You are on page 1of 48

CHƯƠNG 1: TRUYỀN THÔNG, TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG,

XÃ HỘI HỌC TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG


I. Các khái niệm
1. Truyền thông
1.1. Khái niệm
“Truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin
nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người”.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của truyền thông
- Truyền thông là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu
tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các
qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi
tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và
người nhận.
- Về mục đích, truyền thông hướng đến những hiểu biết chung nhằm thay
đổi thái độ, nhận thức, hành vi của đối tượng truyền thông và tạo định hướng giá
trị cho công chúng. Do đó, để được coi là truyền thông, thông tin được chia sẻ,
trao đổi phải
tính chất tích cực, hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ.
- Truyền thông là một môi trường văn hóa thuộc về đời sống tinh thần của
con người. Đó là hoạt động không thể thiếu, tồn tại hằng ngày, hàng giờ, trong
tất cả các mối quan hệ xã hội. Có thể nói rằng, con người không thể tồn tại nếu
như không có hoạt động truyền thông. Hiệu quả của hoạt động truyền thông sẽ
nói lên tài năng, trình độ, trí tuệ và phẩm chất đạo đức của con người.
- Về loại hình, hiện nay giới nghiên cứu đã thống nhất phân chia 3 loại
hình của hoạt động truyền thông, là:
+ Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác)
+ Truyền thông tập thể (trong nội bộ một công ty, hiệp hội hay lớp học...)
+ Truyền thông đại chúng.
Tuy nhiên, người ta còn có thể phân loại truyền thông theo nhiều cách
khác như sau:
- Truyền thông với người khác (liên cá nhân chẳng hạn) và truyền thông
với chính mình (tự nói chính mình, viết nhật ký)

1
- Truyền thông trực tiếp và truyền thông gián tiếp (qua trung gian người
khác hoặc qua một phương tiện kỹ thuật nào đó)
- Truyền thông một chiều và truyền thông có qua có lại
- Truyền thông riêng tư và truyền thông công cộng
- Truyền thông sơ cấp (trong tình huống gặp gỡ trực diện) và truyền thông
thứ cấp (không trực diện) (TTĐC là một trường hợp đặc biệt của loại truyền
thông thứ cấp này)
- Truyền thông theo chiều ngang và truyền thông theo chiều dọc (theo trật
tự thứ bậc và địa vị của một nhóm hay một cộng đồng, xã hội)
1.3. Qúa trình truyền thông
Mỗi khi đề cập đến quá trình truyền thông người ta thường nhắc tới công
thức "5W" nổi tiếng của Lasswell: Ai nói, Nó cái gì, Bằng kênh nào, Nói cho ai,
và có hiệu quả gì?". Đây là một công thức rút gọn gợi ý giúp chúng ta phân biệt
những yếu tố chính phải có trong nội dung một bản tin. Tuy nhiên giới hạn của
công thức này chỉ hình dung quá trình truyền thông như một đường thẳng (tuyến
tính) giữa một đầu là người phát tin (transmitter) và một đầu là người nhận tin
(receiver). Do đó với công thức này người ta dễ rơi vào quan niệm về người
nhận tin mag tính thụ động
NGƯỜI PHÁT TIN NGƯỜI NHẬN TIN
Kênh truyền tin

Về sau các nhà nghiên cứu không còn quan niệm như trên mà quan niệm
quá trình truyền thông như một chu kỳ, với dạng đường vòng khép kín, trong đó
bao gồm 4 giai đoạn chính như sau:
1.3.1. Giai đoạn phát tin
Trong tiếng Anh, động từ "to communicate" (truyền thông) bắt nguồn từ
"common" có thể hiểu theo nghĩa ban đầu là làm cho một thông tin nào đó trở
thành "cái chung", tức là phổ biến cho mọi người cùng biết. Truyền thông là
diễn tả một ý tưởng của mình bằng một hệ thống tín hiệu (signs) dưới dạng ngôn
ngữ hoặc cử chỉ, nghĩa là bằng một thứ mã (code) mà người phát tin nắm được -
thao tác này gọi là mã hóa (coding). Có thể nói mỗi ngôn ngữ là một hệ thống
mã: tiếng nói của chúng ta là một chuỗi các âm thanh, còn chữ viết là một chuỗi

2
những kỹ tự, và những âm thanh hay ký tự này được sắp xếp và phối hợp với
nhau theo một số quy tắc ngữ pháp nhất định mang những ý nghĩa nào đó.
Trong giai đoạn phát tin (emission) giữa thao tác "phác thảo thông điệp
trong đầu" và thao tác "mã hóa" thường xảy ra một thứ hiện tượng giống như "bị
nhiễu": nội dung thông điệp (message) sau khi được mã hóa đôi khi không hoàn
toàn phản ánh chính xác nội dung thông điệp vốn được hình dung trong đầu.
Hiện tượng này gọi là filtering (hiện tượng "bị lọc"). Sở dĩ có hiện tượng này,
một mặt có thể do người phát tin chưa hoàn toàn làm chủ được ngôn ngữ thường
không cho phép diễn đạt được hết những ý tứ hoặc những sắc thái tế nhị hoặc
phức tạp mà người phát tin muốn bày tỏ. Chính vì khả năng xảy ra hiện tượng
"bị lọc" này nên chúng ta mới cần phân biệt rạch ròi giữa khâu "phác thảo thông
điệp trong đầu" và khâu "mã hóa".
1.3.2. Giai đoạn truyền tin
Giai đoạn truyền đạt thông tin (transmission) có thể diễn ra bằng hình
thức tiếp xúc trực tiếp, mặt đối mặt (đối diện) giữa người phát và người nhận tin,
nhưng cũng có thể thông qua một phương tiện kỹ thuật trung gian hay một kênh
truyền thông nào đó (medium) như điện thoại, máy fax, máy nhắn tin, thư từ
(viết trên giấy), thư điện tử (email)...Cũng có khi "kênh truyền thông" lại là
người thứ ba, đóng vai trò trung gian, mà người phát tin nhờ nhắn tin lại cho
người sẽ nhận tin. Khi thông điệp được chuyển qua một trung gian nào đó thì rất
có khả năng bị nhiễu bởi những loại tiếng động hay tiếng ồn khác nhau, và do đó
nội dung thông điệp có thể bị sai lạc hoặc bị mất đi một phần nào đó. Mặt khác,
trong trường hợp truyền tin thông qua một người thứ ba thì rất có thể bộ lọc chủ
quan của người này cũng làm biến dạng đi ít nhiều nội dung của thông điệp.
1.3.3. Giai đoạn nhận tin
- Thao tác "thu nhận tin" (tức ghi lại thông điệp - message recording). Ở
đây, việc ghi nhận tin có thể không được đầy đủ, một phần tác động của "tiếng
ồn". Có 3 loại "tiếng ồn"
+ "Tiếng ồn" về mặt ngữ nghĩa học, do người nhận tin có thể có cách hiểu
khác nhau về một vài thuật ngữ mà người phát tin sử dụng, làm cho người nhận
tin không nắm bắt được đúng và trọn vẹn thông điệp.

3
+ "Tiếng ồn" về mặt cơ học, tức là những nhân tố vật lý có thể gây nhiễu
đối với kênh truyền thông, chẳng hạn do người nói bị khàn tiếng hay do điện
thoại bị rè
+ "Tiếng ồn" do môi trường, là những tiếng động trong môi trường xung
quanh xen vào có thể làm sai lệch nội dung thông điệp
- Thao tác giải mã "decoding": chúng ta biết rằng mỗi ngôn ngữ bao
gồm những từ, những thuật ngữ hoặc thành ngữ mang những biểu tượng đặc thù.
Vì thế, nếu người nhận tin không nắm được đầy đủ chìa khóa của "hệ thống mã"
này thì rất có thể sẽ tiếp thu không đúng nội dung thông điệp. Một người không
biết một ngoại ngữ nào đó chẳng hạn, có thể vẫn "nghe" hoặc "nhìn thấy" được
thông điệp bằng thứ ngôn ngữ này, nhưng không "giải mã" được, nghĩa là không
hiểu gì hết.
Sau khi giải mã thông điệp, người nhận tin còn phải giải thích nội dung
thông điệp để hiểu được ý nghĩa của nó. Việc giải thích này được tiến hành phụ
thuộc vào khung quy chiếu của nền văn hóa của người nhận tin. Cái khung văn
hóa này chủ yếu được qui định bởi nguồn gốc xã hội, tuổi tác, quá trình giáo dục
và trình độ học thức của người nhận tin; nói cách khác, cũng có thể gọi đây là
cái hành lang văn hóa của người nhận tin. Cái khung văn hóa này có hai trục:
trục nhận thức và trục cảm xúc. Kinh nghiệm trong cuộc sống xã hội cũng như
vốn kiến thức tích lũy được trong quá trình sống sẽ cung cấp những yếu tố cần
thiết để giải thích thông điệp: đây chính là trục nhận thức. Mặt khác, hành lang
tâm lý (vốn cũng là hệ quả của môi trường xã hội và quá trình được dạy dỗ, học
hành) cũng như tâm trạng hay tính khí lúc nhận thông điệp cũng đều là những
yếu tố có thể ảnh hưởng tới cách giải thích nội dung thông điệp: đây là trục cảm
xúc.
1.3.4. Giai đoạn phản hồi (feedback)
Ttruyền thông là quá trình trao đổi thông tin giữa hai nguồn thông tin,
xuất phát từ định đề cho rằng bất cứ một thông điệp nào được phát đi cũng đều
gây ra một thông điệp khác chuyển trở lại. Truyền thông phải được xem là một
chu kỳ trong đó có nhiều thông điệp được trao đổi qua lại với nhau giữa các
nguồn thông tin.
2. Truyền thông đại chúng
2.1. Khái niệm

4
Truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng
rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình.
- Các thành tố hợp thành truyền thông đại chúng:
+ Hoạt động truyền thông.
+ Nhà truyền thông
+ Phương tiện truyền thông
+ Công chúng
2.2. Một số đặc trưng cơ bản của truyền thông đại chúng
TTĐC có những đặc trưng cơ bản sau:
- Thông tin mang tính gián tiếp;
- Thông tin mang tính chất đại chúng;
- Thông tin thể hiện rõ sự định hướng xã hội;
- Quá trình thông tin có tính tổ chức, chịu sự tác động của các thiết chế xã
hội;
- Không có mối liên hệ ngược trực tiếp về thông tin giữa nhà truyền thông
và công chúng;
- Thông tin mang tính chất định kỳ;
- Quá trình truyền thông thể hiện rõ tính tập thể của nhà truyền thông.
2.3. Chức năng của truyền thông đại chúng
- Thoả mãn nhu cầu tinh thần của đại chúng
- Tăng cường và phát triển dân chủ hóa trong các mặt của đời sống xã hội.
Tổ chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội.
- Thông tin tới công chúng về tình trạng của dư luận xã hội trên các vấn đề
đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính
chất cấp thiết.
- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
- Làm hình thành dư luận xã hội về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy hoặc
hạn chế sự phát
- Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng.
- Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội và làm tăng cường tính
tích cực chính trị của quần chúng.
3. Xã hội học truyền thông đại chúng

5
3.1. Khái niệm
Trong lĩnh vực xã hội học, truyền thông đại chúng được nghiên cứu như
một quá trình xã hội, và các phương tiện truyền thông đại chúng được khảo sát
và phân tích dưới góc độ định chế xã hội. Hay nói cách khác một trong những
nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành XHH là làm sáng tỏ mối liên hệ giữa
TTĐC và xã hội. XHH TTĐC là khoa học chuyên phân tích về hiện tượng
truyền thông đại chúng và ý nghĩa của TTĐC đối với cuộc sống của xã hội.
3.2. Những lĩnh vực nghiên cứu của XHH truyền thông đại chúng

Nghiên cứu xã hội học về TTĐC

CÁC NHÀ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG


CÔNG CHÚNG XÃ HỘI
Nghiên cứu về TRUYỀN TRUYỀN
THÔNG THÔNG Nghiên cứu về
công chúng của ảnh hưởng xã
các phương tiện Nghiên cứu về Phân tích các nội
đặc điểm và các dung truyền hội của TTĐC
TTĐC
hoạt động của thông (thực
các nhà truyền nghiệm và tín
thông hiệu học)

II. Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng
1. Những phương tiện truyền thông cổ truyền
2. Kỹ thuật ấn loát
3. Những tờ báo đầu tiên
4. Các kỹ thuật truyền thông và các phương tiện TTĐC
THẢO LUẬN NHÓM
1. Thử diễn giải ý nghĩa của mô hình truyền thông của Jakobson đối với những
người làm công tác truyền thông. Cho một vài ví dụ cụ thể
2. Trong thực tế xã hội, truyền thông đại chúng có liên quan thế nào với truyền
thông liên cá nhân? Hãy tìm ví dụ và giải thích mối liên hệ giữa hai quá trình truyền
thông này.
3. Hãy tìm chức năng xã hội của một tờ báo (Tuổi trẻ, Thanh niên)

6
CHƯƠNG 2: CÁC LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỀN THÔNG
ĐẠI CHÚNG
Mục tiêu của chương 2
Hiểu những cách đặt vấn đề khác nhau của các trường của các trường
phái lý thuyết khi họ nghiên cứu vai trò của các phương tiện TTĐC và ảnh
hưởng của chúng đối với người dân trong xã hội hiện đại.
Những công trình nghiên cứu về TTĐC được bắt đầu tiến hành từ thế kỷ
XX, nhất là kể từ năm 1933 trở đi, khi mà Hitler lên nắm chính quyền ở Đức –
sự kiện mà nhiều người cho là nhờ vào những chiến dịch tuyên truyền trên các
phương tiện truyền thông.
Trong lịch sử nghiên cứu về TTĐC trên thế giới, người ta thường phân
biệt 3 giai đoạn khác nhau như sau:
- Giai đoạn thứ nhất, bắt đầu từ khoảng đầu TK XX cho đến cuối thập
niên 1930, là giai đoạn mà giới học thuật quan niệm rằng các phương
tiện truyền thông có một sức tác động to lớn lên lối ứng xử và suy nghĩ
của người dân. Nhóm tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là nhóm
“trường phái Frankfulk” ở Đức vốn bao gồm những nhà trí thức chống
đối lại Hitler và do đó về sau bị chính quyền Hitler tống khứ ra nước
ngoài. Các học giả này cho rằng các phương tiện TTĐC ở Đức đã
đóng một vai trò then chốt để những người theo chủ nghĩa quốc xã lên
nắm được chính quyền. Lúc đã định cư ở Mỹ, trường phái này tiếp tục
cảnh báo rằng các TTĐC đang trong quá trình gây ra những tác động
tương tự trong xã hội Mỹ, tuy không phải theo chủ nghĩa quốc xã như
Đức mà là làm tha hóa người dân. Họ cho rằng các phương tiện TTĐC
ở Mỹ đang biến các cá nhân thành “những khối đại chúng”, tàn phá
văn hóa và trở thành một thứ ma túy làm cho mọi người chỉ biết làm
theo người khác và không còn tư duy độc lập, óc phê phán.
Người ta thường gọi quan điểm của các nhà nghiên cứu theo hướng này là
quan điểm theo mô hình “mũi kim tiêm”. Các nhà XHH theo khuynh hướng này
cho rằng, quá trình công nghiệp hóa đã tiêu diệt những mối liên hệ giữa người
và người vốn tồn tại trong những cộng đồng truyền thống, tiền công nghiệp.
Điều này dẫn tới hệ quả là hình thành nên một thứ “xã hội đại chúng” trong đó
các cá nhân sống rời rạc, và trong bối cảnh mất phương hướng đó, chố dựa mới

