You are on page 1of 19

MỤC LỤC

I. Đặc điểm của quy luật logic


1.1 Tính khách quan của quy luật logic
1.2 Tính phổ biến của quy luật logic
1.3 Phạm vi tác động của các quy luật logic hình thức
II. Các quy luật logic hình thức cơ bản
2.1 Quy luật đồng nhất
2.2 Quy luật cấm mâu thuẫn
2.3 Quy luật bài trung
2.4 Quy luật lý do đầy đủ
III. Tổng kết
Lời mở đầu
Quy luật là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ khách quan, bên
trong, bản chất, bền vững, tất yếu, lặp đi lặp lại giữa các đối tượng hoặc giữa
các thành tố cấu tạo nên chúng. Mỗi một ngành khoa học đều nghiên cứu những
quy luật tác động trong lĩnh vực đối tượng nghiên cứu của mình. Logic học
cũng vậy, chỉ có Logic học mới nghiên cứu những “mối liên hệ logic”. Có rất
nhiều mối liên hệ logic: giữa các dấu hiệu trong khái niệm và giữa các khái
niệm với nhau, giữa các bộ phận của phán đoán và các phán đoán với nhau,
giữa có yếu tố của suy luận và giữa các suy luận với nhau,... Trong số các mối
liên hệ logic thì có một số gọi là quy luật logic.
Cụ thể, qua bài làm bài tập nhóm này, nhóm 3 lớp K10B chúng em sẽ tìm
hiểu về những đặc điểm của quy luật logic và những quy luật logic hình thức cơ
bản.
Bài làm
I. Đặc điểm của quy luật logic
1.1 Tính khách quan của quy luật logic
Các quy luật logic của tư duy mang tính khách quan bởi vì nó cũng tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức của con người. Sự ra đời và tồn tại của những quy
luật này không phải là sự “sáng tạo” của tư duy con người mà nó có nguồn gốc
tất yếu từ đối tượng được nhận thức. Chính sự tồn tại của hiện thực khách quan
trong tính sinh động, phong phú, phức tạp của mình đã quy định vào tư duy
những nguyên tắc tất yếu cho quá trình nhận thức đúng đắn. Vì thế, tư duy chỉ
có thể phản ánh đúng đắn hiện thực khi nó tuân thủ các quy luật của nhận thức
bất kể chủ thể nhận thức muốn hay không muốn.
1.2 Tính phổ biến của quy luật logic
Việc phân tích các hình thức của tư duy vẫn là chưa đủ, nếu không xem xét
cả các quy luật cơ bản của tư duy thẩm thấu và tác động trong chúng. Gọi là các
quy luật cơ bản vì:
Thứ nhất, chúng có tính chất chung, tổng quát đối với mọi tư duy, làm cơ
sở cho sự vận hành của toàn bộ tư duy ở mọi mắt khâu, mọi hình thức, trình độ,
cấp độ của nó. Vì các quy luật ấy phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ
căn bản, sâu sắc và chung nhất của thế giới khách quan và đó cũng là lý do làm
ta gọi chúng là phổ biến.
Thứ hai, chúng quyết định sự tác động của các quy luật khác, không cơ bản
như: quy luật quan hệ nghịch biến giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm,
luật chu diên của các thuật ngữ trong phán đoán đơn, các quy tắc xây dựng suy
luận,... Các quy luật cơ bản của tư duy lại được phân ra làm hai nhóm: các quy
luật logic hình thức và các quy luật logic biện chứng, nhưng chúng không hoàn
toàn tách rời nhau mà quan hệ xác định với nhau.
1.3 Phạm vi tác động của các quy luật logic hình thức
Các quy luật logic hình thức của tư duy là những quy luật chi phối tư duy
trong quá trình phản ánh đúng đắn đối tượng ở mặt hình thức của nó (hình thức
ở đây được hiểu là chính đối tượng ở một phẩm chất xác định hay ở trạng thái
tĩnh tại tương đối của nó). Đã là tư duy hình thức phản ánh đối tượng ở phẩm
chất xác định, nên các quy luật cơ bản của nó chỉ tác động ở phạm vi tư tưởng
phản ánh đối tượng ở mặt hình thức của đối tượng.
Trong quá trình nhận thức, việc phải tuân thủ các quy luật của tư duy hình
thức là điều kiện cần để nó có thể phản ánh đúng, chính xác hiện thực khách
quan, nhưng chưa đủ để đảm bảo tính chân thực của tư tưởng. Điều kiện đủ ấy
là việc nó còn phải tuân theo những quy luật biện chứng của tư duy phản ánh
đối tượng trong sự vận động biến đổi, phát triển không ngừng.
Vì vậy, quy luật tư duy hình thức hoàn toàn thống nhất với quy luật tư duy
biện chứng, bởi vì quá trình nhận thức là quá trình thống nhất giữa việc xem xét
đối tượng ở trạng thái đứng im tương đối, với việc nghiên cứu trong sự vận
động biến đổi, phát triển không ngừng. Việc tuân thủ các quy luật cơ bản của tư
duy hình thức sẽ đảm bảo cho nó có được các tính chất cơ bản của tư duy đúng
đắn phản ánh chân thực hiện thực khách quan là: tính nhất quán, tính phi mâu
thuẫn, tính xác định trong quá trình phản ánh và tính có cơ sở của những tư
tưởng phản ánh.
II. Các quy luật logic hình thức cơ bản
2.1 Quy luật đồng nhất
Cơ sở khách quan của quy luật: Cơ sở khách quan của quy luật là tính ổn
định tương đối, trạng thái đứng im tương đối của các đối tượng. Quy luật đồng
nhất quy định tính xác định của ý nghĩ, của tư tưởng về đối tượng nhất định ở
phẩm chất xác định, còn bản thân ý nghĩa tuân thủ quy luật này phản ánh sự
đồng nhất trừu tượng của đối tượng với chính nó.
