You are on page 1of 3

TEXT 1 – UNIT 3

NAME: NGO THI PHUONG ANH


CLESS: 21E10

MỘT CUỘC CÁCH MẠNG TRONG GIÁO DỤC VIỆT NAM

Giáo dục là vấn đề trung tâm của cuộc tranh luận sôi nổi vào những ngày
cuối năm 1998. Khi các học giả tranh luận trên báo chí rằng chính phủ đã không
đầu tư đúng mức vào các trường phổ thông và đại học, Ngân hàng Thế giới đã
đưa ra báo cáo toàn diện nhất từ trước đến nay về chủ đề này, chỉ ra những điểm
yếu, bất cập cần khắc phục nếu Việt Nam muốn có một hệ thống giáo dục ngang
tầm với thách thức của nền kinh tế thị trường tự do mới.

Câu hỏi về lương giáo viên là trọng tâm của cuộc tranh luận gay gắt đang diễn
ra ở Việt Nam về hệ thống giáo dục nhà nước và làm thế nào để hệ thống này đủ
tốt cho nền kinh tế thị trường mới mà nước này đang chuẩn bị cho học sinh. Đại
hội Đảng lần thứ VIII xác định đây là một trong những cuộc khủng hoảng lớn
nhất của đất nước và tháng trước đã chọn đây là một trong những vấn đề đầu
tiên nảy sinh từ Quốc hội để tranh luận ở cấp Ủy ban Trung ương. Trong số
những điểm trọng tâm trong đánh giá sâu rộng và thẳng thắn về nền kinh tế Việt
Nam của Ngân hàng Thế giới có các khuyến nghị đối với việc:
 Tăng lương cho giáo viên.
 Tăng giờ học.
 Khắc phục tình trạng mất cân đối trong trợ cấp dành cho học sinh khá giả
trong giáo dục đại học.
 Cải thiện tiêu chuẩn giảng dạy.
 Tinh chỉnh đào tạo nghề để thu hẹp khoảng cách kỹ năng khiến hàng
nghìn sinh viên tốt nghiệp không có kỹ năng thị trường.

Đó là một lối rẽ có ý nghĩa to lớn ở một đất nước luôn coi trọng giáo dục hơn
hầu hết mọi khía cạnh khác của đời sống văn hóa. Năm 1992, hiến pháp sửa đổi
mô tả giáo dục là “chính sách quốc gia hàng đầu”. Nhiều học giả hiện tin rằng
chính phủ không thực hiện đúng cam kết và tiêu chuẩn khoa học và giáo dục đã
đi xuống trong những năm gần đây.

Những bất cập trong giáo dục rất dễ nhận thấy: một ngày đi học chỉ dài 4 tiếng,
ngắn hơn 25% so với hầu hết các nước và năm học ngắn hơn ít nhất 20 ngày.
Giáo viên được trả lương thấp. Chi tiêu cho giáo dục chưa được cân bằng tốt với
số tiền cực kỳ không cân xứng dành cho một số ít học sinh ở bậc đại học và
không đủ cho bậc tiểu học. Và nhiều trường học, đặc biệt là ở cấp tiểu học,
tuyển dụng giáo viên không có trình độ chueeyn môn phù hợp.

Vậy điều gì đã xảy ra? Bradley Babson, nguyên đại diện thường trú tại Việt
Nam của Ngân hàng Thế giới, lập luận: "Giáo dục đã bị ảnh hưởng bởi quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Về nhiều mặt, ngành giáo dục đã ở thế
trì trệ trong 5 năm qua. Ban lãnh đạo đang tập trung vào các vấn đề khác." Hiện
đang có sự thay đổi trọng tâm và nhận thức tầm quan trọng của người dân Việt
Nam đối với sự thành công trong tương lai của các chính sách và tham vọng của
Chính phủ.