7
duy nhất đó là các phương tiện TTĐC. Họ cho rằng xã hội đại chúng đã sản
sinh ra những cá nhân không còn khả năng phản kháng trước sức thuyết phục
của TTĐC. Những thông điệp của TTĐC được “chích” vào cơ thể con người
cũng dễ dàng như chích thuốc bằng một mũi kim tiêm vậy.
- Giai đoạn phát triển thứ 2 trong quá trình nghiên cứu về TTĐC là từ
khoảng năm 1940 đến những năm 1960. Đặc điểm của giai đoạn này là
bắt đầu xuất hiện quan điểm đánh giá bớt bi quan hơn về vai trò của
các phương tiện TTĐC. Một số công trình điều tra ở Mỹ về ảnh hưởng
của các phương tiện truyền thông đối với việc bầu cử và đối với sự lựa
chọn của người tiêu dùng đã chứng minh cho thấy TTĐC ít có thậm
chí là không có tác động trực tiếp đối với thái độ và ứng xử của người
dân. Trái ngược với lập luận của các nhà nghiên cứu trong giai đoạn
đầu (vốn cho rằng TTĐC có tác động trực tiếp giống như một mũi kim
chích), lúc này người ta chỉ nói đến những tác động gián tiếp, thông
qua nhiều bước trung gian. Khi phân tích ảnh hưởng của TTĐC, các
nhà XHH thời kỳ này chú ý nhấn mạnh đến các vai trò của nhóm xã
hội (như bạn bè, gia đình, hàng xóm, những người “hướng dẫn dư
luận” – opinion leaders): các thông điệp qua các phương tiện TTĐC
thường được “lọc” qua những kênh đó rồi mới đi tới cá nhân. Người ta
nhìn nhận rằng công chúng của các phương tiện TTĐC không phải là
một khối “đại chúng” đồng dạng, không có hình thù, trái lại, đó là một
tập hợp bao gồm nhiều giới và tầng lớp xã hội khác nhau.
- Giai đoạn thứ ba trong lịch sử nghiên cứu TTĐC bắt đầu từ khoảng
thập niên 1960 trở đi, với đặc điểm là xuất hiện nhiều xu hướng quan
điểm nghiên cứu khác nhau, và rất nhiều đề tài đa dạng. Chẳng hạn
như ngoài việc nghiên cứu công chúng và tác động của TTĐC, người
ta còn nghiên cứu về nội dung các thông điệp của TTĐC, về quá trình
TTĐC, quá trình sản xuất của các phương tiện TTĐC, nghiên cứu về
đặc điểm của các nhà truyền thông và hoạt động của họ.
I. Lý thuyết chức năng
Theo lý thuyết chức năng luận, xã hội được quan niệm như một tổng thể
trong đó bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố đều có chức năng riêng của mình.
Trong số các thành tố đó, có các phương tiện TTĐC. Quan điểm chức năng luận

8
thường nhấn mạnh đặc biệt tới các “nhu cầu” của một xã hội. TTĐC được coi
như một định chế xã hội, cũng như nhu cầu hội nhập và thích nghi của các cá
nhân trong xã hội đó.
Theo Robert Meton, để hiểu được ảnh hưởng xã hội của các phương tiện
TTĐC, chúng ta không thể chỉ căn cứ trên những tuyên bố hay những ý định
công khai của các tổ chức này. Merton luôn nhấn mạnh rằng đối với mỗi hoạt
động xã hội, chúng ta cần phân biệt rõ giữa mục tiêu công khai nhắm tới với
hiệu quả thật xảy ra (tức là chức năng) – bởi lẽ hai cái này có thể không trùng
nhau. Nói cách khác, chức năng xã hội của các phương tiện TTĐC không nhất
thiết tương ứng với những mục tiêu công khai mà nhà truyền thông muốn nhắm
tới.
Một ví dụ: ngành y tế nhờ các phương tiện truyền thông mở một cuộc vận
động dân chúng đến khám sức khỏe tại các trạm y tế địa phương. Đó là mục
đích công khai của chiến dịch tuyên truyền. Thế nhưng, trong quá trình tiến
hành, chiến dịch này có thể dẫn đến những hậu quả bất ngờ, nằm ngoài ý định
của các nhà y tế lẫn các nhà truyền thông. Quả vậy, cuộc điều tra về kết quả của
chiến dịch vận động đã khám phá ra rằng hình ảnh của nhân viên y tế địa
phương trong mắt người dân đã được cải thiện rất nhiều so với trước: công việc
vốn thầm lặng của nhân viên y tế nay bỗng được mọi người quan tâm chú ý và
kính trọng hơn (nhờ tác động của các phương tiện TTĐC), chính nhờ đó mà
người dân tin cậy hơn vào các tổ chức y tế, và đồng thời bản thân lĩnh vực quản
lý ngành y tế cũng được củng cố và hoàn thiện thêm. Đây là một hiệu quả xã hội
quan trọng nhưng bất ngờ của chiến dịch vận động tuyên truyền y tế này.
Merton gọi những hiệu quả mà người ta muốn đạt được là những chức
năng “công khai”, còn những hiệu quả xảy ra mà người ta không ngờ tới là
những chức năng “tiềm ẩn”. Trong lý thuyết của mình, Merton còn phân biệt
giữa “chức năng” và “phản chức năng”. Chức năng là cái làm cho một hệ thống
duy trì được sự tồn tại của mình và tiếp tục vận động trôi chảy. Còn phản chức
năng là cái gì gây cản trở cho quá trình đó. Một hoạt động có thể vừa có chức
năng vừa có phản chức năng . vd chiến dịch vận động khám sức khỏe nói trên
cũng có tác dụng khiến cho một số người đâm ra khiếp sợ đối với ngành y tế
(chẳng hạn thấy cảnh tiêm, phòng mổ, xe cứu thương...) và họ sẽ không dám đến
phòng khám nữa.

9
Lasswell một trong những nhà nghiên cứu tiên phong về TTĐC, đã nêu
lên ba chức năng chính của TTĐC, đó là: kiểm soát môi trường xã hội; liên kết
mọi bộ phận của xã hội với nhau; truyền di sản xã hội từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Charles Wright còn bổ sung thêm chức năng thứ tư là giải trí.
Xét về tầm quan trọng của TTĐC đối với cá nhân, người ta có thể liệt kê
các chức năng sau:
- Chức năng đầu tiên dễ thấy nhất là có thể nhanh chóng báo động cho
mọi người dân về một mối hiểm nguy sắp xảy ra , vd một trận bão lớn
sắp đổ bộ vào đất liền, hay một cuộc chiến tranh...vì mọi người đều có
thể tiếp nhận được nhiều thông tin qua các phương tiện TTĐC nên
người ta có thể tìm cách tránh được các tai họa đã loan báo.
- Chức năng thứ hai đó là đáp ứng những nhu cầu thực tế hàng ngày của
người dân trong xã hội. Năm 1954, nhân dịp xảy ra một cuộc đình
công của báo chí ở New York, Berelson đã tranh thủ cơ hội này để
điều tra xem người dân thiếu những gì khi họ không nhận được tờ nhật
báo như mọi ngày: đó trước hết là những thông tin liên quan đến cuộc
sống thực tế của họ như các chương trình truyền hình, radio, lịch chiếu
phim, những cửa tiệm bán hàng giảm giá, tin thời tiết...Rõ ràng tờ báo
là một công cụ có rất nhiều chức năng đa dạng trong cuộc sống hàng
ngày.
- Chức năng quan trọng thứ ba của TTĐC là nâng cao một hình ảnh xã
hội nào đó, hay hợp thức hóa một vị trí xã hội nào đó. Chúng ta thường
thấy là khi một ai đó được nêu tên trên báo (dĩ nhiên là theo hướng
biểu dương một hành động tích cực nào đó chứ không phải là tiêu
cực), thì người này cảm thấy uy tín hay uy thế của mình được nâng
cao, vì đơn giản là được nhiều người biết và chú ý đến mình. Đối với
các tổ chức hay công ty cũng thế, đo đó khi muốn quảng cáo cho đơn
vị mình, người ta thường sử dụng đến các phương tiện TTĐC như báo
chí hay ti vi. Những người đang ra tranh cử vào một chức vụ nào đó
cũng thường thích được xuất hiện trên báo chí bằng cách này hay cách
khác (được chuph hình, được phỏng vấn...) để gián tiếp vận động cử tri
dồn phiếu cho mình.

10
- Chức năng quan trọng thứ tư là củng cố sự kiểm soát xã hội. Một vụ
“bể hụi” chẳng hạn, chỉ là chuyện có liên quan đến một nhóm người,
và cũng ít có người biết; nhưng nếu sự kiện lừa đảo này được đăng lên
báo thì nó trở thành một sự kiện công khai, được nhiều người biết đến
bàn tán và lên án. Từ đó hình thành một áp lực của dư luận xã hội lên
các hành vi tương tự, và đồng thời áp lực này trở thành một thứ rào
cản hữu hiệu đối với các cá nhân. Chính là nhờ quá trình này mà
TTĐC củng cố vai trò kiểm soát xã hội lên trên cá nhân, góp phần hạn
chế các hành vi tiêu cực hay hành vi lệch chuẩn trong xã hội.
Xét về mặt XHH, thì TTĐC là một trong các định chế góp phần vào quá
trình xã hội hóa cá nhân. Chính là thông qua các kênh thông tin này mà các giá
trị xã hội, các quy tắc xã hội, luật lệ thành văn và bất thành văn của xã hội được
phổ biến và nhắc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, thuyết phục mọi người
cùng đồng tình và vận động mọi người cùng tuân thủ. TTĐC là một phương tiện
có khả năng làm cho xã hội trở nên đoàn kết, gắn bó với nhau, hội nhập cá nhân
vào xã hội.
Tuy nhiên, TTĐC cũng có những thể có những phản chức năng đối với xã
hội. Cách thông tin của của đài truyền hình CNN của Mỹ trong cuộc chiến tranh
vùng Vịnh 1991 hay của nhiều phương tiện truyền thông của Mỹ trong cuộc
chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Irag gần đây là những trường hợp điển hình về
việc các giới chính trị và quân sự sử dụng và lèo lái các phương tiện TTĐC phục
vụ cho mục đích của mình, và điều này đã bị nhiều tác giả nghiên cứu về TTĐC
phê phán gay gắt.
Những thông tin loan truyền trên các phương tiện TTĐC có thể làm gia
tăng nỗi lo âu của các cá nhân, nhất là khi đăng tải những tin chém giết, nổi
loạn, ly tán, cướp của... nếu phát đi một cách dồn dập những loại tin này mà
không có bình luận, giải thích thì rất dễ gây tâm lý hoang mang lo lắng của
người dân.
Qua các cuộc điều tra, người ta nhận thấy: tình trạng đưa quá nhiều thông
tin cũng có thể gây nên hậu quả làm cho các cá nhân rút lui về thế giới riêng tư
của mình. Bị tràn ngập bởi các thông tin mà họ không tự mình lý giải được, cá
nhân cảm thấy mình bị mất phương hướng nên nơi rút lui an toàn nhất đối với
những người này là gia đình, các thú vui giải trí...điều này có thể dẫn đến chỗ

11
làm cho họ trở nên vô cảm trước những vấn đề chính trị, xã hội...qua nhiều cuộc
điều tra ơ các nước phương Tây, người ta khám phá ra điều thoạt đầu tưởng
chừng như nghịch lý, đó là những người coi tin tức nhiều giờ đồng hồ mỗi ngày
không phải là những người tham gia tích cực các hoạt động chính trị, xã hội. Có
lẽ do bỏ ra quá nhiều thời gian để coi ti vi nên những người này không còn thời
gian và sức lực để dấn thân vào các hoạt động xã hội.
Người ta có thể nghiên cứu những chức năng và những phản chức năng
của những thông tin do các phương tiện truyền thông phát đi đối với những tầng
lớp xã hội cụ thể, vd thiếu nhi, phụ nữ, công nhân, người già...để khảo sát vai trò
của truyền thông trong xã hội.
TTĐC trong một quốc gia có thể có những tác động lên trên thái độ và
ứng xử của người dân, có thể góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc
hoặc ngược lại. TTĐC từ nước ngoài truyền vào trong nước có thể làm phong
phú thêm cho bản sắc văn hóa địa phương, nhưng đồng thời cũng có thể là hiểm
họa của một cuộc “xâm lược” về văn hóa, dần dà làm mất đi những truyền thống
và bản sắc văn hóa địa phương.
Chính là nhằm hạn chế những tính chất “phản chức năng” của TTĐC,
người ta luôn luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm (xét về mặt XHH đây là chức
năng) hướng dẫn dư luận của phương tiện TTĐC. Chức năng này được thực
hiện việc chọn lọc những tin tức để đăng tải, cùng với việc cung cấp những lời
giải thích và bình luận cần thiết kèm theo các sự kiện. Lẽ tất nhiên, chức năng
này được thực hiện thế nào là còn tùy thuộc vào quan điểm chính trị - xã hội và
quan điểm thông tin của ban biên tập mỗi tờ báo. Nhưng nói chung, đó là công
việc hàng ngày và các ban biên tập và tòa soạn của các tờ báo đều phải làm.
Chúng ta thấy trên các tờ báo người ta thường sắp xếp các loại tin tức , bài vở
theo các mục riêng biệt, vd trang tin tức, thể thao, văn hóa...để độc giả dễ theo
dõi tùy theo sự quan tâm của mọi người. Riêng ở trang nhất của một tờ nhật báo,
người ta thường chọn lọc một tin tức quan trọng đáng chú ý nhất trong ngày
làm tin “vơ đét”, cho in ở đầu trang, có nhiều cột, tít lớn nhằm thu hút trọng tâm
chú ý của người đọc. Ngoài ra, trong việc xử lý các tin tức, bài vở (tức là viết và
biên tập), người ta thường bổ sung thêm vài dòng để nhắc lại bối cảnh của câu
chuyện để bạn đọc tiện theo dõi và dễ nắm bắt được vấn đề hơn. Người ta
thường ví công việc sắp xếp và biên tập âm thầm ấy của tòa soạn (âm thầm vì