Một trong những đặc tính căn bản của thế giới quanh ta là tính xác định về
chất của các đối tượng được phản ánh trong tư duy. Điều đó có nghĩa mặc dù
chúng không ngừng chịu những biến đổi thì trong những khoảng thời gian nhất
định chúng vẫn cứ còn là chúng, đồng nhất với bản thân. Như vậy, chúng tồn tại
trong sự thống nhất biện chứng giữa trạng thái đứng im tương đối và trạng thái
vận động, biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, mặc dù vận động và biến đổi là
tuyệt đối, vĩnh viễn, nhưng điều đó không có nghĩa là các đối tượng luôn thay
đổi, không để lại dấu vết gì, đến mức ta không thể biết được nó là cái gì? Để
nhận thức về đối tượng ở phẩm chất xác định, tức xét xem đối tượng là gì trong
một khoảng thời gian, không gian và một quan hệ xác định, phải trì tượng hoá
nó khỏi sự vận động, biến đổi. Với ý nghĩa như vậy, tính xác định về chất là đặc
trưng cơ bản của thế giới vật chất và ở phẩm chất xác định đối tượng luôn là
chính nó. Chỉ có như thế ta mới có thể nhận thức được đối tượng.
Ví dụ: Khái niệm vật chất trong triết học
Vật chất tồn tại vĩnh viễn
Cây bút này là vật chất -> Do đó cây bút này tồn tại vĩnh viễn.
Như vậy, có thể khẳng định cơ sở khách quan của đồng nhất là tính ổn
định tương đối, trạng thái đứng im tương quy đối của các đối tượng. Quy luật
đồng nhất quy định tính xác định của ý nghĩ, của tư tưởng về đối tượng ở phẩm
chất xác định, còn bản thân ý nghĩa tuân thủ quy luật này phản ánh sự đồng nhất
trừu tượng của đối tượng với chính nó.
Nội dung của quy luật
Quy luật đồng nhất được phát biểu như sau: Mỗi tư tưởng (khái niệm, phán
đoán) về đối tượng phải rõ ràng và giữ nguyên nghĩa trong suốt quá trình tư duy
và rút ra kết luận. Bên cạnh đó, trong quá trình suy nghĩ, lập luận, một tư tưởng
đã định hình phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định phải là đơn nghĩa và
luôn đồng nhất với chính nó. Ngoài ra, đồng nhất theo nghĩa thông thường:
giống nhau về tính chất nào đó.
Ví dụ: Câu tục ngữ có từ đồng âm sau:
“Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói xem quẻ nói rằng,
Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn.”
Trong hiện thực: Đồng nhất bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ khác
biệt.
Ví dụ: Sinh đôi đồng trứng, tạo ra một cặp cá thể người giống nhau y hệt
về bề ngoài.
Công thức của quy luật
Quy luật đồng nhất có thể được diễn đạt bằng công thức: A là A hay
A≡A. Trong đó, A là một tư tưởng bất kỳ phản ánh về một đối tượng nào đó.
Công thức này nói lên rằng trong quá trình tư duy, khi chúng ta sử dụng khái
niệm a thì khái niệm này luôn giữ nguyên nghĩa. Và trong logic ký hiệu, quy
luật đồng nhất có thể được biểu diễn bằng công thức A→A.
Ví dụ: Hà Nội là Thủ đô của Việt Nam có nền văn hóa rất phong phú.
Ví dụ: Khi nói TP. Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế của cả nước có chợ quận
Tân Bình, Dinh Độc Lập là đúng nhưng lại nói TP. Hồ Chí Minh có sông
Hương, chùa Thiên Mụ thì đã nhầm TP. Hồ Chí Minh với Huế tức là tư duy
không giữ đúng đối tượng lúc ban đầu mà chuyển từ đối tượng này sang đối
tượng khác.
Đặc điểm của quy luật
Cũng như các quy luật khác, quy luật đồng nhất phản ánh mối liên hệ bên
trong, bản chất, tất yếu của tư tưởng trong quá trình phản ánh hiện thực. Nó thể
hiện tính đồng nhất của tư tưởng với chính nó về mặt giá trị logic. Nó đảm bảo
cho tư duy tính xác định, nhất quán khi phản ánh, nhận thức.
Quy luật đồng nhất phản ánh tính nhất quán, tính xác định của tư tưởng.
Một mặt, nếu tư tưởng không được xác định thì không thể có tư tưởng. Mặt
khác, trong quá trình tư duy, chúng ta có thể mắc sai lầm khi vô tình thay đổi
khái niệm hay cố ý đánh tráo khái niệm. Khi đó, quy trình tư duy của chúng ta
đã vi phạm quy luật đồng nhất và tư duy của chúng ta là không đúng đắn,
thường dẫn tới các mâu thuẫn logic.
Quy luật đồng nhất không cản trở sự vận động, phát triển của thế giới
khách quan, cũng như sự thay đổi nội dung tư tưởng của con người để phản ánh
đúng đắn thế giới đó trong những hoàn cảnh thời gian, không gian và những
mối quan hệ khác nhau. Bởi vì, để phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực khách
quan đang vận động, phát triển, tư tưởng của con người cũng cần phải không
ngừng biến đổi cho phù hợp với sự biến đổi của thế giới đó.
