You are on page 1of 173

Chương 1.

TRUYỀN THÔNG VÀ QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG

1.1. KHÁI NIỆM TRUYỀN THÔNG


Truyền thông theo tiếng Anh là communication có nghĩa là sự truyền đạt,
thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông,...
Thuật ngữ “truyền thông” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Commune” với nghĩa
là “chung” hay “cộng đồng”. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa những cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng xã hội. Nhờ truyền thông – giao tiếp mà con người tự nhiên trở
thành con người xã hội.
Truyền thông là một hoạt động gắn liền với lịch sử phát triển của loài người.
Ban đầu, những thành viên trong bộ lạc sử dụng truyền thông để thông báo cho nhau
nơi săn bắt, cách thức săn bắt. Đó là điều kiện để tạo nên những mối quan hệ xã hội
giữa người với người. Thiếu truyền thông – giao tiếp, con người và xã hội loài người
khó hình thành và phát triển. Con người, từ xa xưa cho đến nay, khi chung sống
trong một cộng đồng cần phải hiểu nhau và thông cảm cho nhau. Khi con người biết
sống chung với nhau và có tổ chức thì họ cần phải có truyền thông để hiểu và bảo
vệ nhau. Từ lâu, người ta đã biết tổ chức các trạm ngựa phục vụ thông tin, quy định
việc đốt lửa trên đỉnh núi để báo hiệu quân giặc xâm lấn bờ cõi. Những người đi
rừng bẻ lá, băm vỏ cây để đánh dấu đường đi và những địa điểm nguy hiểm. Bắt đầu
từ tín hiệu đơn giản, người ta thông báo cho nhau mục đích, phương pháp, cách thức
hành động, tạo nên sự thống nhất có hiệu quả trong công việc. Trong quá trình lao
động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, làm ra của cải vật chất nuôi sống mình, con
người đã tích luỹ được những kinh nghiệm quý báu, phát hiện thêm những hiện
tượng lặp đi lặp lại của thiên nhiên. Đồng thời, trong xã hội cũng hình thành nhu cầu
truyền thông, truyền bá kinh nghiệm, phương pháp lao động có hiệu quả, thông báo
cho đồng loại những tri thức mới về thế giới xung quanh. Chính sự ra đời của tiếng
nói là nấc thang đầu tiên quan trọng nhất của quá trình hình thành, phát triển, tăng
cường truyền thông – giao tiếp trong xã hội loài người.
Từ những hình thức truyền thông đơn giản, người ta đi đến những hình thức
hiện đại và phức tạp của truyền thông như truyền hình, vệ tinh nhân tạo, Internet,...
Các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại trở thành những công cụ không thể thiếu
được để đảm bảo sự hoạt động ổn định của mỗi nền kinh tế cũng như mỗi chế độ xã
hội.
Mặt khác, truyền thông còn nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người.
Mỗi cá nhân trong xã hội , sư canh k cần có sự bộc lộ những khía cạnh khác nhau
của đời sống tinh thần, cần hiểu biết tâm tư, tình cảm, thái độ của mọi h c người
trước mỗi sự kiện để tự điều chỉnh hành động của mình sao cho hợp lý. Chính quá
trình truyền thông đã giúp con người hiểu mình đầy đủ hơn, nắm bắt được những gì
liên quan giữa bản thân n và cuộc sống phong phú xung quanh, đánh giá được khả
năng, xác định đúng cách thức, phương hướng cho những hành vi và hoạt động tiếp
theo.
Truyền thông có hiệu quả sẽ làm con người hiểu nhau; những mệnh lệnh, chỉ
thị, thông tin được truyền đạt một cách nhanh chóng, chính xác, lấp được khoảng
cách giữa con người với con người, khoảng cách giữa kinh tế, kỹ thuật và cơ chế