12
người làm công việc tòa soạn không xuất hiện tên tuổi trên mặt báo) như là công
việc “bếp núc”. Tất cả những kỹ thuật “xào nấu” ấy của tòa soạn đều chỉ nhằm
một mục tiêu là giúp bạn đọc có được một định hướng theo dòng thời sự hàng
ngày, hiểu được tình hình thời sự của thế giới xung quanh, tránh cho người đọc
một cảm giác tràn ngập và mất phương hướng trước một mớ tin tức hỗn độn nếu
không được xử lý.
Qua một cuộc điều tra nhân cuộc đình công của giới báo chí ở New York
năm 1948, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận rằng cái mà người dân cảm thấy
thiếu thốn không phải chỉ là thiếu thông tin (vì những ngày hôm đó không có
báo đọc), mà còn là thiếu những lời bình luận đi kèm theo các thông tin đó.
Báo chí là công cụ không những chỉ giúp cho người đọc theo dõi được tin tức,
thời sự, mà còn giúp họ hiểu được thời sự. Nói rộng ra hơn, đó là giúp cho họ
định hướng được cuộc sống của chính họ trong dòng thời sự xã hội đó. Tuy
nhiên, ngay điểm này cũng có mặt trái của nó: nếu tờ báo đưa ra quá nhiều bình
luận và không dùng một khoảng trống nào cho việc tự mình suy nghĩ và lựa
chọn thái độ của chính người đọc, và nếu người đọc cũng hoàn toàn chỉ biết
trông chờ vào ý kiến bình luận có sẵn trên tờ báo, nấu sẵn theo kiểu “mì ăn liền”
thì người đọc sẽ không còn khả năng phân tích, bình luận hay phê phán của
chính mình nữa.
Hướng tiếp cận về các phương tiện TTĐC theo hướng chức năng thường
bị chỉ trích nặng về quan điểm bảo thủ. Nó thường chỉ xem xét TTĐC như là
một phương tiện nhằm duy trì sự ổn định xã hội, chứ không như là một nhân tố
có thể làm thay đổi xã hội.
II. Lý thuyết phê phán
Trong lĩnh vực nghiên cứu TTĐC, đối lập với quan điểm chức năng là
quan điểm của các nhà nghiên cứu theo các lý thuyết phê phán (người ta còn gọi
là các lý thuyết xung đột xã hội). Các lý thuyết phê phán cách này hay cách khác
bắt nguồn từ những tư tưởng và lập luận của lý thuyết mác xít để phân tích vấn
đề. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng phê phán cho rằng, trong xã hội
TBCN, TTĐC là công cụ nhằm phục vụ cho việc củng cố và tái sản xuất hệ tư
tưởng thống trị. Họ thường chỉ trích các tác giả theo quan điểm chức năng là quá
nhấn mạnh đến bản thân quá trình truyền thông mà xem nhẹ bối cảnh xã hội

13
trong đó diễn ra quá trình truyền thông. Theo họ, chính nhân tố kinh tế quyết
định tính chất của hệ thống các phương tiện TTĐC.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là trường phái Frank furt, vốn được
thành lập năm 1923 bởi Max Horkheimer, trong đó gồm những nhà nghiên cứu
tên tuổi như Adorno, Lowenthal, Fromm. Marcuse. Họ cho rằng sở dĩ quá trình
chuyển biến cách mạng của xã hội TBCN không thành công được, đó là do kiến
trúc thượng tầng của hệ thống TBCN, trong đó đặc biệt là các phương tiện
TTĐC đã đóng vai trò khuynh đảo và cản trở diễn biến cách mạng của xã hội.
Theo họ, trong xã hội TBCN nền sản xuất hàng loạt và đi kèm theo chúng là nền
“văn hóa đại chúng”, là những cơ sở để tạo nên huyền thoại về một xã hội không
giai cấp.
Các tác giả theo trường phái phê phán này quan niệm rằng cần vạch trần
cái sự thật bị che giấu bên dưới hệ thống chính trị đó. Chính vì vậy họ đặc biệt
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phân tích các bối cảnh xã hội vốn bao
trùm lên cả quá trình truyền thông, chứ không chỉ phân tích riêng lẻ quá trình
truyền thông. Họ gọi toàn bộ các quá trình TTĐC trong xã hội TBCN là “công
nghiệp văn hóa”. Và theo họ, sở dĩ ngành công nghiệp này có thể phổ biến các
sản phẩm của mình đến với mọi người, thì đó không phải là do bản thân tính
chất “dân chủ” của chế độ, mà đơn giản chỉ là do sự mở rộng và phát triển của
thị trường. Nếu mọi người đều có thể hưởng thụ các sản phẩm của ngành công
nghiệp văn hóa này thì chúng ta có thể coi đây là một điều kiện có khả năng tạo
ra sự bình đẳng về văn hóa. Trái lại, theo tác giả này, “văn hóa đại chúng” chỉ là
một thứ sản phẩm dị dạng xuyên tạc nền dân chủ đúng nghĩa.
Marcuse đã gọi xã hội TBCN này là xã hội mang tính chất “một chiều” vì
nó vốn được tạo nên bởi thứ công nghiệp văn hóa đó, và ông coi các kỹ thuật
truyền thông chỉ là công cụ mê hoặc và điều khiển dân chúng, nhào nặn nên thái
độ và suy nghĩ của người dân. Chính trong bối cảnh đó mà Marcuse nói đến tình
trạng tha hóa của người dân. Nếu người dân thích xem các sản phẩm TTĐC thì
chính là vì họ đã bị tha hóa, nô lệ vào các dòng thác của TTĐC. Ông cho rằng
CNTB đã xoa dịu những nỗi bất bình của tầng lớp bị trị bằng cách sử dụng các
phương tiện TTĐC để kích thích những thị hiếu vật chất tầm thường vốn dễ
dàng được thỏa mãn. Vì thế, theo ông các phương tiện TTĐC chính là một trong
những nhân tố quyết định trong việc thống trị dân chúng trong xã hội TBCN.

14
Khuynh hướng phê phán trong lĩnh vực nghiên cứu về TTĐC hiện nay
vẫn còn được tiếp nối với nhiều trường phái khác nhau. Chẳng hạn, lý thuyết
kinh tế chính trị có quan điểm là luôn nhấn mạnh đến nhân tố kinh tế khi phân
tích về TTĐC. Lý thuyết này khẳng định rằng cơ sở kinh tế quyết định hệ tư
tưởng chứ không phải ngược lại. Các tác giả theo quan điểm này chú ý đặc biệt
tới cơ cấu sở hữu của các phương tiện truyền thông. Họ quan niệm rằng cần coi
các phương tiện truyền thông như là một bộ phận về hệ thống kinh tế, và qua đó
cũng gắn liền với hệ thống chính trị. Do đó, họ coi truyền thông như là một
phương tiện được sử dụng để hợp thức hóa và duy trì sự phân tầng kinh tế - xã
hội của CNTB. Các tác giả theo trường phái này cũng thường lưu ý tới hiện
tượng tập trung nhiều các phương tiện TTĐC vào trong tay một vài tập đoàn
lớn. Quả thật là ngày nay chúng ta thấy ngày càng có nhiều vụ liên kết hay sáp
nhập giữa các đài truyền hình, các tờ báo và nhà xuất bản với nhau. Xu hướng
này bộc lộ sự tập trung quyền lực ngay trong nội bộ giới truyền thông. Các tác
giả cho rằng một trong những hậu quả của hiện tượng này là hạn chế tính đa
dạng trong cách thức thông tin cũng như trong các ý kiến bình luận về thời sự.
III. Trào lưu “nghiên cứu văn hóa”
Kế tục xu hướng của lý thuyết phê phán, cũng có một lối tiếp cận nữa từ
góc độ văn hóa, thường được gọi là trào lưu “Cultural Studies” (nghiên cứu văn
hóa). Đây là một trào lưu rất thịnh hành ở Anh và Mỹ vào những năm 1970-
1990, ra đời từ đại học Birmingham (Anh) vào đầu thập niên 1960. Những
người thường được coi là sáng lập ra trào lưu này Richard Hoggart, Edward
Thompson, Raymond Williams và Stuart Hall. Xu hướng nghiên cứu này lúc
đầu chịu ảnh hưởng phần nào của tư tưởng trường phái Frankfurt trong lối phân
tích phê phán sự thống trị văn hóa trong xã hội TBCN. Nhưng họ không chấp
nhận quan điểm chỉ nhấn mạnh tới nền văn hóa “tinh thần” của trường phái
Frankfur, vì họ cho rằng suy nghĩ như vậy vô hình trung coi thường “văn hóa
đại chúng” hay “văn hóa bình dân” và coi các tầng lớp lao động như không có
khả năng sáng tạo ra một nền văn hóa thực thụ vì đã làm cho tha hóa bởi các
phương tiện TTĐC. Trào lưu này, ngược lại nhấn mạnh tới khả năng đề kháng
cũng như khả năng sáng tạo phong phú của công chúng, nhất là nơi các tầng lớp
bình dân trong việc sử dụng và tiếp nhận các thông điệp TTĐC.

15
Theo trào lưu “Cultural Studies”, văn hóa “bình dân” hay văn hóa “đại
chúng”, không phải chỉ là một sự phản ánh đơn thuần của sự thống trị, mà là sự
biểu hiện một mối quan hệ đối thoại hay thương lượng (giữa văn hóa của tầng
lớp lao động và văn hóa của tầng lớp thống trị), mặc dù kết quả của quá trình
“thương lượng” này tất nhiên cuối cùng ngả về phía có lợi cho tầng lớp thống
trị.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trong lịch sử nghiên cứu XHH TTĐC người ta thường phân biệt ra mấy
giai đoạn chính? Hãy nêu đặc điểm của mỗi giai đoạn?
2. Theo trường phái chức năng luận, các phương tiện TTĐC có những chức
năng nào?
3. Hãy nêu vắn tắt vài luận điểm của các trường phái theo khuynh hướng
phê phán đối với TTĐC?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Hãy tìm những chức năng xã hội của 1 tờ báo cụ thể?

16
CHƯƠNG 3: CÁC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC TRUYỀN
THÔNG ĐẠI CHÚNG
I. Xã hội học truyền thông nghiên cứu về công chúng
1. Khái niệm công chúng truyền thông
"Công chúng là một tập hợp xã hội được cấu thành một cách phức tạp bởi
nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, và mỗi người đều đang sống trong
những mạng lưới xã hội và những mối quan hệ xã hội nhất định".
Mục tiêu của XHH về công chúng là điều tra, khảo sát để hiểu công chúng
của các phương tiện TTĐC, tìm xem họ là ai, thuộc những tầng lớp nào, họ theo
dõi loại phương tiện nào nhiều nhất, có thường xuyên hay không? thích những
trang mục hay chương trình nào, họ có ý kiến hay phản ứng nào đối với nội
dung từng trang mục, từng chương trình cụ thể...Đi sâu hơn người ta còn tìm
cách phân tích và lý giải sự khác biệt giữa các giới và các tầng lớp xã hội trong
việc sử dụng và tiếp nhận các nội dung truyền thông.
* Phân loại công chúng
Có thể nhận diện 4 loại công chúng như sau:
- Công chúng xét như một nhóm xã hội (cấp độ vĩ mô): công chúng này
tồn tại trước khi họ trở thành công chúng của một phương tiện TTĐC nào đó.
Đây có thể là độc giả của một tờ báo địa phương, thính giả của một đài phát
thanh địa phương, hoặc độc giả của các tổ chức tôn giáo, các hiệp hội nghề
nghiệp hay các đoàn thể chính trị. Loại phương tiện truyền thông này thường có
chức năng gắn kết các thành viên lại với nhau vì chúng có thể củng cố cho ý
thức cộng đồng địa phương hoặc ý thức thuộc một đảng phái, hiệp hội
- Công chúng xét là những người có cùng mối quan tâm (cấp độ vi mô):
đây là loại công chúng hình thành do một loại phương tiện TTĐC nào đó (như
phim ảnh, sách, tạp chí, đài truyền hình...) thỏa mãn được một mối quan tâm đặc
thù, đáp ứng được một nhu cầu hay một sở thích, một thị hiếu đặc thù nào đó
của họ (thích cải lương, nhạc rock, bóng đá...). Các nhóm độc giả/ thính giả của
những kênh truyền thông hết sức chuyên biệt này thường không có ý thức về
một căn cước tập thể, mặc dù họ có thể có một số đặc điểm nhân khẩu, xã hội
như nhau.

17
- Công chúng của một phương tiện truyền thông (cấp độ vĩ mô): đây là
loại công chúng đã chọn theo dõi một loại truyền thông đại chúng nhất định,
chẳng hạn là khán giả đi xem phim ở rạp hay khán giả xem truyền hình.
- Công chúng của một kênh hay một nội dung cá biệt (cấp độ vi mô): đây
là những độc giả, khán thính giả của một cuốn sách hay một tác giả cụ thể nào
đó, một tờ báo hay một chương trình truyền hình cá biệt nào đó. Đây là loại
công chúng mà bộ phận kinh doanh của các phương tiện TTĐC thường chú ý
và nhắm đến nhiều nhất vì họ coi đây là khách hàng, là người tiêu thụ các sản
phẩm truyền thông đặc thù của mình.
2. Những đặc điểm công chúng truyền thông
Những dữ kiện đầu tiên mà người ta thường khảo sát khi tiến hành một
cuộc điều tra về công chúng của một tờ báo chẳng hạn, là một con số thống kê
về các đặc điểm nhân khẩu như giới tính, tuổi tác, nơi cư trú và sau đó là các đặc
điểm xã hội như nghề nghiệp, trình độ học vấn, tình trạng gia đình, quan hệ gia
đình...
Trước đây, các nhà xã hội học thường chỉ chú ý khảo sát tập quán của các
cá nhân độc giả đối với một phương tiện TTĐC. Nhưng về sau người ta thường
tìm cách đi xa hơn: đó là cố gắng nối kết tập quán đó với cơ cấu xã hội (chẳng
hạn nghiên cứu tập quán coi ti vi với các tầng lớp xã hội khác nhau), hay nói
cách khác đặt tập quán sử dụng truyền thông đại chúng của các cá nhân trong
bối cảnh xã hội của họ. Lối đặt vấn đề như vậy sẽ giúp chúng ta đo lường kỹ
lưỡng hơn và lý giải sâu sắc hơn những xu hướng và chuyển biến trong ứng xử
của công chúng.
Trong số các đặc điểm cá nhân, thông thường người ta nhận thấy yếu tố
trình độ học vấn đóng vai trò tác động mạnh nhất đến hành vi và cách thức sử
dụng các phương tiện TTĐC.
3. Ứng xử truyền thông của công chúng
Khái niệm này được dùng để chỉ một cách ngắn gọn những cách thức tiếp
nhận và tập quán sử dụng truyền thông đại chúng nơi người dân. Các đề tài
nghiên cứu thực nghiệm thường khảo sát xem người dân thường chọn đọc loại
báo nào, thích đọc những mục gì, thường nghe và xem những chương trình gì
trên radio và ti vi, đọc báo và xem ti vi để làm gì, vào lúc nào, trong bao lâu,