Yêu cầu của quy luật
Yêu cầu 1: Không được thay đổi đối tượng tư tưởng. Nghĩa là, một tư
tưởng đã được định hình trong quá trình tư duy, phản ánh đối tượng có phẩm
chất xác định nào đó, trong điều kiện quan hệ nào đó, thì nó chỉ phản ánh đối
tượng có phẩm chất đó. Vi phạm điều này dẫn đến lỗi logic suy nghĩ sai về đối
tượng hay phản ánh không đúng đối tượng.
Ví dụ: Có một anh thanh niên lém lỉnh đang dạo chơi trong công viên gặp
một cháu bé cùng đi với người mẹ trẻ đẹp. Anh thanh niên này làm quen với hai
mẹ con; và một lát sau, anh ta đề nghị với cháu bé: “Này cháu, cho chú hôn má
cháu nhé”? Cháu bé hồn nhiên trả lời: “Chú hôn bao nhiêu và hôn kiểu gì cũng
được”. Anh thanh niên liền quay sang người mẹ hỏi thăm dò: “Chị ạ! Tôi đã xin
hôn má cháu, cháu nói hôn bao nhiêu và hôn kiểu gì cũng được”; “Chị cho phép
chứ”? Người mẹ vui vẻ nhìn con thơ, và thản nhiên đáp: “Nếu cháu đã đồng ý
thì chú cứ việc hôn”. Anh thanh niên này lập tức hôn mẹ (má) cháu mà không
hề hôn má cháu; còn người mẹ trẻ đẹp chỉ phản ứng bằng hành động mà không
thể phản ứng bằng lý lẽ,…
Yêu cầu 2: Ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng phải chính xác. Nghĩa là, khi nói
về đối tượng chúng ta phải chọn từ, chọn câu diễn đạt chính xác suy nghĩ của
chúng ta về đối tượng đó. Vi phạm yêu cầu này sẽ dẫn đến lỗi chọn từ - câu diễn
đạt sai lệch ý – nghĩa, tức là phản ánh không đúng đối tượng.
Ví dụ: câu chuyện Trạng Quỳnh và quả đào tiên dâng chúa. Có viên quan
dâng Chúa quả đào và gọi là đào bất tử, Trang liền giành lấy ăn, Chúa biết tin
liền phán tội chết. Trạng vội kêu rằng: “Thần thấy là đào bất tử nên ngỡ ăn vào
sống lâu, mà nay mới ăn xong đã mắc tội chết, vậy sao gọi là bất tử được”
Chúa giết thần, thực là bắt tội chết cho một người vô tội, mà tỏ rằng, thiên hạ
dối được Chúa mà Chúa vẫn tin. Nhà Chúa nghe điều phân tỏ của Trạng có lý
bèn tha tội chết cho Trạng.
Yêu cầu 3: Tư tưởng được nhắc lại phải đồng nhất với tư tưởng ban đầu.
Nghĩa là, khi nhắc lại tư tưởng của mình hay của người khác thì tư tưởng đó
phải giống với tư tưởng ban đầu. Vi phạm điều này sẽ dẫn đến lỗi logic thay đổi
đối tượng tư tưởng.
Ví dụ: Cô giáo hỏi học sinh: “Hai lần chín là bao nhiêu?” học sinh trả
lời: “Dạ, hai lần chín thì nhừ luôn ạ.”
Ý nghĩa của quy luật
Quy luật đồng nhất có vai trò quan trọng hàng đầu trong số các quy luật
của Logic hình thức. Qua các phân tích phần trên kết hợp các ví dụ đã phân tích
ta có thể kết luận.
Thứ nhất, nhận thức đúng quy luật đồng nhất giúp quá trình tư duy mạch
lạc, có tính xác định chặt chẽ và nhất quán. Giúp rèn luyện tư duy được mạch
lạc, linh động. Như các ví dụ đã lấy ở phần trên, nếu ko có quy luật đồng nhất sẽ
gây khó khăn cho việc tư duy, thực hiện các thao tác Logic gây nhầm lẫn và làm
quá trình tư duy bị sai lệch, rối loạn làm sai giá trị của các giá trị.
Thứ hai, là cơ sở để đánh giá, phê phán quan điểm sai trái. Cơ sở của quy
luật đồng nhất xuất phát từ tính xác định của tư tưởng, sự phản ánh tính xác
định, tính ổn định tương đối về chất của sự vật hiện tượng được phản ánh. Vì lẽ
đó qua quy luật ta có thể đánh giá, phê phán những quan điểm sai, bảo vệ cái
đúng đắn.
Thứ ba, giúp rèn luyện bản thân về khả năng nói, viết, lập luận hoặc triển
khai văn bản. Chính nhờ đặc điểm là định hình phản ánh đối tượng xác định ở
phẩm chất phải là đơn nghĩa và phải luôn đồng nhất với nó trong quá trình tư
duy suy luận đã giúp người thực hiện tuân theo quy luật tư duy năng động, linh
hoạt từ đó giúp cho quá trình hoạt động được năng động, khả năng nói, viết và
lập luận cũng chín chắn, sắc bén, nhanh nhạy hơn
Thứ tư, có vai trò quan trọng trong nhận thức khoa học. Trong nhận thức
khoa học sự đồng nhất có vai trò quan trọng, nếu không có sự đồng nhất thì
không thể xác định được nhiều nguyên lí, đặc tính, đặc điểm của các sự vật hiện
tượng, quy luật phản ánh tính xác định về chất, ổn định tương đối về lượng các
sự vật hiện tượng trong một không gian, thời gian và mối quan hệ xác định đã
giúp cho nhiều nghiên cứu, phát minh trong khoa học ra đời và phát triển mạnh.
