ý kiến của năm ông lại với nhau thì có thể giúp các ông nhận
diện được hình dạng con voi, tuy nhiên nếu như trải qua thêm trăm
nghìn, trăm triệu năm nữa, thì có thể con voi lúc này không còn mang
những đặc điểm bộ phận giống như con voi mà năm ông thầy mù trong
truyện đó được bởi sau khi trải qua 1 thời gian, loài voi có thể tiến hóa,
sẽ có những thay đổi trên bộ phận cơ thể, điều này sẽ làm khác đi so với
loài voi cũ. Chân lý này có thể bây giờ vẫn đúng nhưng sang hôm sau
nó sẽ thành sai, điều đó có thể xảy ra.
Vậy nên từ cách đánh giá mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý
tuyệt đối, chúng ta phải thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào các
hoạt động thực tiễn để thứ nhất có thể tránh được những sai sót vì chân
lý luôn thay đổi, nó chỉ đúng trong một giới hạn nhất định, khi vượt qua
giới hạn đó thì nó sẽ trở thành sai; thứ hai là để nâng cao hiệu quả hoạt
động trong tự nhiên và xã hội

- Ý nghĩa: Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối
và tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và
khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu
tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu
hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính
tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương
đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết
hoài nghi và thuyết bất khả tri.

3. Tính cụ thể của chân lý


-Tính cụ thể của chân lý hay chân lý cụ thể: Chân lý đạt được trong quá trình
nhận thức bao giờ cũng phản ánh sự vật, hiện tượng trong một điều kiện cụ thể
với những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, trong một không gian và thời gian xác
định.Thoát ly những Điều kiện cụ thể này sẽ không phản ánh đúng đắn sự vật
hiện tượng. Do đó, Triết học Mác - Lênin khẳng định: “không có chân lý trừu
tượng”, “rằng chân lý luôn luôn là cụ thể”.Vì chân lý luôn cụ thể, nên phải
quán triệt nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động. Chống giáo
điều, rập khuôn, máy móc, xa rời thực tế. Tính chất này của chân lý là cơ sở
quan trọng cho quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
VD:Mọi nhà khoa học khi đưa ra 1 định lý đều kèm theo những điều kiện xác
định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó.
+nước sôi ở 100°C với điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe.
+Nhà toán học Pythagoras: Định lý pytago bình phương cạnh huyền bằng tổng
bình phương 2 cạnh góc vuông với điều kiện đó phải là 1 tam giác vuông

III. Vai trò:


- Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả khi con người vận
dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt
động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên
quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
- >Ví dụ như việc phát hiện ra hiện tượng phóng xạ vào năm 1896 bởi nhà vật lý
người Pháp Henri Becquerel và những nghiên cứu tinh chế và tổng hợp các
nguyên tố phóng xạ của hai vợ chồng Pierre Curie và Marie Curie đã tạo ra cơ
sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển của vật lí hạt nhân. Trong y tế, kỹ
thuật chụp ảnh cộng hưởng từ hay chụp X – quang được sử dụng rộng rãi để
chẩn đoán các tổn thương ở các mô mềm hay cơ quan trong cơ thể.
-
-Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ song trùng
trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý phát
triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những chân
lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
- Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt được chân
lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường xuyên tự
giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển thực tiễn,
nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
- Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào
trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó
về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn
hiện nay.
->Ví dụ: Sản xuất và ứng dụng vaccine trong phòng chống đại dịch: Trong bối
cảnh đại dịch COVID-19, việc coi trọng tri thức khoa học và áp dụng sáng tạo
trong việc phát triển, sản xuất và phân phối vaccine đã trở thành một ví dụ rõ
ràng về sự kết hợp giữa khoa học và thực tiễn kinh tế-xã hội.
- Ý nghĩa: Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính
tương đối và tính tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc
phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động.
Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi
vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại,
nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối
sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa
xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và thuyết bất khả tri.

You might also like