18
chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong quỹ thời gian nhàn rỗi của người dân, thái độ của họ
đối với các chương trình, tiết mục...
4. Cách sử dụng các phương tiện truyền thông của công chúng
Qua các cuộc điều tra người ta cố gắng khám phá mối quan hệ giữa cách
thức sử dụng TTĐC với các đặc điểm nhân khẩu xã hội của công chúng, để tìm
hiểu xem các tầng lớp xã hội khác nhau có những ứng xử truyền thông khác
nhau như thế nào. Có bốn cách sử dụng đối với các phương tiện TTĐC như sau:
- Những người "tiêu thụ" bất kể phương tiện TTĐC nào, xem đủ thứ nội
dung chương trình mà không hề lựa chọn.
- Những người "chọn lọc nguồn": số này chỉ chọn theo dõi một loại
phương tiện TTĐC mà thôi
- Những người "chọn lọc đề tài": số này chọn đề tải mà mình muốn xem
và tìm trên phương tiện TTĐC khác nhau.
- Những người tránh né mọi phương tiện TTĐC. Số này tương đối ít.
Có thể nhận diện các nhóm công chúng truyền thông như sau:
- Nhóm tiếp nhận các phương tiện TTĐC để theo dõi tin tức, thời sự và
mở mang kiến thức
- Nhóm tiếp nhận các phương tiện TTĐC để theo dõi tin tức và giải trí
- Nhóm tiếp nhận các phương tiện TTĐC để giải trí
- Nhóm ít xem các phương tiện TTĐC
II. Xã hội học truyền thông nghiên cứu về hoạt động truyền thông và
các nhà truyền thông
1. Nghề làm báo
Xét về mặt định chế xã hội, ngày nay báo chí được coi là một nghề riêng
biệt. Báo chí ở hầu hết các nước đều được thừa nhận và xác lập trong khuôn khổ
pháp luật (luật báo chí), có nghiệp đoàn hoặc hiệp hội nghề nghiệp, có các cơ
quan báo chí, có các nhà báo chuyên nghiệp sống bằng nghề báo. Tuy nhiên, so
với nhiều nghề khác như bác sỹ hay kỹ sư chẳng hạn, thì nghề làm báo vẫn có
một số điểm đặc thù, đặc biệt là không có một số tiêu chuẩn nghề nghiệp chặt
chẽ như những nghề khác.
Có thể nói không có nghề nào như nghề báo: nghề này không đòi hỏi một
loại bằng cấp gì cụ thể. Với tình hình học vấn hiện nay, muốn trở thành một nhà
báo phần lớn nhà báo đều có trình độ đại học, nhưng đa số lại xuất thân từ nhiều

19
ngành học khác nhau, số tốt nghiệp từ trường báo chỉ chiếm số ít. Phần lớn kỹ
năng làm báo được huấn luyện và truyền thụ ngay tại tòa soạn, nghĩa là trong
thực tế công việc nhiều hơn trên ghế nhà trường. Có thể thấy nghề làm báo
không giới hạn cứng nhắc, máy móc, không có những lằn ranh rõ rệt. Nói cách
khác nghề này mang tính chất mở, tựa như đường chân trời, càng đi thấy càng
rộng ra.
Nhờ không phân định phải tốt nghiệp bằng cấp gì nhất định mà nghề báo
có thể thâu nạp được nhiều người có những khả năng đa dạng và phong phú từ
nhiều ngành chuyên môn khác nhau. Hơn nữa, với lằn ranh mỏng manh này hiện
nghề báo đã tiếp nhận và sát nhập với nhiều loại phương tiện truyền thông mới
như phát thanh, truyền hình và internet...
Nhà báo có thể thành đạt hay thành danh không phải nhờ vào thời gian
dùi mài kinh sử và thi cử để lấy bằng cấp, mà chủ yếu lại dựa vào những nguồn
lực khác, từ khả năng diễn đạt, khả năng quan hệ xã hội, tiếp xúc với người
khác, khả năng tiếp cận những người có thế lực hay thẩm quyền (trong mọi lĩnh
vực), cho đến một số phẩm chất cá nhân cần thiết cho nghề báo như tính trung
thực và lòng gan dạ chẳng hạn. Và phần lớn những khả năng và phẩm chất này
nếu có được chủ yếu nhờ tự rèn luyên, tự học và tích lũy thông qua thực tế, qua
kinh nghiệm sống trong cuộc đời mỗi người.
2. Lao động của nhà báo
Trước đây người ta ngộ nhận cho rằng nghề báo là "nghề tự do". Ngày
nay, khi nói về nghề báo nói chung người ta không còn nghĩ đến hình ảnh lãng
mạn của nhà báo như một người hiểu biết nhiều và từng trải, dũng cảm và đơn
độc trước trang giấy trắng hay máy tính như xưa nữa. Bởi lẽ một trong những
đặc trưng chủ yếu của một hoạt động truyền thông đai chúng ngày nay là một
thứ lao động tập thể và có tổ chức. Nhà truyền thông không lao động đơn độc
một mình nhưng luôn làm việc với nhiều người khác trong khuôn khổ một bộ
máy, một tổ chức và của một xã hội nhất định. Thông tin truyền đi không phải là
sản phẩm lao động của một cá nhân mà thực ra là sản phẩm của một quá trình
sản xuất của cả một bộ máy truyền thông và nói rộng ra đó là sản phẩm tổng hợp
của nhiều quá trình xã hội.
Chính cái quy trình như vậy cùng với cưỡng chế về thời gian (mỗi bộ
phận đều có dealine riêng riêng của mình vì đến đúng giờ nào đó không thể

20
không ra báo), làm cho hoạt động của một tờ báo thực chất giống như một công
ty.
3. Bộ máy tòa soạn
Nghề báo ngày nay cũng giống như nhiều ngành nghề khác, đòi hỏi phải
có một bộ máy chuyên nghiệp với cơ cấu tổ chức rõ ràng, hoạt động theo một
trình tự và quy củ nhất định. Một tổ chức báo chí nói chung hay một tòa soạn
nói riêng luôn luôn có một hệ thống quản lý, rạch ròi giữa cấp trên với cấp dưới,
có kỷ luật lao động và có kỷ luật thời gian chặt chẽ. Và một trong những yêu cầu
là làm sao phối hợp được công việc một cách chặt chẽ, khít khao giữa các chức
danh và nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau.
Mỗi tờ báo có thể có sơ đồ tổ chức riêng, tên gọi một số chức vụ trong
tòa soạn cũng như sự phân công cho từng chức danh có thể không hoàn toàn
giống nhau, nhưng tựu trung về nguyên tắc thì cách tổ chức một tờ báo vẫn có
những nét chung căn bản.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, vị trí đầu tiên then chốt là tổng
biên tập (đối với báo in) và tổng giám đốc hay giám đốc (đối với đài phát thanh
và truyền hình). Người đứng đầu tổ chức truyền thông là người có nhiệm vụ
"lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ
quan chủ quản và trước pháp luật về hoạt động của cơ quan báo chí". Thông
thường, bên cạnh tổng biên tập còn có hai hay ba phó tổng biên tập, mỗi người
được tổng biên tập ủy nhiệm phụ trách một ấn bản hoặc một lĩnh vực, chẳng hạn
người thì lo tờ báo ra ngày thường, người lo tờ báo cuối tuần, và một vị phó phụ
trách kinh doanh và trị sự. Trách nhiệm của tổng biên tập là làm sao xác lập
được đường hướng chủ trương của tờ báo, thể hiện thông qua quan điểm chọn
lựa nội dung thông tin, cũng như phương pháp xử lý thông tin như thế nào. Đối
với những sự kiện, biến cố thời sự lớn như vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 ở
NewYork năm 2001, cuộc chiến tranh ở Serbia...hay vụ án Năm Cam..., tổng
biên tập thường phải trực tiếp quyết định quan điểm đưa tin như thế nào, ưu tiên
những góc độ nào...căn cứ trên tôn chỉ của tờ báo và nhu cầu của độc giả, chẳng
hạn chú trọng hướng điều tra tường thuật để đánh động vào cảm xúc của độc
giả hay đi theo hướng ưu tiên cho những phân tích và bình luận.
Nhân vật then chốt thứ hai trong tòa soạn là thư ký toàn soạn. Người
mang chức danh này chính là người trực tiếp quản lý các quá trình thực hiện nội

21
dung theo chỉ đạo của tổng biên tập và ban biên tập, cũng như phải kịp thời xử
lý những tin tức theo dòng thời sự diễn ra liên tục trong ngày. Đây là người phải
chọn lọc tin tức và sự kiện để thể hiện ý đồ nội dung xuất phát từ cuộc họp ban
biên tập hay hội đồng biên tập. Thư ký tòa soạn phải theo dõi và đôn đốc việc
nộp tin bài của phóng viên, phân bổ tin bài thế nào để lấp đầy diện tích các trang
mục, kiểm soát và chăm sóc nội dung lẫn hình ảnh và cách trình bày từng trang
báo cho đến tận các chi tiết, xử trí kịp thời với những tin tức giờ chót có khi làm
đảo lộn cả trang nhất, cân nhắc xem có thể gác lại những tin nào mà hôm qua có
quá nhiều sự kiện, hay ngược lại có khi toát mồ hôi tìm cách lấp đầy một chỗ
trống hay thay tin quá dở bằng một bài nào đó chưa đăng...Có thể nói vai thư ký
tòa soạn là vai có cường độ lao động cao và căng thẳng nhất tòa soạn. Và các số
báo hay, dở phần lớn là do tài nghệ và bản lĩnh của người thư ký toà soạn, và
đây thực sự là một nghề chuyên biệt.
Tùy theo tính chất và quy mô của tờ báo, có tờ chỉ có một thư ký tòa soạn
trực tiếp chỉ đạo toàn bộ đội ngũ phóng viên và biên tập viên, nhưng cũng có tờ
có 2 - 3 thư ký và phó thư ký tòa soạn để luân phiên hoặc phân chia công việc.
Ngoài các chức danh thư ký tòa soạn, nhiều tờ báo như Tuổi trẻ, Thanh
Niên còn có nhân vật thứ ba trong tòa soạn đó là trưởng ban phụ trách các phóng
viên từng lĩnh vực (như ban chính trị-xã hội, ban kinh tế, ban nông nghiệp, ban
văn hóa-văn nghệ, ban thể thao...). Hàng ngày, tại cuộc họp tòa soạn các trưởng
ban phải báo cáo và dự kiến các tin tức, bài vở, diện tích cần có và những đề
nghị đưa lên trang nhất hoặc làm tin "vơ đét" .
Ngoài ra còn phải kể đến nhân vật thứ tư tuy ít xuất hiện trong tòa soạn
nhưng có thể ảnh hưởng hoặc chi phối ít nhiều nội dung bài vở đó là người "chủ
báo" trong trường hợp báo chí phương tây tư nhân, còn ở Việt Nam thì đó là cơ
quan chủ quản của tờ báo.
4. Những áp lực nghề nghiệp
Mặc dù chỉ là " người trung gian" giữa các nguồn tin và công chúng,
nhưng nhà truyền thông vẫn phải chịu nhiều áp lực khác nhau trong hoạt động
của mình, chẳng hạn những áp lực cá nhân, áp lực nghề nghiệp và áp lực xã hội.
Những loại áp lực khác nhau này tác động tới cách thức chọn lọc và xử lý tin
tức, bài vở, cũng như cách thể hiện nội dung trên phương tiện truyền thông - nói
chung là ảnh hưởng tới quá trình sản xuất ra một sản phẩm truyền thông.

22
Mỗi ngày, đứng trước khối lượng tin tức rất lớn thu nhận về từ các đặc
phái viên và các hãng thông tấn, đơn giản là vì diện tích tờ báo có giới hạn,
không thể đăng tải hết tất cả nên người làm báo buộc phải làm công việc chọn
lọc những tin nào đăng được và loại bỏ những tin nào. Chính điều này dẫn đến
quan niệm cho rằng nhà báo thực chất là một người gác cửa. Qủa vậy, hàng
ngày công chúng không thể ngốn hết tất cả mọi loại tin tức và sự kiện xảy ra
trong xã hội. Do đó nhiệm vụ của người làm báo là chọn lọc và sắp xếp lại tin
tức sao cho có trật tự để mọi người tiện theo dõi. Tất nhiên người ta luôn cố
gắng làm sao cho việc chọn lọc này diễn ra một cách khách quan nhất. Tuy vậy
người ta cũng khó tránh khỏi một mức độ chủ quan nào đó trong việc chọn lọc
tin tức để đăng tải trên mặt báo, nhất là khi trong thực tế công việc hàng ngày
người làm công tác truyền thông vẫn thường phải chịu những áp lực khác nhau.
Áp lực trực tiếp chi phối công việc của bất kỳ nhà truyền thông nào đó là
chủ trương đường lối của báo hay của đài mà người đó đang làm việc. Điều đó
dễ hiểu, bởi bất cứ ai mới được tuyển vào một cơ quan báo chí cũng đều cố gắng
tìm hiểu, thích nghi với môi trường làm việc mới của mình - hay nói cách khác
tự mình cố gắng "xã hội hóa" để trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức này. Có
nhiều cách để một phóng viên mới hiểu được đường lối của tờ báo như: đọc bài
vở của các đồng nghiệp để coi họ viết thế nào, nếu đọc được bản thảo thì càng
tốt hơn nữa vì lúc đó có thể thấy được chỗ nào được sửa chữa, điều chỉnh; trò
chuyện hỏi han các đồng nghiệp lâu năm; tham dự các cuộc họp trong tờ báo...
III. Xã hội học truyền thông nghiên cứu về nội dung truyền thông
1. Khái niệm nội dung truyền thông
Nội dung truyền thông được hiểu như là tất cả những gì xuất hiện trên
phương tiện truyền thông đại chúng, kể từ tin tức, bài báo hay hình ảnh trên báo
in, cho đến những âm thanh và hình ảnh được phát sóng trên đài phát thanh hay
truyền hình.
2. Những đặc điểm của nội dung truyền thông
2.1.Văn phong báo chí
Sự ra đời của báo chí và quá trình chuyên nghiệp hóa báo chí trên thế giới
đã dần dà làm cho văn phong báo chí trở thành một loại văn phong riêng biệt
chưa từng có trước kia, khác hẳn những loại văn phong khác như tiểu thuyết,
văn chương, văn phong nghiên cứu, hay văn phong hành chính.