quản lý xã hội. Vòng tròn khép kín và mối quan hệ qua lại bởi thông tin nhiều chiều
giữa Nhà nước, các phương tiện thông tin và các tầng lớp xã hội có tác dụng thúc
đẩy xã hội tiến lên, đó chính là quá trình vận động tất yếu của truyền thông.
Thực tế truyền thông đã có từ lâu. Ngay từ thời cổ Hy Lạp, Aristotle đã đề
xuất một mô hình truyền thông rất gần gũi với mô hình tuyến tính, mà sau này,
Claude Shannon, cha đẻ của lý thuyết truyền thông, đã đưa ra. Kinh nghiệm phát
triển của khoa học cho thấy lý thuyết nảy sinh khi con người muốn tìm hiểu mối
quan hệ giữa các dữ kiện và lý thuyết là sự kết nối một k cách khách quan các dữ
liệu đó.
Theo định nghĩa của một số nhà khoa học, lý thuyết truyền thông thể hiện mối
quan hệ giữa các dữ kiện truyền thông trong hành vi của con người, và truyền thông
là một quá trình có liên quan đến nhận thức (thái độ) hoặc hành vi. Giữa nhận thức
và hành vi của con người bao giờ cũng có khoảng cách. Truyền thông là nhằm mục
đích tạo nên sự đồng nhất hoặc ít ra cũng rút ngắn khoảng cách ấy.
Hiện nay, trên thế giới, tuỳ theo góc độ tìm hiểu và nghiên cứu, người ta đã
đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về truyền thông. Chẳng hạn, Frank Dance,
năm 1970, trong công trình nghiên cứu Khái niệm cơ bản về truyền thông đã nêu ra
15 định nghĩa truyền thông của các tác giả trên nhiều lã góc độ khác nhau, cụ thể là:
– Góc độ ký hiệu lời: Truyền thông là sự trao đổi với nhau tư duy hoặc ý tưởng bằng
lời (John R. Hober, 1954).
– Góc độ sự hiểu biết của người: Truyền thông là quá trình qua đó chúng ta hiểu
được người khác và làm cho người khác hiểu được chúng ta. Đó là một quá trình
liên tục, luôn thay đổi và biến chuyển để ứng phó với tình huống (Martin P.
Andelem).
- Góc độ tương tác: Sự tương tác, ngay cả ở mức sinh vật, là một dạng truyền thông,
bằng không sẽ không thể hành động chung (G.H. Mead, 1963).
– Góc độ quá trình truyền tải: Truyền thông là sự chuyển tải thông tin, ý tưởng, tình
cảm, kỹ năng,... bản thân hành động của quá trình truyền tải được gọi là truyền thông
(Berelson và Steiner, 1964).
– Góc độ giảm độ không rõ ràng: Truyền thông nảy sinh nhu cầu giảm độ không rõ
ràng để có thể hành động có hiệu quả, để bảo vệ hoặc tăng cường (Dean C. Barnlund,
1964).
– Góc độ chuyển giao, truyền tải, trao đổi: Chúng ta sử dụng từ “truyền thông” đôi
khi để chỉ cái gì được truyền tải, đôi khi lại chỉ phương tiện truyền tải, đôi khi lại là
toàn bộ quá trình. Trong nhiều trường hợp, cái đã được truyền tải bằng cách này vẫn
tiếp tục được chia sẻ. Nếu tôi chuyển một thông tin cho người khác, thông tin đó vẫn
là của tôi mặc dù đã được chuyển đi. Như vậy, từ “truyền thông” đòi hỏi phải có sự
tham gia. Với ý nghĩa này, có thể nói, ngay cả trong tôn giáo, các con chiên cũng
tham gia vào quá trình truyền thông (A.H. Hyer, 1955).
– Góc độ ghép nối, kết nối: Truyền thông là quá trình kết nối các phần rời rạc của
thế giới với nhau (Ruesch, 1957).
– Góc độ tính công cộng: Truyền thông là quá trình làm cho cái trước đây là độc
quyền của một hoặc một vài người trở thành cái chung của hai hoặc nhiều người
(Frank Dance, 1970).
- Góc độ kênh, phương tiện, lộ trình: Là những phương tiện để chuyển các nội dung
quân sự, mệnh lệnh,... như điện thoại, điện tín, giao thông (Từ điển cao học Hoa Kỳ).