Ứng dụng thực tiễn của quy luật trong hoạt động tư duy
Lĩnh vực Pháp lý là lĩnh vực có vai trò quan trọng trong cuộc sống, song
có đòi hỏi cao về sự năng động nhanh nhạy của người làm việc và hơn hết là
khả năng lập luyện, nói, viết đầy tính chính xác, chặt chẽ. Bởi lẽ đó có thể nói
rằng việc tuân thủ quy luật đồng nhất là điều kiện hàng đầu cho người làm trong
lĩnh vực pháp lý làm việc hiệu quả, chất lượng.
Đầu tiên, vận dụng quy luật đồng nhất giúp hoạt động của ngành Pháp lý
diễn ra bình thường, không bị rối loạn, thuận tiện. Nếu không có quy luật này
chắc chắn việc tư duy, sắp xếp làm việc, lập hồ sơ, xử lý vụ việc, áp dụng điều
luật sẽ gặp nhiều khó khăn, dẫn đến bế tắc và sai lầm.
Thông qua quy luật người làm việc sẽ năng động, nhanh nhạy, lập luận
chặt chẽ, đây là yếu tố quan trọng giúp ngành phát triển và mở rộng hơn. Từ đây
là điều kiện nền tảng thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện hơn cho lĩnh vực pháp
lý.
Vận dụng quy luật giúp ta định hình được đặc điểm, tính chất mối quan hệ
các sự vật hiện tượng, từ đây giúp thúc đẩy sự phát triển, sáng tạo và hoàn thiện
các bộ luật, các văn bản pháp luật. Nhận thức được bản chất vấn đề phê phán
những sự sai phạm thiếu sót của các bộ luật và đóng góp những ý kiến lập luận
chặt chẽ, lý luận chính xác cho quá trình phát triển các bộ luật.
Đặt mình trong vai trò là sinh viên Đại học Kiểm Sát Hà Nội, với ước mơ
tương lai là kiểm sát viên, quy luật đồng nhất có vai trò vô cùng quan trọng với
chúng ta.Từ đặc thù là ngành thực hiện quyền công tố, bảo vệ Hiến Pháp và
Pháp Luật ta thấy, nếu không có quy luật thì việc điều tra án, khám nghiệm hiện
trường sẽ hết sức khó khăn, khả năng phán đoán gặp nhiều hạn chế, sai lệch,
nhận thức về bản chất Pháp luật và các yếu tố quanh nó hạn chế tạo nhiều yếu
kém, không thể hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm. Đồng thời trong quá trình
học và nghiên cứu nếu không tuân thủ các nguyên tắc của quy luật sẽ gây hiểu
nhầm việc học tập đạt kết quả thấp, không thể dung nạp, hiểu sai bản chất sự
vật. Ngược lại khi nắm vững và tuân thủ theo nguyên tắc sẽ giúp ta thành công,
thuận lợi và hoàn thành tốt công việc, trở thành một Công Tố, Kiểm Sát Viên có
ích với đất nước.
2.2 Quy luật cấm mâu thuẫn
Cơ sở khách quan của quy luật:Khi khẳng định tính xác định về chất của
các sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực khách quan thì cũng có nghĩa là về
đối tượng đó ở một phẩm chất xác định, không thể đồng thời vừa là nó vừa
không phải là nó.
Hay nói cách khác, một thuộc tính bất kỳ của sự vật không thể đồng thời
vừa tồn tại vừa không tồn tại, vừa nằm trong mối quan hệ này lại không đồng
thời nằm trong mối quan hệ đó.
Ví dụ: Tại một phép tính so sánh không thể nói rằng 2> hoặc =1. Hay tại
một thời điểm không thể nói một bông hồng vừa có màu đỏ vừa không có màu
đỏ được.
Như vậy với cùng một đối tượng, trong cùng một mối quan hệ nếu có hai
tư tưởng trái ngược nhau thì không thể đồng thời cùng đúng. Khi sự vật vẫn
đang là nó và nếu nó được xem xét trong cùng một thời gian, cùng một quan hệ
thì không thể nói rằng nó vừa có vừa không có cùng thuộc tính nào đó. Nhưng
quy luật mâu thuẫn ở đây được nhắc đến là mâu thuẫn hình thức chứ không phải
mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thức là mâu thuẫn biện chứng là mâu
thuẫn về những lập luận logic trong cùng một chủ đề nào đó.
Ví dụ: Trong một cuộc thi hùng biện. cùng một đề tài nhưng các đội
có những lập luận biện chứng khác nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Nội dung của quy luật
Với cùng một đối tượng xem xét trong cùng một mối quan hệ tại cùng một
thời điểm thì không thể có hai tư tưởng đối lập nhau mà cả hai đều đúng.Quy
luật phi mâu thuẫn được biếu thị "không thể vừa A vừa phủ định A". Trong
logic ký hiệu, quy luật phi mâu thuẫn được biểu hiện bằng công thức A˄Ᾱ.
Quy luật phi mâu thuẫn đòi hỏi trong quá trình tư duy không được phép có
mâu thuẫn logic hình thức. Chẳng hạn, về cùng một đối tượng (tất nhiên là trong
cùng một quan hệ và cùng một thời điểm) trong quá trình tư duy, ta lại rút ra hai
tư tưởng đối lập nhau. Khi đó tư duy của chúng ta đã mắc sai lầm, hoặc là do vi
phạm quy luật đồng nhất (đánh tráo khái niệm) hoặc là sử dụng sai các quy tắc
suy luận. Điều đó buộc chúng ta phải tư duy lại.
Quy luật phi mâu thuẫn không chỉ đúng cho các cặp phán đoán mâu thuẫn
mà còn đúng cho các cặp phán đoán đối chọi. Nói cách khác, quy luật phi mâu
thuẫn đúng cho các phán đoán có quan hệ đối lập (các phán đoán mâu thuẫn và
đối chọi). Đó là các cặp phán đoán sau:
"S là P" và "S không là P" (phán đoán đơn nhất).