23
Trên thế giới, văn phong báo chí được hình thành kể từ cuối thế kỷ XIX,
chủ yếu thoát thai từ từ các nền báo chí của Anh và Mỹ. Truyền thống báo chí ở
các nước này đã xác lập một số qui tắc và thể thức viết lách nhất định mà ngày
nay hầu hết các sách giáo khoa dạy làm báo trên thế giới đều coi là những
nguyên tắc chung trong nghề nghiệp. Chẳng hạn quy tắc 5W + 1H, hay quy tắc
"hình tháp ngược" là các tin chủ chốt đưa lên hàng đầu sau đó mới là các tin chi
tiết, bối cảnh hay diễn giải.
Đặc điểm của văn phong báo chí không phải do các tòa soạn hay trường
báo quy định mà quan trọng do yêu cầu của phía công chúng, độc giả hay khán
thính giả: một khi đã quen đọc báo, nghe đài hay coi tivi, người ta thường mặc
nhiên mong muốn và chờ đợi tin tức được tường thuật trong một khuôn khổ nhất
định và trình tự nhất định (chẳng hạn quy tắc 5W + 1H nói trên)
Ngoài đặc trưng quan trọng nhất của văn phong báo chí là tính chất khách
quan, còn cần phân biệt 3 nét đặc trưng sau đây:
- Bám sát sự kiện: văn phong báo chí luôn luôn ưu tiên bám sát sự kiện.
Dù một bài báo có thể giải thích một sự kiện hoặc đôi khi bày tỏ chính kiến
trước sự kiện đó, nhưng yêu cầu quan trọng trước hết là nó phải phản ánh chính
xác sự kiện
- Mang tính chất sư phạm: phải trong sáng, chuẩn xác và mẫu mực. Khi
đặt bút viết, nhà báo phải luôn luôn có phản xạ tự đặt mình vào vị thế của độc
giả, để lường trước trình độ giải mã của độc giả, dự đoán cách thức mà họ tiếp
nhận bản tin như thế nào, và phản ứng của họ có thể đối với bản tin đó. Vì thế,
yêu cầu đầu tiên của lối hành văn báo chí là phải hết sức sáng sủa, dễ hiểu, từ
ngữ sử dụng phải hợp lý với khả năng tiếp nhận và khả năng giải mã của đối
tượng độc giả của mình
- Chức năng "kiểm thông" tức là chức năng kiểm tra mạch truyền thông
và tìm cách thu hút sự chú ý của người nghe. Đây là chức năng của những từ
hay những thủ pháp dùng để giữ liên lạc với người đối thoại (thí dụ những từ
như alo, hay ờ ờ...để duy trì mạch trò chuyện với người đang nghe), để "giữ
chân" người đọc, làm cho họ lưu tâm và theo dõi và đừng bỏ rơi bản tin mà họ
đang đọc. Trên báo in, bên cạnh cách hành văn, người ta còn thực hiện chức
năng kiểm thông này bằng nhiều phương thức đa dạng như cách đặt tít lớn hay
tít nhỏ, cho thêm các đọa trích (đóng khung), sắp xếp vị trí của hình ảnh hay

24
cách giàn trang sao cho bắt mắt nhằm gây sự chú ý đến một "bài đinh" nào
đó...Còn trên truyền hình, đó có thể là cách bố cục các cảnh quay của một thiên
phóng sự theo thứ tự thế nào đó để dẫn dắt khán giả, phối hợp cường độ âm
thanh và màu sắc...nhằm thu hút sự quan tâm của khán giả vào những đoạn cần
thiết.
IV. Xã hội học truyền thông đại chúng nghiên cứu về ảnh hưởng của
truyền thông đến xã hội
1. Phổ biến thông tin và kiến thức
Chức năng đầu tiên, và cũng là tác dụng đầu tiên thường được nhắc tới
của phương tiện TTĐC đó là cung cấp thông tin và kiến thức cho người dân.
Qủa vậy, qua các cuộc điều tra, phần lớn người dân thường trả lời là mình biết
tin tức, thời sự nhờ theo dõi các phương tiện TTĐC. Trong các cuộc điều tra xã
hội học, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây để khảo sát về tính chất và
mức độ theo dõi TTĐC của công chúng:
- Số người biết về một tin tức cụ thể nào đó
- Tầm quan trọng của tin ấy đối với người dân (mức độ chú ý)
- Nguồn tin là từ đâu (người dân biết tin ấy từ phương tiện TTĐC hay do
người khác nói lại)
- Người dân hiểu tin ấy như thế nào
- Và sau một thời gian nhất định, mọi người có còn nhớ tin ấy không và
nếu còn thì nhớ như thế nào?
Điều cần lưu ý ở đây là công chúng thường tiếp nhận thông tin và kiến
thức không phải chỉ nhờ theo dõi các chương trình tin tức, thời sự mà kể cả
thông qua các chương trình giải trí trong TTĐC. Tuy nhiên, trong quá trình khảo
sát và phân tích, nhà nghiên cứu thường khó mà xác định được một cách chính
xác đâu là phần đóng góp của các phương tiện truyền thông vào sự hiểu biết tin
tức, thời sự của người dân, bởi lẽ họ còn có nhiều nguồn khác để thu nhận thông
tin. Chẳng hạn, qua một cuộc điều tra khảo sát về mối quan hệ giữa mức độ
theo dõi thông tin đại chúng với kiến thức chính trị, người ta chưa bao giờ đi đến
được một kết luận rõ ràng về mối liên hệ tương quan có ý nghĩa giữa hai biến số
này. Người ta nhận xét thấy là: mặc dù truyền hình là phương tiện được công
chúng xem nhiều nhất nhưng chính những người đọc báo in thường xuyên mới
là người nắm vững kiến thức thời sự hơn. Người ta nhận thấy những người đọc

25
báo in thì khi coi tivi họ thường ghi nhớ sự kiện tốt hơn những người chỉ coi ti
vi mà thôi.
2. Giả thuyết về "hố chênh lệch kiến thức"
Một trong những hậu quả xã hội có thể có của TTĐC là sự cách biệt ngày
càng tăng về kiến thức - đó là giả thuyết về "hố chênh lệch kiến thức". Gỉa
thuyết cho rằng những tầng lớp xã hội có địa vị kinh tế xã hội cao thường
thường thu nhận thông tin nhiều hơn và nhanh hơn so với những tầng lớp ở vị trí
thấp hơn, do đó khoảng cách chênh lệch giữa hai nhóm này ngày càng giãn
rộng. Nhiều cuộc điều tra khác cũng khẳng định rằng có một mối liên hệ tương
quan rất chặt chẽ giữa việc thuộc về một tầng lớp kinh tế xã hội cao với mức độ
chú ý tới các vấn đề chính trị, xã hội và kinh tế.
Năm 1965-1966, Michel Souchon đã tiến hành một cuộc nghiên cứu khá
quy mô về vai trò của truyền hình trong cuộc sống của giới trẻ trên tổng số mẫu
là 1445 học sinh từ 16-18 tuổi ở các trường ở thị trấn Saint Etienne (vùng Loire,
Pháp), bằng phương pháp trắc nghiệm khả năng tiếp nhận và hiểu các chương
trình truyền hình. Ông rút ra kết luận sau đây: trước hết ông khẳng định truyền
hình là một phương tiện "đồng nhất hóa văn hóa", bởi vì nó có khả năng cung
cấp cho tất cả mọi người những thông tin mới mẻ. Tuy nhiên, trong thực tế
người ta lại nhận thấy có những nét khác biệt rất lớn trong cách "tiêu thụ" các
chương trình truyền hình (thí dụ người xem nhiều người xem ít, người thích coi
chương trình này người thích chương trình khác). Gỉa sử là mọi người đều tiêu
thụ như nhau thì cách tiếp nhận lại rất khác nhau giữa các tầng lớp văn hóa xã
hội. "dù họ có coi cùng một chương trình truyền hình thì những khán giả có vốn
trí tuệ và văn hóa khác nhau sẽ không tiếp nhận những thông điệp giống nhau,
và sẽ không ghi nhớ những yếu tố như nhau". Truyền hình không phải là một
phương tiện đương nhiên làm giàu về mặt văn hóa cho mọi người mà ngược lại
nó rất có thể làm giàu cho người giàu hơn là người nghèo, và là nguồn gốc của
một hiện tượng nếu không phải là "bần cùng hóa tuyệt đối" thì cũng là "bần
cùng hóa tương đối"
Ở Mỹ vì không có trường mẫu giáo nên trẻ em vào lớp 1 thường bị chênh
lệch nhau rất nhiều về trình độ do thuộc những tầng lớp kinh tế xã hội khác
nhau. Vì thế vào 1969, nhiều cơ quan nghiên cứu, đại học và đài truyền hình đã
hợp tác với nhau để cho ra đời một chương trình mang tên "Sesame street" dành

26
cho trẻ em từ 3-5 tuổi, đặc biệt chú ý đến trẻ em thuộc các tầng lớp yếu kém
trong xã hội. Chương trình này được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, chăm chút làm
sao thu hút được số lượng khán giả nhỏ tuổi này, kể cả trường hợp chúng có thể
xem một mình mà không cần người lớn ngồi bên cạnh giải thích thêm. Nội dung
nhằm mục tiêu làm cho trẻ em chưa đi học làm quen dần với các mẫu tự và con
số, những cách tính toán và những cách lập luận sơ đẳng, những nguyên tắc vệ
sinh và giáo dục công dân cơ bản làm sao cho các em dần ý thức về cơ thể của
mình và môi trường xung quanh. Chương trình được phát trên 200 đài truyền
hình, mỗi ngày một tiếng và được hàng triệu trẻ em theo dõi.
Sau vài tháng phát sóng chương trình trên đây, các nhà nghiên cứu đã tiến
hành thẩm định hiệu quả và nhận thấy như sau:
- Những đứa trẻ nào theo dõi các chương trình đều đặn nhất thì được học
hỏi được nhiều nhất.
- Nhưng cũng xuất hiện tình hình là những đứa trẻ thuộc những gia đình
có đời sống văn hóa khá giả hơn thì tận dụng được chương trình này nhiều hơn.
Rõ ràng là nếu đứa trẻ có môi trường nếu nó có điều kiện trao đổi, hỏi han cha
mẹ hay người lớn thì hiệu quả của chương trình sẽ đạt cao hơn - trong khi đó
mục đích chính của chương trình này thực ra lại nhằm vào chính những đứa trẻ
thuộc các gia đình thiệt thòi và yếu kém nhất, và vào những đứa trẻ phải ở nhà
coi ti vi một mình
3. Truyền thông và bạo lực
Vào những năm 1960, ở Mỹ và Tây Âu, người ta chứng kiến một sự gia
tăng đáng lo ngại về những làn sóng bạo lực trong xã hội như sự nổi loạn của
giới trẻ, biểu tình, ám sát, tội phạm...Thập niên này cũng là thời gian mà truyền
hình đã trở thành một phương tiện thông tin phổ biến trong dân chúng. Nhiều
người đã vội vàng kết luận rằng nguồn gốc của những phong trào phản kháng và
tâm lý hiếu chiến nơi thanh niên chính là những chương trình mang nhiều hình
ảnh bạo lực trên đài truyền hình. Nhưng thực tế có phải như vậy hay không? Các
giới nghiên cứu đã tiến hành rất nhiều cuộc điều tra để tìm hiểu sâu xa hơn các
vân đề này, kể cả góc độ tâm lý, tâm lý xã hội và xã hội học.
Nói chung, người ta có thể xếp các công trình nghiên cứu về vấn đề này
theo ba quan điểm chính sau đây:

27
Quan điểm thứ nhất cho rằng tác dụng của những loại phim truyền hình
có nhiều hình ảnh bạo lực là giải tỏa những ức chế của người dân. Người ta gọi
tác dụng này là "tác dụng giải tỏa". Trong cuộc sống hàng ngày người ta vẫn hay
gặp những hoàn cảnh bị ấm ức , ức chế dẫn đến những hành vi khiêu khích và
bạo lực. Tác dụng giải tỏa của truyền hình là giúp người ta giải tỏa những ức chế
đó bằng cách tham gia bằng óc tưởng tượng vào những cảnh bạo lực diễn ra
trong những cuốn phim được chiếu trên truyền hình. Tác dụng giải tỏa của
truyền hình này có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các tầng lớp xã hội bên dưới,
so với những tầng lớp trung lưu và thượng lưu bởi vì những tầng lớp trên có
nhiều điều kiện hơn để xử lý các ức chế và kiểm soát các cảm xúc hiếu chiến
của mình.
Đối lập với quan điểm trên là quan điểm của những người cho rằng các
phương tiện truyền thông đại chúng là nguồn gốc phát sinh các hành vi bạo lực,
có khả năng làm gia tăng thêm kiểu ứng xử bạo lực nơi người dân. Càng xem
nhiều cảnh bạo lực trên truyền hình người ta càng gia tăng mức độ cảm xúc và
điều này dẫn đến chỗ càng dễ ứng xử với người khác trong cuộc sống theo
chiều hướng bạo lực. Một khi những cảnh bạo lực đã được bình thường hóa trên
truyền hình (vì xuất hiện thường xuyên trên truyền hình) và hơn nữa có khi còn
được hợp pháp hóa (chẳng hạn cho những tình huống tự vệ chính đáng), thì khán
giả, nhất là khán giả nhỏ tuổi dễ bắt chước theo những kiểu phản ứng bằng hành
vi bạo lực tương tự. Vì thế, những người theo quan điểm này thường kêu gọi các
nhà làm truyền hình hết sức thận trong và cân nhắc khi trình chiếu những cảnh
bạo lực trên màn ảnh, và họ cho rằng nếu đưa ra những nhân vật ít bạo lực hơn
thì sẽ góp phần làm giảm kiểu ứng xử bạo lực nơi người xem.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thực ra cảnh bạo lực xuất hiện trên truyền
hình không phải là thủ phạm của hành vi bạo lực của người xem, mà chỉ có tác
dụng củng cố thêm cho những mô hình ứng xử bạo lực vốn đã có sẵn nơi họ.
Những người theo quan điểm này lập luận rằng việc tiếp nhận và tiêu hóa những
thông điệp xuất hiện trên truyền hình còn phụ thuộc vào các tiêu chuẩn và giá trị
đạo đức sẵn có nơi khán giả, phụ thuộc vào vị trí, vai trò xã hội của những đặc
điểm tâm lý và xã hội của khán giả. Nếu một người có một cuộc sống lành
mạnh, có những quan hệ hòa hợp với những người xung quanh, thì những cảnh
bạo động trên truyền hình khó lòng làm thay đổi được kiểu ứng xử bình thường

28
của anh ta trong cuộc sống. Nhưng ngược lại, nếu gặp một người vốn ở vào
hoàn cảnh đã có những bất ổn và trục trặc trong mối quan hệ với người khác thì
bạo lực trên truyền hình rất có thể tác động thêm vào lối ứng xử khiêu khích và
hiếu chiến của anh ta. Vì thế, các nhà nghiên cứu theo quan điểm này cho rằng
không phải cứ xóa bỏ những cảnh bạo lưc trên truyền hình thì tự khắc xóa bỏ
được các hiện tượng bạo lực trong xã hội.
4. Tác dụng của báo in
- Báo chí là phương tiện giúp người ta cảm thấy mình là thành viên của
một cộng đồng. Nhiều cuộc điều tra ở Pháp cho thấy những người đọc báo
thường xuyên cũng là những người tham gia tích cực vào đời sống xã hội. Tập
quán đọc báo vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sự tham gia vào đời sống
xã hội. Người ta không thể tham gia hoạt động xã hội nếu không thường xuyên
theo dõi tin tức, thời sự. Và ngược lại, việc đọc báo và nắm được thông tin cũng
lại thúc đẩy người ta tích cực gia nhập vào các sinh hoạt tập thể nhiều hơn
Theo một cơ chế của ngành phân tâm học gọi là "sự đồng hóa" hành vi
đọc báo có thể làm cho mỗi độc giả cảm thấy như mình được đồng hóa với xã
hội, mình là thành viên của xã hội. Khi đọc báo, người ta thấy những biến cố
được tường thuật đều là những biến cố của thế giới mình đang sống. Những vấn
đề cần trình bày đều là những vấn đề của xã hội mà mình đang là thành viên.
Những ý kiến và phản hồi của độc giả được đăng tải trên mặt báo, vì thường
mặc nhiên được coi là phản ánh ý kiến của nhiều người, của công chúng, nên
trong chừng mực nào đó nhiều độc giả coi đấy cũng là ý kiến và phản ứng của
chính mình. Khi đọc báo, chúng ta thường có một cảm giác rất ràng rằng cũng
có rất nhiều độc giả đang đọc cùng một lúc với mình, và cũng phản ứng giống
mình. Hành vi đọc báo, vì thế đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp cho
người ta tự coi mình là thành viên của cộng đồng.
Chức năng tâm lý - xã hội thứ hai của báo chí là chức năng giải trí. Nhiều
người khi nghiên cứu về báo chí thường hay bỏ quên chức năng này; thực ra giải
trí là một chức năng hoàn toàn có thực của báo in. Trong công chúng luôn luôn
có một tỷ lệ độc giả khá lớn coi việc đọc báo là một hành vi thường làm lúc nghỉ
ngơi, rảnh rỗi. Cũng chính vì thế mà nhiều người trả lời rằng sở dĩ họ ít đọc báo
là vì không có thời gian. Nhiều người đọc báo trong khoảng thời gian trống hay
giờ nghỉ: ăn trưa, sắp đi ngủ, đi xe bus, chờ cắt tóc...Nội dung của một tờ nhật