Đó không phải là một tình huống mà chính phủ đã mù quáng. Trung ương
Đảng đã ban hành nghị quyết riêng liên quan đến giáo dục ở Việt Nam trước báo
cáo của Ngân hàng Thế giới và kết luận của nó mang tính tự phê phán sâu sắc.
Nó mô tả hệ thống này là "lạc hậu và lỗi thời" và không đáp ứng được nhu cầu
của sinh viên, gia đình và nhân viên của họ. Nghị quyết nêu rõ: “Hai mươi năm
trước, trình độ giáo dục và đào tạo ở Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh
giá là tiên tiến. Hiện nay tình hình đã thay đổi”. “Học sinh giỏi của Việt Nam
ngang bằng với các nước nhưng nhìn chung, do thiếu trầm trọng cơ sở vật chất,
trang thiết bị nên học sinh ở đây có sự chênh lệch lớn về kỹ năng và kiến thức.

Báo cáo kết luận Việt Nam đang “đi đúng hướng hoặc thậm chí vượt tiến độ”
với tỷ lệ tuyển sinh bậc đại học là 5%. Đây dường như là tin an ủi cho các nhà
giáo dục Việt Nam. Thực tế rõ ràng là những con hổ châu Á đã lao vút về phía
trước để lại cho Việt Nam những bài học duy nhất cần nắm bắt về cách cập nhật
hệ thống giáo dục của mình để đi theo con đường tương tự.

Ngay cả mục đích đơn giản là kéo dài thời gian của một ngày học cũng có nghĩa
là hệ thống "ca" gấp đôi hoặc gấp ba hiện nay để phù hợp với nhiều học sinh
hơn trong một ngày học sẽ phải bị bãi bỏ, đòi hỏi một chương trình xây dựng và
nâng cấp trường học lớn. Để đáp ứng những chi phí đó, đồng thời tăng lương
giáo viên lên ít nhất 40%, đồng thời cải tổ toàn bộ hệ thống đào tạo để đảm bảo
chất lượng giảng dạy ở mọi cấp độ sẽ đòi hỏi phải tăng mạnh ngân sách.

Các đề xuất khác nhằm chi nhiều hơn cho sách giáo khoa và thiết bị trường
học, phát triển đào tạo nghề hiệu quả hơn và đưa ra các khoản trợ cấp để giúp đỡ
học sinh nghèo hơn cũng liên quan đến những khoản tiền đáng kinh ngạc. Việt
Nam chi 15% ngân sách cho giáo dục và đào tạo, mức thấp so với các nước
trong khu vực. Những khoản viện trợ khổng lồ đang chờ được chuyển đến Việt
Nam nếu chính phủ quyết định cầm đầu. Ông Babson lập luận rằng "Phụ thuộc
rất nhiều vào việc Bộ Giáo dục và Đào tạo (MOET) có sẵn sàng chuyển sang vai
trò lãnh đạo trong việc kích thích và phát triển chất lượng giáo dục cần thiết hay
không. Dấu hỏi lớn là liệu MOET có có thể đương đầu với thử thách, đồng thời
có tầm nhìn và khả năng quản lý để giải quyết một số vấn đề này.

Việt Nam đã thức tỉnh trước cuộc khủng hoảng trong các trường phổ thông
và đại học. Những tháng đầu năm 1999 cho thấy liệu nước này có tầm nhìn xa
để giải quyết vấn đề theo cách tiến bộ hay không. Trong con mắt của cả Việt
Nam và thế giới bên ngoài, vấn đề là phải làm gì với tài sản quý giá nhất của
quốc gia. Ông Babson nói: “Tài sản của Việt Nam gần như hoàn toàn nằm ở con
người”. “Khả năng của Việt Nam trong việc tạo ra một dân số sáng tạo, năng
động, có năng suất cao, có thể tận dụng sự tự do trong quá trình mở cửa nền
kinh tế là điều mà người dân đang đặt hy vọng vào tương lai của đất nước.

Người ta tin rằng việc tăng lương cho giáo viên là bước đi quan trọng nhất cần
thực hiện ngay lập tức. Một quan chức giáo dục Việt Nam cho biết: “Nếu được
thực hiện thành công, nó có thể tạo ra những thay đổi lớn ngay lập tức cho nền
giáo dục Việt Nam. Về lâu dài, nhiều học sinh giỏi sẽ mong muốn trở thành giáo
viên và nâng cao chất lượng giảng dạy.

You might also like