"Tất cả S là P" và "Tất cả S không là P" (các phán đoán nằm trong quan hệ
đối chọi trên).
"Tất cả S là P" và "Một số S không là P" (các phán đoán nằm trong quan
hệ mâu thuẫn loại trừ nhau).
"Tất cả S không là P" và "Một số" s là P" (các phán đoán nằm trong quan
hệ mâu thuẫn loại trừ nhau).
Quan hệ giữa các phán đoán trong từng cặp phán đoán này phải tuân theo
yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn. Các cặp phán đoán không cùng giá trị chân
thực, có ít nhất là một phán đoán trong các cặp đó có giá trị giả dối hoặc cả hai
phán đoán có thể cùng giả đối. Điều này có thể xảy ra khi cặp phán đoán nằm
trong quan hệ đối chọi trên. Quy luật phi mâu thuẫn không chỉ ra phán đoán nào
trong các cặp phán đoán trên mang giá trị chân thực.
Do vậy, nếu xác định được một phán đoán thuộc mỗi cặp trên mang giá trị
chân thực, thì tất yếu phán đoán kia mang giá trị giả dối. Ngược lại, nếu xác
định được một phán đoán trong mỗi cặp phán đoán trên mang giá trị giả dối, để
xác định được giá trị của phán đoán còn lại, chúng ta phải xem xét các cặp phán
đoán đó nam trong quan hệ cụ thể nào. Nếu chúng nằm trong quan hệ mâu
thuẫn, thì phán đoán còn lại có giá trị chân thực. Trường hợp các phán đoán đó
nằm trong quan hệ đối chọi trên thì chúng ta chưa xác định được giá trị của
phán đoán còn lại.
Quy luật phi mâu thuẫn chỉ cấm mâu thuẫn trong tư duy khi tư duy đó
phản ánh về đối tượng ở một quan hệ nhất định và trong thời gian, không gian
nhất định. Vì vậy, những trường hợp sau đây sẽ không vi phạm quy luật phi
mâu thuẫn.
Trong tư duy có hai phán đoán mâu thuẫn nhau, nhưng phản ánh về đối
tượng ở cùng một phẩm chất và ở trong những thời gian khác nhau, thì không bị
coi là vi phạm quy luật cấm mâu thuẫn.
Ví dụ: Thăng Long là Kinh đô của nước Việt (dưới thời Trần).
Thăng Long không phải là Kinh đô của nước Việt (dưới thời Nguyễn).
Trong tư duy có hai phán đoán mâu thuẫn nhau phản ánh về đối tượng ở
cùng một thời gian, nhưng ở những phẩm chất khác, nhau, nên không vi phạm
quy luật cấm mâu thuẫn.
Ví dụ: Hiện nay Hà Nội là Thủ đô của Việt Nam.
Hiện nay Hà Nội không phải là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
Trong tư duy có hai phán đoán mâu thuẫn nhau, nhưng phản ánh về hai đối
tượng khác nhau có cùng tên gọi, nên không bị coi là vi phạm quy luật cấm mâu
thuẫn. Bởi đây là hai đối tượng khác nhau có cùng tên gọi.
Ví dụ: Anh Bình là một học viên giỏi.
Anh Bình không phải là học viên giỏi.
Quy luật phi mâu thuẫn đảm bảo cho tư duy rõ ràng, chính xác. Nếu trong
quá trình tư duy nảy sinh mâu thuẫn logic thì tư duy đó là không đúng đắn,
thiếu tính nhất quán. Do vậy, tuân theo yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn là
điều kiện tất vếu đế tư duy phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, góp phần
nâng cao kết quả của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Trong tranh luận người
ta thường sử dụng rộng rãi phương pháp quy về sự vô lý để bác bỏ những ý kiến
nào đó có dung chứa mâu thuẫn, phản ánh không đúng đối tượng.
Yêu cầu đặt ra từ quy luật đối với quá trình tư duy
Thứ nhất, không được mâu thuẫn trực tiếp trong lập luận, trong tư tưởng
khi muốn khẳng định một dấu hiệu hoặc một thuộc tính thuộc về đối tượng,
đồng thời lại phủ định ngay chính thuộc tính hoặc dấu hiệu đó.
Ví dụ: Độ Mixi và G-dragon giống nhau y đúc, khác nhau mỗi cái mặt.
Nhưng trong thực tế, có thể thấy những câu nói có vẻ mâu thuẫn trực tiếp
nhưng lại có ít thể chấp nhận được như: “Lớp ta học kỳ này có nhiều điều tốt
nhưng cũng có không ít điều chưa tốt”. Trong trường hợp nào yêu cầu không
được mâu thuẫn vẫn được tôn trọng, vì từ “có” được hiểu được với nhiều nghĩa
nên từ đó làm cho câu không bị mâu thuẫn.