29
báo luôn luôn có một số mục giúp đỡ độc giả giải trí như chuyện cười, biếm họa,
ô chữ, thơ ca, truyện...Kể cả các mục linh tinh cũng là một thể loại mà độc giả
thường đọc để giải khuây, tạm quên đi sự tẻ nhạt đều đặn trong cuộc sống
thường nhật.
Có thể nói người ta chọn mua một tờ báo nào đó không chỉ vì tờ báo có
nhiều thông tin mà còn vì họ thấy đọc tờ báo này hấp dẫn hơn tờ báo khác. Và
người làm báo không thể không lưu tâm đến điều này.
- Chức năng thứ ba của báo in là chức năng tâm lý trị liệu. Khi nói báo chí
có chức năng giải trí thì cũng đồng thời nói báo chí có chức năng trị liệu tâm lý.
Bởi lẽ sự giải trí có thể làn cho người ta được nghỉ ngơi, đem lại hiệu quả thư
giãn, làm vơi nhẹ nỗi muộn phiền, u uất, giải tỏa nhưng tâm trạng xung đột
trong cuộc sống. Cuộc sống trong xã hội hiện đai thường gây ra hệ quả làm dồn
nén những xung đột tâm lý và sinh lý trong mỗi con người.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Trong thời đại mà truyền hình và các phương tiện thính thị ngày càng
phát triển, phải chăng báo in đã hết thời?
2. Có phải người ta sẽ không còn cần tới giấy hay sách vở nữa?
3. Có thực sự là trong tương lai người ta không cần phải đọc?

30
CHƯƠNG 4: XÃ HỘI HỌC DƯ LUẬN XÃ HỘI
I. Định nghĩa dư luận xã hội
Thuật ngữ dư luận xã hội được sử dụng khá phổ biến, hình thức biểu hiện
đa dạng và đối tượng phức tạp
DLXH chỉ nảy sinh khi vấn đề mang ý nghĩa xã hội, động chạm đến lợi
ích chung, giá trị chung
DLXH được hình thành trên cơ sở các ý kiến cá nhân nhưng nó không
phải là tập hợp cơ học các ý kiến cá nhân
DLXH là trạng thái đặc trưng của ý thức xã hội, tâm trạng xã hội
DLXH (Public Opinion) là ý kiến và thái độ của công chúng sau một quá
trình trao đổi trong xã hội về các vấn đề xã hội mà họ cảm thấy có ý nghĩa xã
hội đối với họ hoặc các vấn đề xã hội đó có liên quan đến nhu cầu, lợi ích
chung.
- Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện và
tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của xã hội loài người.
+ Trong triết học phương Đông, dù khái niệm DLXH chưa định hình
nhưng các học giả đã nói đến những hiện tượng tương tự như “lòng dân”, “ý
dân”, “dân là gốc của nước”. Khổng Tử cho rằng “Dân vi bản”. Mạnh Tử thì
khẳng định: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”.
+ Các nhà XHH Liên Xô định nghĩa: “DLXH là sự phán xét, đánh giá của
các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm”.
+ Nhà XHH người Mỹ Young: “Dư luận là sự phán xét đánh giá của các
cộng đồng xã hội đối với các vấn đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi
có sự tranh luận công khai”.
- Trong lịch sử, các nhà kinh điển đều đánh giá rất cao vai trò của DLXH.
+ Các Mác khẳng định: “Các đại biểu thường xuyên kêu gọi sự ủng hộ
của dư luận nhân dân và đem đến cho dư luận nguồn phát ngôn ý kiến thực sự
của mình”.
+ Ănghen: “Sự tiến bộ to lớn trong DLXH là tiền đề của biến đổi xã hội”.
- Định nghĩa DLXH: Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội biểu thị các
luồng ý kiến cá nhân (đánh giá, nhận xét, khen chê, sự bày tỏ tâm tư, nguyện
vọng) trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự, có liên quan đến lợi
ích, các mối quan tâm của công chúng.

31
+ Chủ thể của DLXH: Các nhóm trong xã hội mà lợi ích của họ có mối
quan hệ nhất định với các vấn đề diễn ra trong xã hội và được đưa ra thảo luận.
+ Khách thể của DLXH: Các sự kiện, hiện tượng, quá trình đang diễn ra
trong xã hội mà nó đề cập đến.
- Nghiên cứu về DLXH, từ khái niệm chúng ta thấy cần chú ý những nội
hàm cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, mỗi luồng ý kiến là một tập hợp các ý kiến cá nhân giống
nhau.
+Thứ hai, DLXH có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí
đối lập nhau.
+ Thứ ba, luồng ý kiến có thể rộng (đa số) hoặc hẹp (thiểu số).
+ Thứ tư, DLXH là tập hợp, quan hệ hữu cơ và cộng hưởng các ý kiến cá
nhân, chứ không phải là ý kiến của một tổ chức, được hình thành theo con
đường tổ chức (hội nghị, hội thảo…).
+ Thứ 5, DLXH không phải là một phép cộng thuần túy các ý kiến cá
nhân mà là một chỉnh thể tinh thần xã hội, thể hiện nhận thức, tình cảm, ý chí
của các lực lượng xã hội nhất định.
* Dư luận xã hội và tin đồn
- Tin đồn là hiện tượng tâm lý xã hội và là hiện tượng rất dễ nhầm lẫn với
DLXH.
- Theo Allport và Postman, tin đồn “là một sự khẳng định về một chủ đề
được quan tâm mà không có đủ bằng chứng tin cậy được đưa ra”. Đây là khái
niệm được nhiều nhà nghiên cứu về DLXH đồng tình.
- Nghiên cứu về tin đồn, chúng ta thấy nó nổi lên một số đặc điểm cơ bản
sau:
+ Thứ nhất, tin đồn là sự khẳng định chung của một nhóm người về một
vấn đề nào đó của xã hội có thể có thực hoặc không có thực, nhưng không có dữ
liệu để kiểm chứng.
+Thứ hai, tin đồn là một dạng thông tin không chính thức, thông thường
là bịa đặt, phao tin, đồn nhảm.
+ Thứ ba, tin đồn chủ yếu dựa vào cảm xúc chủ quan, phụ thuộc nhiều
vào trạng thái tâm lý của cá nhân người tiếp nhậnnên tính tự phát lớn, lan truyền
nhanh. Tin đồn thường bị xuyên tạc bởi tính chủ quan của người truyền tin.

32
+ Thứ tư, chủ đề và mức độ lan truyềncủa tin đồn luôn tỷ lệ thuận với tầm
quan trọngvà sự mập mờ của tin đồn.
- Những điểm giống nhau giữa DLXH và tin đồn:
+ DLXH hay tin đồn đều thuộc về ý thức xã hội, thuộc về đời sống tinh
thần.
+ Đối tượng để khởi phát DLXH hay tin đồn đều là thông tin (nghĩa là
đều có sự kiện, vấn đề xã hội).
+ Dù DLXH hay tin đồn ở mức độ nào thì đều có những tác động nhất
định đến đời sống xã hội.
+ Tốc độ lan truyền nhanh.
- Những điểm khác biệt giữa DLXH và tin đồn.
+ Về nguồn thông tin: Nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát
từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); còn nguồn thông tin của
dư luận xã hội lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến
của tôi thì...).
+ Kênh phổ biến của DLXH: Kênh phổ biến của DLXH chủ yếu là kênh
phương tiện truyền thông đại chúng; còn tin đồn chủ yếu qua kênh cá nhân,
mang nặng màu sắc chủ quan của cá nhân.
+ Vấn đề được đề cập: Vấn đề được đề cập của DLXH thường liên quan
đến lĩnh vực chung, liên quan đến cộng đồng; còn của tin đồn có thể là những
vấn đề của cá nhân và cũng có thể là những vấn đề chung.
+ Sự tham gia của yếu tố tinh thần: DLXH là sự phán xét, đánh giá
chung, biểu thị tư duy, tình cảm, thái độ đồng tình hay phản đối của đại đa số
trong cộng đồng đối với sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội. Trong khi đó tin
đồn chỉ là thông tin đơn thuần về sự kiện, hiện tượng theo lối mô tả, kể lại, chứa
đựng nhiều thiên kiến, quan điểm cá nhân người đưa tin.
+ Về tính ổn định: Tính ổn định của DLXH thường cao hơn, khó thay đổi
hơn, còn tin đồn thì rất dễ thay đổi.
- Tính tiêu cực của tin đồn:
+ Phá hoại kinh tế (thị trường chứng khoán, ngân hàng)…
+ Làm mất hoặc suy giảm uy tín của cá nhân hay tổ chức.
+ Gây mất ổn định về chính trị, an ninh quốc gia và TTATXH.
- Giá trị tích cực của tin đồn:

33
+ Tin đồn cũng có chức năng thông tin, mang lại thông tin cho công
chúng.
+ Tin đồn có chức năng giải tỏa tâm lý.
+ Tin đồn có thể được sử dụng để đo phản ứng của xã hội
II. Quá trình hình thành dư luận xã hội
Các nhà xã hội học coi quá trình hình thành dư luận xã hội gồm 4 giai
đoạn:
1. Bước 1
Các cá nhân tiếp xúc, làm quen với thông tin về sự kiện, hiện tượng, quá
trình xã hội đang diễn ra và tìm kiếm thêm thông tin, trao đổi thảo luận với
nhau để có thể hình thành những ý niệm ban đầu về sự kiện, hiện tượng xã
hội đó.
2. Bước 2
Các ý kiến cá nhân được trao đổi bàn bạc tong nhóm. Cơ sở cho việc thảo
luận nhóm là lợi ích chung của nhóm và hệ thống giá trị chuẩn mực chi phối các
khuôn mẫu tư duy và hành vi của các thành viên trong nhóm. Ở đây, ý thức cá
nhân đã dần dần chuyển sang ý thức xã hội.
3. Bước 3
Các nhóm trao đổi, tranh luận với nhau cùng tìm đến những điểm chung
trong những ý kiến, quan điểm của mỗi nhóm. Cơ sở cho quá trình này là lợi ích
và hệ thống giá trị, chuẩn mực chung cùng được các nhóm chia sẻ và thừa nhận.
4. Bước 4
Trên cơ sở thảo luận, các nhóm đi đến những phán xét, đánh giá chung được
đa số thừa nhận. Như vậy, DLXH được hình thành thể hiện thái độ của đông đảo
cộng đồng người và thúc đẩy hành động thực tế của họ.
Trên thực tế, quá trình hình thành dư luận xã hội luôn diễn ra xuất phát từ
một sự kiện nhất định. Luồng dư luận phản đối xuất bản truyện ngôn tình Trung
Quốc hay vụ Công viên nước Hồ Tây ở Hà Nội trong thời gian qua cũng phản
ánh rõ nét quá trình này.
Trên cơ sở đó, DLXH là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Trong
đó, truyền thông đại chúng là cơ chế hữu hiệu đảm bảo sự hình thành DLXH
trên phạm vi rộng lớn và trong giới hạn thời gian phù hợp để đảm bảo tính thời
sự.

34
DLXH sau khi được hình thành sẽ phát triển theo các chiều hướng khác
nhau: Nếu DLXH được giải quyết thỏa đáng thì DLXH sẽ tiêu vong; Nếu không
được giải quyết thỏa đáng, DLXH sẽ tăng thêm cường độ hoặc xuất hiện DLXH
mới theo chiều hướng mới (có thể DLXH lắng xuống chuyển sang dạng tiềm ẩn;
có thể DLXH chuyển sang dạng hành động).
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện tồn tại nhiều
thành phần kinh tế, ngoài lợi ích chung thống nhất, còn có lợi ích riêng. DLXH
đối với một sự kiện nào đó cũng có thể đúng cũng có thể sai. Người
nghiên cứu DLXH, phải tìm hiểu phân tích sâu sắc DLXH, làm rõ cái đúng, cái
sai mà hướng dần dư luận phát triển theo hướng đúng, tức là theo đường lối
quan điểm của Đảng và pháp luật của nhà nước. Có thể có ý kiến khác nhau giữa
các cộng đồng người với nhau.
Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý học, cơ chế hình thành dư luận xã hội
không đơn giản như vậy. Trong thực tế, sự hình thành dư luận xã hội thường
diễn ra rất nhanh. Khi có các thông tin về sự kiện, các phán xét giống nhau ở
mọi người được “bật ra” hầu như cùng một lúc, giống như phản ứng dây chuyền,
không cần giai đoạn tranh luận, trao đổi thông tin. Nền tảng của các phản ứng
này là các khuôn mẫu tư duy xã hội đã được định hình, tồn tại trong tiềm thức và
gắn kết với tâm thế xã hội.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến dư luận xã hội
1. Trình độ hiểu biết của công chúng, nhóm xã hội.
Thực tế cho thấy, mỗi cá nhân tham gia vào DLXH, tham gia trình bày ý
kiến, quan điểm, suy nghĩ… của mình để hình thành DLXH một khi họ am
hiểu/hoặc không am hiểu về một vấn đề nào đó có liên quan. Lúc này sẽ xuất
hiện các luồng dư luận xã hội khác nhau.
2. Khuôn mẫu tư duy xã hội (chuẩn mực xã hội)
DLXH luôn chịu sự tác động của khuôn mẫu tư duy xã hội. Hay nói một
cách khác, một vấn đề nào đó, nếu đụng chạm đến khuôn mẫu tư duy xã hội,
đụng chạm đến một chuẩn mực xã hội nào đó hiện đang được thừa nhận rộng rãi
trong xã hội, thì sẽ tác động đến mức độ, sắc thái của DLXH.
3. Lợi ích nhóm, tầng lớp, giai cấp, quốc gia, dân tộc

35
Cường độ, sắc thái của DLXH chịu sự tác động rất lớn của yếu tố lợi ích.
Đó có thể là lợi ích của nhóm, của tầng lớp, của giai cấp, hay là lợi ích của một
quốc gia, dân tộc.
4. Sự tác động của truyền thông đại chúng
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bảo của công nghệ
thông tin, truyền thông đại chúng đã có những tác động hết sức mạnh mẽ tới
DLXH. Bởi lẽ, truyền thông đại chúng ngày càng có phạm vi hoạt động rộng
lớn, cung cấp thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội. Một vấn đề, sự kiện nào
đó xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên thế giới có thể hình thành DLXH, nếu có sự tham
gia của truyền thông đại chúng thì tốc độ lây lan và hình thành DLXH là rất cao.
IV. Các chức năng, vai trò và ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã
hội
1. Các chức năng của dư luận xã hội
1.1. Chức năng đánh giá
Dư luận xã hội thể hiện thái độ phán xét đánh giá của công chúng đối với
các sự kiện, hiện tượng, sự vật, vấn đề cuộc sống. Dư luận xã hội có vai trò quan
trọng trong việc hình thành thang giá trị xã hội. Trên thực tế, người ta thường
chạy theo các giá trị mà dư luận xã hội đề cao chứ không phải các giá trị do các
nhà tư tưởng, lý luận đề ra. Thang giá trị do các nhà tư tưởng, lý luận đề ra, cho
dù có đúng đến đâu, cũng khó có thể đi vào thực tế nếu không được dư luận xã
hội tán thành, ủng hộ. Thang giá trị của dư luận xã hội mỗi thời một khác. Ví dụ,
đầu những năm 60, các giá trị vật chất được dư luận xã hội đề cao là "một yêu
anh có pô-giô, hai yêu anh có đồng hồ đeo tay…". Trong những năm 80, các giá
trị được đề cao không còn là xe đạp pô-giô, đài, đồng hồ nữa mà là xe máy, cat-
set, ti-vi, tủ lạnh....
1.2. Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội
Dư luận xã hội rất nhạy cảm với các hành vi xâm phạm lợi ích chung, lợi
ích của toàn xã hội, nhất là hành vi của các phần tử, các nhóm cực đoan, lên án
kịp thời và gay gắt các hành vi này, làm cho cho các cá nhân, các nhóm cực
đoan phải “chùn tay”; dư luận xã hội cũng rất quan tâm đến các hành vi có lợi
cho toàn xã hội, kịp thời cổ vũ, các cá nhân, nhóm xã hội thực hiện các hành vi
này. Nhờ sự can thiệp kịp thời, dư luận xã hội góp phần duy trì trật tự xã hội,
mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và xã hội cũng như giữa các nhóm xã hội.

36
Đây là chức năng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân khái niệm điều
hòa các mối quan hệ xã hội cho phép chúng ta hiểu được những tác động trực
tiếp Ví dụ cho chức năng này của DLXH, như chúng ta được biết năm 2011,
Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền với hai hòn đảo Hoàn Sa và Trường Sa
của Việt Nam với cơ sở pháp lý là "đường lưỡi bò" ôm gần trọm vùng biển
Đông. DLXH VN cũng như một số nước Đông Nam Á đã cực lực lên án hành
động trên của TQ bởi những lý lẽ mà TQ đưa ra là thiếu thuyết phục, gây ảnh
hưởng đến VN cũng như vi phạm nghiêm trọng Công ước luật biể 1982 mà VN
và TQ đều là thành viên. Mặc dù hiện nay vấn đề này vẫn chưa ngả ngũ và hai
quốc gia VN hay gián tiếp đến quan hệ của các nhóm trong xã hội nhằm đạt
được những hoạt động chung và sự chi sẻ, thừa nhận của các nhóm xã hội. Khi
đã hình thành, DLXH biểu thị thái độ, quan niệm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại
đa số người trong cộng đồng, do đó nó có sức mạnh to lớn. Trong lịch sử xã hội
loài người, DLXH đóng vai trò điều hòa các mối quan hệ xã hội ngay cả trong
khi xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật,
nghĩa là trong xã hội nguyên thủy. Theo quan điểm của Ănggen thì "trong chế
độ xã hội này không hề có các phương tiện ép buộc nào khác ngoài DLXH".
Trên cơ sở đánh giá, phán xét các hiện tượng, sự kiện xã hội xảy ra trong đời
sống xã hội, DLXH góp phần hình thành các chuẩn mực xã hội, chỉ ra những
việc nên làm, những điều nên tránh, điều chỉnh hành vi, cách cư xử của mọi
người. Nó làm cho các phong tục, tập quán truyền thống đã hình thành trong quá
khứ phát huy được vai trò, tác dụng trong xã hội hiện đại. DLXH đóng vai trò là
"người canh giữ", bảo vệ các quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội cũng như
các giá trị, lợi ích cá nhân chính đáng của con người.
Đối với đại đa số nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn có tầm quan
trọng hàng đầu. Mỗi khi quyền lợi, các quốc gia, dân tộc bị xâm hại thì ngay lập
tức DLXH sẽ xuất hiện với thái độ lên án cực lực, phản đối gay gắt. Mỗi khi cá
nhân hay nhóm xã hội nào đó có hành vi xâm hại đến lợi ích quốc gia , dân tộc
cũng như lợi ích đặc thù của nhóm xã hội, DLXH cũng lập tức lên án, gây sức
ép nhằm ngăn chặn hành vi đó. Nhờ sự can thiệp kịp thời, DLXH góp phần duy
trì trật tự xã hội, mối quan hệ hài hòa giữa các cá nhân và xã hội giữa các nhóm
xã hội với nhau cũng như giữa các nhóm xã hội với nhau.
1.3. Chức năng giáo dục của dư luận xã hội

37
Nhờ có uy tín lớn, sự khen chê, khuyên bảo của dư luận xã hội có tác
động rất mạnh đến ý thức và hành vi của con người, nhất là đối với các thế hệ
trẻ. Bằng sự khen, chê, khuyên can kịp thời đối với các hành vi phù hợp hoặc
không phù hợp với lợi ích, các giá trị xã hội, nhất là các giá trị đạo đức, luân lý,
dư luận xã hội có vai trò rất lớn trong việc giáo dục cho các thế hệ ý thức về sự
phải - trái, đúng - sai, thiện - ác, đẹp - xấu.
1.4. Chức năng giám sát
Dư luận xã hội có vai trò giám sát hoạt động của nhà nước và các tổ chức
xã hội, gây sức ép lớn đối với tệ tham nhũng, quan liêu, tắc trách. Các quan chức
tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ rất “ghét” báo chí, dư luận xã hội vì báo chí,
dư luận xã hội luôn “nhòm ngó” vào các công việc mờ ám của họ, sẵn sàng lên
án, tố cáo họ.
1.5. Chức năng tư vấn, phản biện:
Trước những vấn đề nan giải của đất nước, dư luận xã hội có thể đưa ra
những khuyến nghị sáng suốt mà các cơ quan tham mưu cho chính quyền có thể
chưa nghĩ ra được. Dư luận xã hội cũng có khả năng đưa ra các ý kiến phản biện
xác đáng đối với các quyết định của các cơ quan đảng, chính quyền, tổ chức
chính trị - xã hội.
1.6. Chức năng giải toả tâm lý xã hội
Theo các nhà tâm lý học, sự bất bình, các nỗi niềm oan ức của con người,
nếu không được giãi bày, nói ra, sẽ không mất đi mà lắng chìm xuống tầng vô
thức trong tâm thức của con người và có thể trở thành những mầm mống bệnh
hoạn nghiêm trọng về tinh thần, đến một lúc nào đó sẽ bộc phát thành những
hành vi, phản ứng bất thường không thể kiểm soát được. Sự giãi bày, bày tỏ
thành lời có thể giải toả nỗi bất bình, uất ức của con người. Bị oan ức mà nói ra
được người ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.
2. Vai trò của dư luận xã hội trong đời sống cộng đồng
DLXH có 4 vai trò cơ bản:
+ Một là, DLXH là điều kiện để quần chúng nhân dân phát huy quyền làm
chủ và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
+Hai là, DLXH là phương tiện để tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân;

38
+ Ba là, DLXH là nguồn thông tin phản hồi có vai trò rất quan trọng đối
với quá trình ra quyết định của các cấp lãnh đạo;
+ Bốn là, DLXH tác động đến quá trình xã hội hóa của cá nhân, góp phần
hình thành nhân cách cá nhân.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Đối với xã hội Việt Nam
+ Thứ nhất, DLXH góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo, công tác quản
lý xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
+ Thứ hai, DLXH là lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh chống các
biểu hiện tham nhũng, quan liêu, thiếu trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước.
+ Và thứ ba, DLXH là cơ sở để dự báo và đề xuất các biện pháp nhằm
ngăn chặn, giải quyết các điểm nóng.
V. Tổ chức điều tra, thăm dò dư luận xã hội
Dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có vai trò rất quan trọng đối
với quá trình ra quyết định của các cơ quan lãnh đạo, quản lý xã hội. Để có được
những quyết định đúng đắn, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần nắm chắc được
tâm trạng, suy nghĩ, nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đối tượng
mà các quyết định nhằm vào.
Muốn nghiên cứu dư luận xã hội cần phải có thông tin trực tiếp và gián
tiếp phản ánh tình hình tư tưởng nói chung và các yếu tố tác động đến tâm trạng
xã hội nói riêng. Các thông tin này có được từ hai nguồn chủ yếu. Thứ nhất, từ
báo cáo do các chủ thể khác nhau cung cấp cho các cơ quan cấp trên. Thứ hai, từ
các cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội.
Để tiến hành một cuộc điều tra xã hội học về dư luận xã hội thu được kết
quả sát với thực tế, công tác chuẩn bị là rất quan trọng.
Trong công tác chuẩn bị, phải xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm đảm bảo
cho chất lượng và hiệu quả của một cuộc điều tra. Bản kế hoạch đó được gọi là
phương án điều tra, gồm các mục chính sau: Mục đích, yêu cầu, nội dung,
phương pháp, thời điểm, tổ chức thực hiện; kế hoạch công việc, kế hoạch kinh
phí và thời gian biểu thực hiện các công việc; đối tượng, đơn vị điều tra; thiết kế
phiếu điều tra và biên soạn tài liệu hướng dẫn điều tra và ghi chép phiếu; tuyển
chọn và tập huấn điều tra viên; tiến hành điều tra; xử lý kết quả điều tra.
1. Xác định mục đích yêu cầu và nội dung

39
Xác định mục đích yêu cầu và nội dung thông tin là việc làm đầu tiên của
bất kỳ một cuộc điều tra nào. Nếu không xác định rõ mục đích, yêu cầu cũng
như nội dung thông tin cho cuộc điều tra thì cuộc điều tra sẽ mất phương hướng
và rất dễ dẫn đến sụp đổ. Mặt khác nếu không xác định được mục đích yêu cầu
của cuộc điều tra thì không thể nào xây dựng được phương án điều tra và vì vậy
cũng không thể bảo vệ được kinh phí cho cuộc điều tra.
2. Xác định đối tượng và đơn vị điều tra
Đây cũng là một công việc quan trọng của một phương án điều tra. Sau
khi xác định được mục đích yêu cầu cũng như nội dung thông tin cần thu thập,
người làm công tác xây dựng phương án điều tra cần xác định xem chủ thể nào
mang các thông tin cần thu thập và thu thập thông tin về các chủ thể này ở đâu.
Tức là xác định cho được đối tượng và đơn vị điều tra.
2.1. Xác định đối tượng điều tra
Việc làm này rất quan trọng vì việc xác định đối tượng điều tra chính xác
thì việc xác định cỡ mẫu và chọn các đơn vị vào mẫu mới đảm bảo tính chính
xác về mặt nội dung nghiên cứu và đáp ứng được yêu cầu đề ra.
2.2. Xác định đơn vị điều tra
Đơn vị điều tra là nơi thông tin cần thiết được thu thập. Đơn vị điều tra có
thể trùng hoặc không trùng với đối tượng được điều tra. Trong công tác điều tra
nói chung việc xác định đơn vị điều tra rất cần thiết, bởi nó giúp cho việc điều
tra không bị trùng cũng như không bị sót.
3. Thiết kế phiếu điều tra
Phiếu điều tra (còn được gọi là bảng hỏi; phiếu hỏi; phiếu trưng cầu ý
kiến;…) được xem là phương tiện mang tin. Nó được sử dụng để thu thập thông
tin từ các đối tượng điều tra. Mặt khác nó cũng được sử dụng để tổng hợp các
chỉ tiêu thống kê cần thiết của cuộc điều tra. Do đó cần thống kê các câu hỏi để
thu thập được các thông tin cần thiết cho cuộc điều tra một cách chính xác nhất.
Thông thường, để có được các thông tin chính xác cần sử dụng thêm các câu hỏi
phụ nhằm gợi ý cho người được phỏng vấn nhớ lại các sự kiện một cách chính
xác.
3.1. Các yêu cầu khi thiết kế phiếu điều tra
Khi xây dựng phiếu điều tra cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Phiếu điều tra phải đảm bảo sao cho sau khi xử lý thu được các thông tin

40
cần thiết đã đặt ra;
- Hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót có thể xảy ra trong quá trình điều
tra;
- Các câu hỏi trong phiếu phải là các câu hỏi đơn nghĩa;
- Phải tạo điều kiện cho khâu nhập tin được dễ dàng không bị sai sót;
- Tiết kiệm được kinh phí cho cuộc điều tra.
+ Câu hỏi đóng là câu hỏi tất cả các khả năng trả lời đều đã được thể hiện
trên phiếu. Bên cạnh các khả năng trả lời thường để các ô trống và các con số
được dùng làm mã. Khi câu trả lời nào phù hợp với nhận định của người được
phỏng vấn thì sẽ đánh dấu vào ô trống của khả năng đó.
+ Câu hỏi mở là câu hỏi các khả năng trả lời chưa được thể hiện trên
phiếu. Khi điều tra, ý trả lời của người được phỏng vấn sẽ được ghi vào dòng
trống ở bên cạnh hoặc phía dưới câu hỏi.
3.2. Hình thức của phiếu điều tra
Một phiếu điều tra bao giờ cũng cần phải có các bộ phận sau đây:
- Bộ phận dùng để nhận dạng: Bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo,… của đối tượng được điều
tra.
- Bộ phận dùng để thu thập thông tin: Bộ phận này là bộ phận quan trọng
nhất của phiếu điều tra. Nó giúp cho chúng ta thu được các thông tin cần thiết để
tính toán các chỉ tiêu thống kê mà mục tiêu của cuộc điều tra đặt ra.
Khi thiết kế các câu hỏi cho phiếu cần phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản
sau: các câu hỏi càng ngắn càng tốt; các chủ đề thông tin hay tiêu thức điều tra
cần được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên và một tư duy lôgic tự nhiên có liên quan
đến việc trả lời câu hỏi; các chủ đề hay tiêu thức điều tra phải rõ ràng, chỉ có
một nghĩa để tránh hiểu sang nghĩa khác; các tiêu thức và câu hỏi phải ở dạng dễ
hiểu; tránh sử dụng các câu hỏi nặng nề; các câu hỏi và mã của chúng phải được
xếp đặt sao cho khi nhập thông tin (các mã số) vào máy ít bị sai sót nhất; bố cục
của câu hỏi phải được sắp xếp sao cho việc tính toán các chỉ tiêu thuận lợi nhất.