Thứ hai, không được có mâu thuẫn gián tiếp trong tư duy ( khẳng định một
dấu hiệu, một thuộc tính thuộc về đối tượng nhưng những hệ quả suy ra từ thuộc
tính, dấu hiệu đó lại phủ định chính nó )
Ví dụ: Lớp trưởng hỏi cả lớp “Ai vắng mặt thì giơ tay”
So với mâu thuẫn trực tiếp thì mâu thuẫn gián tiếp khó nhận thấy hơn
nhiều. Chính vì vậy, ta cần tăng cường rèn luyện tư duy để tăng khả năng phát
hiện mâu thuẫn trong chính suy luận của mình và người khác, phát hiện điều
không ổn chính là phát hiện ra khả năng chứa mâu thuẫn gián tiếp của nó. Ta có
thể đặt các câu hỏi cho người suy luận trả lời và từ đó biến mâu thuẫn gián tiếp
thành trực tiếp.Ngoài ra, ta còn lưu ý một số yêu cầu khác cho quá trình tư duy:
Đầu tiên khi thừa nhận một vấn đề là chân lý thì trong suy luận không được
thừa nhận một vấn đề khác đối lập với nó cũng là chân lý. Ví dụ: Một người
phát biểu: “Mỹ là cường quốc số một thế giới sau đó lại cho là Trung Quốc có
khả năng đánh bại Mỹ”. Người này đã tự mâu thuẫn ngay trong quan điểm của
mình. Tiếp theo, không được xuất phát từ tiền đề sau để khẳng định mệnh đề đối
lập nó là sai. Bởi vì, mệnh đề đối lập với tiền đề sai hoàn toàn có thể sai hoặc
đúng. Ví dụ: Một cậu bé nói: “Người đàn ông này không phải thợ sửa ống
nước” là phán đoán sai thì không thể nói mệnh đề “Người đàn ông này là thợ
sửa ống nước” đúng được.
Thứ tư, khi tư duy không được nhầm lẫn hay tự ý thay đổi quan hệ của đối
tượng khi đang xem xét nó.
Ví dụ: Cô gái điếc nhưng nghe được. Nói như vậy là mâu thuẫn vì đã
“điếc” thì không “nghe được” và đã “nghe được” thì không “điếc”. Vì “nghe
được” không phải thuộc tính vốn có của người bị điếc mà người nói đã tự ý
thay đổi mối quan hệ của 2 đối tượng trong câu làm câu văn bị sai.
Ý nghĩa của quy luật
Không có mâu thuẫn logic trong tư duy là điều kiện cần thiết của nhận thức
chân lý. Quy luật cấm mâu thuẫn biểu thị tính chất cơ bản của tư duy đó là tính
liên tục và không có mâu thuẫn, tôn trọng các yêu cầu của quy luật là điều kiện
cần thiết để tránh mâu thuẫn trong tư duy khi phản ánh về đối tượng ở cùng một
phẩm chất, trong cùng một thời gian, một điều kiện và một mối quan hệ.
Ứng dụng của quy luật trong hoạt động tư duy
Là sinh viên của Đại học Kiểm sát, việc nắm bắt những đặc điểm, hiểu
được bản chất, vận dụng quy luật cấm mâu thuẫn trong tư duy là rất cần thiết
trong quá trình học tập và công tác hành nghề liên quan đến lĩnh vực Tư pháp
sau này. Ngành Luật yêu cầu sự chính xác, chặt chẽ trong tư tưởng, tư duy lẫn
ngôn ngữ giao tiếp. Vậy nên quy luật tránh mâu thuẫn sẽ giúp ta truyền tải thông
tin chính xác, không gây hiểu lầm cho người khác.
2.3 Quy luật bài trung
Theo như quy luật mâu thuẫn khẳng định: hai tư tưởng, mâu thuẫn không
thể cùng chân thực. Nhưng không cho biết, chúng có thể cùng giả dối không.
Luật bài trung sẽ trả lời câu hỏi đó. Hiểu như vậy, luật bài trung như là sự
bổ sung nghĩa cho luật mâu thuẫn (và suy ra, cho cả quy luật đồng nhất). Sự tác
động của nó cũng bị chế định bởi tính xác định của tư duy, tính nhất quán và phi
mâu thuẫn của nó. Mặc dù vậy, quy luật bài trung còn có tính độc lập tương đối,
có lĩnh vực tác động và vai trò của riêng mình.
Cơ sở khách quan của quy luật bài trung cũng chính là tính xác định về
chất của các đối tượng, một cái gì đó tồn tại hay không tồn tại, thuộc lớp này
hay lớp khác, nó vốn có hay không có tính chất nào đó v.v… chứ không thể có
khả năng nào khác. Vì thế, nếu thế giới thường bị phân sẻ thành “có - không”,
thì để phản ánh tin cậy về thế giới ấy tư duy cũng không thể không mang tính
tình thế. Trong tư duy nhất định cũng phải có tác động của quy luật bài trung.
Nội dung của quy luật: “Hai phán đoán mâu thuẫn nhau về cùng một đối
tượng, được khảo cứu trong cùng một thời gian và trong cùng một quan hệ,
không thể đồng thời giả dối: một trong chúng nhất định phải chân thực, cái còn
lại phải giả dối, không có trường hợp thứ ba”
Công thức của quy luật này là: “a v 7a”
Ta có thể hiểu sự tác động của quy luật và mối liên hệ của nó đến khái
niệm qua hai cặp phán đoán có các vị từ là những khái niệm không điều hòa.
Ví dụ:
1. “Bạn A xinh” - “Bạn A xấu”
2. “Bạn A xinh” - “Bạn A không xinh”
Ở đây, cặp thứ nhất vị từ là các khái niệm đối lập nhau (“xinh” và “xấu”)
còn ở cặp thứ hai là các khái niệm mâu thuẫn (“xinh” và “không xinh”). Giữa
các khái niệm không chỉ có sự giống nhau, mà có cả sự khác biệt. Các khái
niệm đối lập phủ định nhau, nhưng không lấp đầy ngoại diện của khái niệm loại
chung. Luật mâu thuẫn trả lời chúng không thể cùng chân thực nhưng có thể
cùng giả dối, vì không bao quát được tất cả tình thế có thể. Ta có thể trả lời
“Bạn A có ngoại hình trung bình”
Còn khái niệm mâu thuẫn (“xấu” - “không xấu”) không chỉ phủ định mà
còn lấp đầy ngoại diên của khái niệm loại chung. Vì vậy, theo quy luật mâu
thuẫn chung, hai phán đoán với các vị từ không thể cùng chân thực và theo quy
luật bài trung các phán đoán đồng thời không thể cùng giả dối. Vì đơn giản ở
đây không có giải pháp thứ ba, bạn A xinh hoặc không xinh. Tính quy luật đó là
thuộc tính của những phán đoán kiểu này và đều được phản ánh trong quy luật
bài trung.