5. Tuyển chọn và tập huấn điều tra viên

Để tiến hành thu thập được thông tin cần phải có đội ngũ điều tra viên.
Chất lượng của cuộc điều tra một phần phụ thuộc vào chất lượng của điều tra
41
viên. Thông thường, điều tra viên cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: có sức
khỏe; có trình độ học vấn ít nhất là từ THCS trở lên; có khả năng giao tiếp xã
hội.
Sau khi tuyển chọn được điều tra viên cần phải được tập huấn. Phương
pháp tập huấn tốt hơn cả là “vừa giảng giải vừa cùng làm”.
5. Tiến hành điều tra (thu thập thông tin)
5.1. Chuẩn bị địa bàn điều tra
Việc chuẩn bị trước các địa bàn điều tra giúp cho khâu triển khai điều tra
nhanh chóng và đúng đơn vị cũng như đối tượng điều tra.
5.2. Tổ chức giám sát công tác điều tra
Đây là khâu quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng của cuộc điều tra, qua
đó nắm chắc tình hình hoạt động của điều tra viên, kịp thời phát hiện sai sót và
uốn nắn cho đúng quy định.
6. Xử lý và tổng hợp số liệu mẫu
Sau khi thu thập thông tin cần phải xử lý các thông tin thu được trong các
phiếu điều tra. Trong giai đoạn này các công việc sau đây cần được thực hiện:
kiểm tra và mã hoá các phiếu điều tra; nhập thông tin từ các phiếu điều tra vào
máy tính; kiểm tra và hiệu đính các thông tin đã được nhập vào máy tính; tổng
hợp sơ bộ các kết quả điều tra để xem xét và hiệu chỉnh.
7. Viết báo cáo kết quả cuộc điều tra
Trên cơ sở phân tích tổng hợp kết quả điều tra tiến hành viết báo cáo tổng
hợp kết quả của cuộc điều tra theo mục đích, yêu cầu đề ra.
8. Dự trù kinh phí điều tra
Để cuộc điều tra có thể được tiến hành cần phải lập dự trù kinh phí cho
nó. Khi dự trù kinh phí tối thiểu phải đảm bảo có các mục sau đây: thiết kế, in ấn
tài liệu, phiếu điều tra; tập huấn đào tạo; thù lao cho điều tra viên và người dẫn
đường; công tác phí, phương tiện, trang thiết bị cho cuộc điều tra; kinh phí cho
xử lý, tổng hợp và phân tích kết quả điều tra./.

42
43
VI. Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội
1. Ảnh hưởng của truyền thông đại chúng đến dư luận xã hội
Đặc điểm của các phương tiện TTĐC là các tin tức từ hệ thống này được
truyền đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp. nó vừa
hướng đến các đối tượng công chúng nói chung vừa quan tâm đến nhu cầu thông
tin của các nhóm công chúng cụ thể. Hoạt động của hệ thống TTĐC luôn chịu
sự tác động từ hai phía, phía các thiết chế xã hội mà phương tiện đó là các công
cụ (như tờ báo của các tổ chức chính trị xã hội), và phía thứ hai là công chúng
báo chí.
Ngày nay, hệ thống TTĐC có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình
thành và thể hiện DLXH. Sự tác động của các phương tiện TTĐC với các nhóm
công chúng rất khác nhau, do những khác biệt về địa vị xã hội, về quyền lợi giai
cấp, về các nhân tố tâm lý và về cường độ giao tiếp đối với các phương tiện
TTĐC.
Mối quan hệ giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể
hiện DLXH có tính chất biện chứng. một mặt, các phương tiện TTĐC nhằm thỏa
mãn những nhu cầu ngày càng tăng của công chúng, mặt khác, bản thân công
chúng lại đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động của hệ thống báo chí. Sự
trưởng thành trong mối quan hệ ấy thể hiện tính tích cực chính trị, xã hội của
bản thân hệ thống báo chí và công chúng báo chí.
Các phương tiện TTĐC hướng đến việc hình thành DLXH, đồng thời hệ
thống này cũng là kênh thể hiện DLXH. Để thực hiện được vai trò đó, hệ thống
TTĐC có tác dụng như sau:
- Làm tăng cường và phát triển dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội. tổ
chức và động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý xã hội
- Thông tin cho nhân dân về tình trạng DLXH về các vấn đề đang tạo nên
mối quan tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính cấp
bách.
- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất ra các phương án hành động
- Hình thành DLXH về một vấn đề nào đó nhằm thúc đẩy và hạn chế sự
phát triển của thực tế đó.
- Xây dựng lòng tin thế giới quan và ý thức quần chúng

44
- Điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, làm tăng cường tính tích
cực chính trị xã hội của quần chúng
Các phương tiện TTĐC sử dụng các phương pháp sau đây để hình thành
DLXH:
- Phản ánh trực tiếp, bằng cách cho in các bức thư của người đọc, người
nghe, người xem hoặc các lời phát biểu của các đại diện cấc tầng lớp công
chúng trên các trang báo hay song phát thanh, truyền hình.
- Cho in trên báo hoặc phát trên sóng phát thanh, truyền hình các lời phát
biểu của các nhà báo cộng tác với đại diện của các tầng lớp nhân dân,
hoặc các tổ chức đoàn thể xã hội về một chủ đề nào đó, có kèm theo lời
bình của cộng tác viên hay ban biên tập.
- Trên cơ sở nghiên cứu, tập hợp, phân tích các ý kiến về một vấn đề nào
đó, các nhà báo viết bài rồi cho in hoặc phát trên sóng phát thanh và
truyền hình.
Các giai đoạn hình thành DLXH với tác động của hệ thống TTĐC diễn ra
theo những bước sau đây:
- Công chúng làm quen với vấn đề được báo chí gợi ý hay đề xuất
- Bằng cách đăng bài của các chuyên gia am hiểu về một chủ đề nào đó
nhằm kích thích lợi ích xã hội về chủ đề đó. Việc trình bày các quan điểm
khác nhau trong cách nhìn nhận đánh giá để tạo nên cơ sở cho tranh luận
- Tiến hành tranh luận trên phạm vi đại chúng
Sự hình thành DLXH thông qua các phương tiện TTĐC có mối liên hệ
ngược. nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên DLXH mà đến lượt nó,
DLXH cũng tác động trở lại tới hoạt động của hệ thống TTĐC như sau:
– Dư luận xã hội cung cấp nguồn sự kiện và vấn đề vô tận – đề tài, nguồn
tin phong phú cho báo chí và truyền thông đại chúng.
– Cùng với sự tác động của kỹ thuật và công nghệ truyền thông, dư luận
xã hội có thể làm thay đổi tư duy và phong cách tác nghiệp của nhà báo.
– Dư luận xã hội là nguồn tin tiềm tàng, nguồn sự kiện nuôi sống và làm
tươi mới sản phẩm báo chí và nhận thức của nhà báo. Dư luận xã hội là tác nhân
làm thay đổi truyền thông đại chúng.
Phản hồi là nguồn chảy của thông tin từ nguồn tin đến nơi nhận và ngược
lại. dòng phản hồi chỉ hình thành khi người nhận giải mã được thông tin và

45
người cung cấp thông tin đáp ứng được nhu cầu thông tin của người nhận. phản
hồi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình truyền thông, đây là chu trình khép
kín và được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Quá trình truyền thông của con người bao giờ cũng diễn ra trong môi
trường xã. Do đó, liên kết xã hội là nhân tố quan trọng để thu hút các cá nhân và
nhóm xã hội vào dòng thông tin
Thông tin được chia thành 3 loại: (1) rất cần thiết, (2) cần thiết và (3)
không cần thiết. ba loại thông tin này quy định nhu cầu tiếp cận thông tin của
công chúng trên 3 cấp độ (1) rất quan tâm, (2) có quan tâm và (3) không quan
tâm
Trong hoạt động truyền thông có thể xảy ra hiện tượng không có phản
hồi. nghĩa là các thông tin phát ra không tạo nên sự quan tâm của công chúng.
Vì vậy thang đo về sự phản hồi là một chỉ báo căn bản cho thấy hiệu quả hoạt
động của các phương tiện TTĐC trong việc hình thành và thể hiện DLXH.
Việc xem xét vai trò của các phương tiện TTĐC như các kênh hình thành
và thể hiện DLXH cần phân biệt yếu tố đặc thù của mỗi kênh. Vấn đề không
phải là thay kênh này bằng kênh khác mà cần xác định vị trí của mỗi kênh trong
hệ thống chung, cần nghiên cứu và sử dụng đầy đủ hơn khả năng của các
phương tiện để các kênh trong hệ thống này vừa đáp ứng đầy đủ thông tin của
các nhóm xã hội đặc thù vừa hướng tới đông đảo công chúng.
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ hai chiều. Dư
luận xã hội tích cực là một điều kiện dẫn đến ổn định chính trị xã hội. Từ dư
luận xã hội sẽ dẫn đến các hành vi xã hội rộng lớn, tạo sức ép thúc đẩy, tạo ra
những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết tốt các vấn đề
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi truyền thông là phương tiện chủ yếu
tuyên truyền hệ tư tưởng chính trị, truyền thông đại chúng thiết lập và củng cố
thông tin trong công chúng, hợp pháp hoá các thể chế quyền lực. Truyền thông
đại chúng là một nhân tố của sự kiểm soát xã hội, được giới cầm quyền sử dụng
để hợp pháp hoá các chính sách, ổn định hoá hệ thống chính trị và kinh tế.
2. Ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với TTĐC
2.1. DLXH là nguồn sự kiện của TTĐC
Nếu như TTĐC tạo ra DLXH hay DLXH là sản phẩm của TTĐC thì mặt
ngược lại có thể thấy rằng DLXH là nguồn tạo ra nội dung của TTĐC. TTĐC

46
phản ánh về một sự kiện, một vấn đề, biến nó từ cái ít được biết đến thành vấn
đề mang tính xã hội. Khi DLXH hình thành thái độ của mình với vấn đề xã hội
đó, nó lại trở thành một sự kiện mà từ đó các phương tiện truyền thông có thể
xây dựng nội dung.
Sẽ khó có thể hình dung được TTĐC hiện đại như thế nào nếu như nó
không phản ánh thái độ cảu DLXH trước những sự kiện mà nó cung cấp. Điều
này cũng được thể hiện rõ hơn trong xã hội dân chủ. Việc phản ánh DLXH về
vấn đề mà các phương tiện truyền thông đã đăng tải là hành động tiếp nối như
một kỹ thuật truyền thông để giữ cho chủ đề không bị cạn nguồn thông tin. Tuy
nhiên kỹ thuật này đôi khi bị các nhà truyền thông lạm dụng. đôi khi bộ lọc
thông tin của các nhà truyền thông quá mạnh khiến họ chỉ lựa chọn đưa những ý
kiến phù hợp với quan điểm của nhà truyền thông cho dù đôi khi cũng có những
ý kiến trái ngược. mặt khác nhiều nhà báo đánh đồng một số ý kiến mà phỏng
vấn thu thập được với DLXH. Điều này khiến cho công chúng có thể bị dẫn dắt
bởi ý kiến cá nhân chứ không phải DLXH đích thực. ở những hãng truyền thông
lớn như CNN, BBC...các kết quả điều tra DLXH luôn là những nguồn thông tin
bổ sung, kế tiếp những thông tin về chủ đề chính mà họ đã trình bày. Ví dụ đó là
những cuộc điều tra DLXH về thái độ của người Mỹ với tổng thống, với quốc
hội, về nền kinh tế, về cuộc chiến tranh Iraq...
2.2. DLXH là tác nhân làm thay đổi TTĐC
Nghiên cứu chiều cạnh thứ hai của quan hệ giữa TTĐC và DLXH sẽ giúp
làm rõ hơn câu hỏi “cái gì quyết định cái gì?”. Với những nội dung, phương
pháp đặc biệt là những thế mạnh gắn với TTĐC chúng ta có thể thấy các phương
tiện TTĐC đã tạo ra chương trình nghị sự của xã hội. Nhưng về phần mình, có
những lúc DLXH đã làm cho chương trình nghị sự đó bị chệnh khỏi hướng ban
đầu mà các nhà truyền thông đã dự định. Nói cách khác, nhiều khi sức mạnh của
DLXH khiến nó đi quá xa so với những suy nghĩ tính toán ban đầu của nhà
truyền thông. Nó giống như người ta quất roi để con ngựa đi nhưng quất không
đúng cách làm cho con ngựa trở thành “bất kham” không thể điều khiển nổi.
Trong những trường hợp đó nhiều khi truyền thông phải “chạy” theo DLXH để
khống chế nó. Những hậu quả có thể là tiêu cực hoặc tích cực. tiêu cực là ở chỗ
lúc này DLXH có thể phá hoại và làm tổn hại lớn cho cá nhân và xã hội. Ví dụ,
năm 2005, đài THVN có đưa một tin về một giáo viên ở Gia Lâm Hà Nội bị

47
công an bắt về hành vi lừa đảo để vay hàng trăm triệu đồng của chi nhánh một
ngân hàng. Thế nhưng sau khi đưa tin này hàng ngàn người đã vội vã đến ngân
hàng đó để rút tiền, khiến cho ngân hàng đứng trước nhiều khó khăn. Trước tình
hình đó, đài THVN phải có những phóng sự tiếp theo để nói lại cho rõ, nhờ đó
tránh được hậu quả khủng khiếp từ bản tin nọ. Những trường hợp khác như “hai
đứa trẻ chết do ăn vải rụng có thuốc sâu tại Lục Ngạn, Bắc Giang” trên đài
THVN hay dự báo sóng thần tại Đà Nẵng của đài truyền thanh phường cũng gây
nên những DLXH không hoàn toàn đi theo hướng mà các nhà truyền thông dự
định, những hậu quả “không chủ định này” cũng có thẻ là tích cực theo nghĩa nó
tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ hơn, nhanh hơn những cái nhà truyền thông
mong đợi.
Một khía cạnh nữa minh chứng cho ảnh hưởng của DLXH đến TTĐC là
dưới sức ép của DLXH nhiều khi các phương tiện TTĐC buộc phải thay đổi,
điều chỉnh hoặc định hướng lại nội dung đã phát, công bố. Hơn thế, công chúng
không chỉ tiêu dùng những cái được các phương tiên TTĐC phổ biến mà còn có
những đòi hỏi về những thông tin đặc thù nào đó để làm rõ hơn những vấn đề
mà chính họ đang ý kiến. Ví dụ, nhiều người dân Mỹ có thái độ phản đối cuộc
chiến của Mỹ ở Iraq nhưng họ vẫn đòi hỏi các phương tiện truyền thông phải
cung cấp thêm những thông tin chuyên sâu về cuộc chiến để củng cố thêm quan
điểm của mình.

48

You might also like