Như vậy, ta biết được lĩnh vực tác động của quy luật bài trung hẹp hơn so
với quy luật mâu thuẫn; ở đâu có luật bài trung, ở đó nhất định có quy luật mâu
thuẫn, nhưng ở nhiều nơi quy luật mâu thuẫn tác động, mà quy luật bài trung thì
không. Quy luật bài trung là kết quả khái quát thực tiễn sử dụng phán đoán, thể
hiện các quan hệ của chúng về tính giả dối. Quy luật bài trung tác động trong
quan hệ giữa các phán đoán mâu thuẫn (A - O; E -I), điều đó có nghĩa là quy
luật bài trung loại bỏ những mâu thuẫn trong trường hợp nêu ra những phán
đoán trái ngược nhau ở một trong ba kiểu sau:
Thứ nhất, khi một phán đoán khẳng định một điều gì đấy đối với đối tượng
đơn nhất, rồi phán đoán khác lại phủ định chính điều đó (vẫn về đối tượng ấy,
trong cùng một thời gian và một quan hệ) (A - E, đơn nhất)
Thứ hai, một phán đoán khẳng định điều gì đó về toàn bộ lớp đối tượng,
rồi phán đoán khác lại phủ định chính nó đối với một số của lớp ấy (A - O).
Thứ ba, một phán đoán phủ định điều gì đó về toàn bộ lớp đối tượng, rồi
phán đoán khác khẳng định chính nó với một số đối tượng của lớp ấy (E - I).
Trong cả ba trường hợp đã nêu, theo quy luật bài trung một phán đoán nhất
định phải chân thực, còn phán đoán kia là giả dối. Nhưng nó không tác động
trong các mối quan hệ qua lại giữa các phán đoán đối lập (A - E, toàn thể), dù
quy luật mâu thuẫn tác động cả ở đây: chúng không thể đồng thời chân thực,
nhưng có thể đồng thời giả dối, vì vậy mà không nhất thiết tuân theo quy luật
bài trung.
Quy luật bài trung cũng thể hiện ở trong suy luận và pháp chứng minh.
Quy luật bài trung là cơ sở của suy luận trực tiếp thông qua biến đổi phán đoán
và thông qua quan hệ của các phán đoán mâu thuẫn trên hình vuông logic.
Không thể thực hiện được chứng minh gián tiếp nếu không có sự tác động của
quy luật này: khi xác lập tính giả dối của luận đề nào đó, thì bằng cách đó đã là
chứng minh chân thực của phản đề, vì chúng không thể đồng thời giả dối.
Yêu cầu đặt ra từ quy luật đối với quá trình tư duy
Con người thường phải đối mặt trước tình trạng lưỡng nan theo kiểu: lựa
chọn một trong số các tư tưởng đã không chỉ khác nhau mà còn phủ định nhau.
Luật bài trung yêu cầu ta phải lựa chọn một trong hai theo nguyên tắc “hoặc là,
hoặc là” (không có giải pháp thứ ba). Điều đó có nghĩa là: “trong việc giải quyết
vấn đề mang tính giải pháp thì không được lảng tránh câu trả lời xác định;
không thể tìm cái gì đó trung gian, đứng giữa, thứ ba.
Sự vi phạm yêu cầu lựa chọn thường được biểu hiện khác nhau. Nhiều khi
chính vấn đề được đặt ra, được định hình không phải theo cách giải pháp mâu
thuẫn nhau. Nói chung, quy luật bài trung chỉ tác động trong các mệnh đề mâu
thuẫn như đã nêu trên, nhưng chúng phải là những mệnh đề có nghĩa. Chứ
không phải những mệnh đề kiểu như Heghen đã mỉa mai đưa ra: “tinh thần màu
xanh” và “tinh thần màu không xanh”. Không có mệnh đề nào trong số chúng là
chân thực, vì cả hai đều vô nghĩa. Đã là vô nghĩa thì không chân thực mà cũng
không thể nói là giả dối. Nhưng nếu câu hỏi được nêu ra thích hợp dưới dạng
tình thế phải lựa chọn, thì việc lảng tránh câu trả lời xác định, cố tìm cái gì đó
thứ, sẽ là sai lầm.
Ví dụ: Nếu hỏi “Cậu yêu hay không yêu anh ấy” thì chỉ có thể chọn câu
trả lời “Yêu” hoặc “không yêu”.
Ý nghĩa của quy luật
Quy luật bài trung không thể chỉ chỉ ra chính xác phán đoán nào trong số
hai phán đoán mâu thuẫn là chân thực. Nhưng nó có ý nghĩa chỉ ra cho con
người những giới hạn xác định để tìm ra chân lý. Chân lý ấy chỉ ở một trong hai
mệnh đề loại trừ nhau. Ngoài phạm vi ấy thì mọi tìm kiếm là vô ích. Còn bản
thân việc lựa chọn phán đoán nào trong số chúng là chân thực lại phải do các
phương tiện khoa học, thực tiễn đảm nhận, đặc biệt, nhờ sự phân tích cụ thể
biện chứng đối tượng nghiên cứu.
Ứng dụng thực tiễn của quy luật trong hoạt động tư duy
Đối với sinh viên Đại học Kiểm sát, việc xem xét hoàn cảnh, tình huống là
rất quan trọng, đặc biệt là trong những tình huống lưỡng nan, khi bắt buộc phải
chọn một trong hai, không có lựa chọn thứ ba. Vì vậy, việc vận dụng quy luật
bài trung sẽ cho ta cái nhìn toàn diện nhất về vấn đề để đưa ra những lựa chọn
đúng nhất. Đồng thời qua đó, nhờ có quy luật bài trung, hoạt động tư duy của ta
trở nên quyết đoán hơn, nhanh nhạy hơn trong xử lý tình huống.
2.4 Quy luật lý do đầy đủ
Cơ sở khách quan của quy luật: Các đối tượng xác định về chất có quan
hệ nhất định với nhau, phát sinh từ các đối tượng khác và đến lượt mình chúng
lại sản sinh ra những đối tượng thứ ba, biến đổi và phát triển trong quá trình
tương tác lẫn nhau.
Sự phụ thuộc lẫn nhau trong tồn tại khách quan của các đối tượng là quan
trọng nhất cho sự xuất hiện và tác động trong tư duy của quy luật lý do đầy đủ.
Quy luật này được Népnít khám phá và lần đầu tiên phát biểu: “Không một lập
luận nào có thể được công nhận là chân thực nếu thiếu những cơ sở đầy đủ cần
thiết”.
Nội dung quy luật: “Mọi tư tưởng đã định hình được coi là chân thực nếu
như đã rõ toàn bộ các cơ sở đầy đủ cho phép xác minh hay chứng minh tính
chân thực ấy”.
Công thức (có thể) là: “a chân thực vì có b là cơ sở đầy đủ”
Trong quy luật lý do đầy đủ, được chia ra là hai loại cơ sở: cơ sở khách
quan và cơ sở logic. Nguyên nhân là cơ sở khách quan, kết quả tác động của nó
là hệ quả. Còn cơ sở logic có thể là việc dẫn nguyên nhân, mà cũng có thể hệ
quả để suy ra một kết luận khác.
Quy luật lý do đầy đủ biểu thị quan hệ của những tư tưởng chân thực với
những tư tưởng khác - quan hệ kéo theo logic, xét đến cùng, là đảm bảo sự
tương thích của chúng với hiện thực. Quy luật này có nghĩa là, kết luận luôn
luôn có đầy đủ cơ sở trong lập luận đúng. Không một lập luận nào có thể được
công nhận là chân thực nếu thiếu những cơ sở đầy đủ cần thiết.
Các yêu cầu của quy luật lý do đầy đủ
Yêu cầu 1: Muốn khẳng định một tư tưởng bất kỳ nào đó là chân thực,
phải có đủ cơ sở để lập luận cho tính đúng đắn chân thực của nó.
Yêu cầu 2: Các tư tưởng, tri thức dùng để làm tiền đề cho quá trình nhận
thức, tư duy tiếp theo, trước hết phải là tri thức chân thực, đồng thời phải có
quan hệ tất yếu với cái mà ta cần chứng minh.
Để khẳng định hoặc phủ định một luận điểm nào đó, một mặt các tư tưởng,
tri thức đã biết dùng để khẳng định hoặc phủ định phải chân thực, lại vừa phải
đầy đủ. Nếu thừa sẽ thành minh chứng rườm rà, trùng lặp; nếu thiếu sẽ thành
kết luận phiến diện, khái quát các đặc thù thành cái phổ biến.
Ý nghĩa của quy luật: Quy luật này mặc dù không cho ta biết cụ thể những
cơ sở nào là đủ đối với một kết luận nào đó. Tuy nhiên, nó sẽ thắt chặt kỷ cương
cho tư duy, hướng tư duy đi tìm kiếm những cơ sở như thế, đến việc đảm bảo
cho tính có cơ sở của kết luận.
Ứng dụng thực tiễn của quy luật trong hoạt động tư duy
Nhờ việc áp dụng quy luật lý do đầy đủ đảm bảo cho tính có cơ sở của kết
luận, tạo cho tư duy tính chính xác, tính có căn cứ trong quá trình phản ánh hiện
thực khách quan.
Nói phải có sách mách phải có chứng, không nên vội vã đưa ra nhận xét,
kết luận về một điều gì ấy khi chưa đủ bằng chứng xác đáng để giải thích,
chứng minh cho tính chân thực hay giả dối của nó. Không nên vội tin hay bác
bỏ ngay những điều mà tư duy ta còn mơ hồ chưa xác định được giá trị logic
của nó. Quy luật đầy đủ giúp ta suy nghĩ, hành động một cách thận trọng chắc
chắn, không tiếp thu bằng niềm tin mù quáng. Trong lập luận giúp ta tăng tính
thuyết phục.
Ví dụ: Để có thể khẳng định A là một sinh viên giỏi chúng ta phải có căn
cứ, cơ sở về năng lực học tập của A: quá trình và kết quả học tập, giải thưởng từ
các cuộc thi, phương pháp học tập, thời gian học tập của A,... Đồng thời những
căn cứ cơ sở này phải được xác nhận tính chân thực, đúng đắn, được cung cấp
từ nguồn thông tin đáng tin cậy như từ những các giảng viên, những người bạn
học của A, ban tổ chức những cuộc thi mà A tham gia. Có thế mới có thể khẳng
định được A là một sinh viên giỏi
Danh sách tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thúy Vân - Nguyễn Anh Tuấn, Logic học Đại cương, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà nội,
2013.
2.

You might also like