- Góc độ dẫn dắt: Truyền thông là quá trình dẫn dắt sự chú ý của người khác nhằm
mục đích trả lời sự mong mỏi (Cartier và Hanoov, 1950).
– Góc độ phản ứng: Truyền thông là sự phản ứng của cơ thể đối với một nhân tố
kích thích (Stevens, 1950).
– Góc độ khuyến khích: Mỗi hành động truyền thông được coi là sự chuyển tải thông
tin chứa đựng yếu tố khuyến khích từ nguồn thông tin đến người tiếp nhận (Dore
New-comb, 1966).
- Góc độ chủ định: Về cơ bản, truyền thông quan tâm nhất đến tình D – n huống
hành vi, trong đó, nguồn thông tin truyền một nội dung đến người nhận với chủ đích
tác động tới hành vi của họ (Gerald Miler, 1966).
- Góc độ thời gian, tình huống: Quá trình truyền thông là quá trình chuyển đổi từ
một tình huống đã có cấu trúc như một tổng thể sang tình huống khác theo một thiết
kế được ưu ái hơn (Bess Sondel, 1956).
– Góc độ quyền lực: Truyền thông là cơ chế qua đó quyền lực được thể hiện (S.
Schaehter, 1951).
Ngoài các quan niệm trên còn có các quan niệm khác về truyền thông như:
– Truyền thông là quá trình truyền thông tin có nghĩa giữa các cá nhân với
nhau.
- Là quá trình trong đó một cá nhân (người truyền tin) truyền những thông
điệp với tư cách là những tác nhân kích thích (thường là những ký hiệu ngôn ngữ)
để sửa đổi hành vi của những cá nhân khác (người nhận tin).
– Truyền thông xảy ra khi thông tin được truyền từ nơi này đến nơi khác.
Truyền thông không phải đơn thuần là sự chuyển tải các thông điệp ancil of bằng
ngôn ngữ xác định và có ý định trước mà nó bao gồm tất cả các quá trình trong đó
con người gây ảnh hưởng, tác động đến một người khác.
- Truyền thông xảy ra khi người A truyền thông điệp B qua kênh C đến người
D với hiệu quả E. Mỗi chữ cái ở vài phạm vi là chưa được biết, và quá trình truyền
thông có thể được giải thích với bất cứ chữ cái nào trong số này hay bất cứ một sự
kết hợp nào.
- Truyền thông (Communication) là quá trình trao đổi thông tin giữa các thành
viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt sự hiểu biết lẫn nhau,...
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy được tính phức tạp, đa dạng của truyền
thông, do đó, những nghiên cứu về truyền thông phải mang tính liên ngành, đòi hỏi
sự nỗ lực của nhiều bộ môn. Như vậy, khái niệm về truyền ý sứ thông bao hàm một
ý nghĩa hết sức rộng lớn. Danh từ truyền thông (Communication) có nghĩa là làm
thành cái chung, liên lạc, giao tiếp. Truyền thông là sự cố gắng tạo lập nên sự hiểu
biết chung của con người với mục đích làm thay đổi nhận thức và hành vi. Truyền
thông khác với các thuật ngữ Các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass Media
hay Mass Communication). Các phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm: sách,
báo, phát thanh, truyền hình, phim tài liệu, báo chí điện tử phát trên mạng Internet,...
Nó là một kênh của truyền thông, thậm chí là một kênh quan trọng và có hiệu quả
nhất của quá trình truyền thông.
Tổng quát lại, lý thuyết truyền thông có 3 loại: Loại thứ nhất xác định bản
chất và nội dung của quá trình truyền thông; Loại thứ hai đề cập đến quá trình cơ
bản chung cho tất cả các loại truyền thông của con người; Loại thứ ba đề cập đến
bối cảnh mà quá trình truyền thông xảy ra.
Từ những phân tích trên, có thể hình thành khái niệm chung về truyền thông
như sau:
Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình
cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và
nhận thức.
Ở định nghĩa này, cần lưu ý đến những khía cạnh:
Thứ Thứ nhất, truyền thông là một quá trình – có nghĩa nó không phải là một
việc làm nhất thời hay xảy ra trong một khoảng thời gian lớn. Quá trình này mang
tính liên tục, vì nó không thể kết thúc ngay sau khi ta chuyển tải nội dung cần thiết
mà còn tiếp diễn sau đó. Đấy là quá trình trao đổi hoặc chia sẻ, có nghĩa là ít nhất
phải có hai thực thể, và không chỉ có một bên cho và một bên nhận mà cả hai bên
đều cho và nhận.
Thứ hai, truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau, yếu tố cực kỳ quan
trọng đối với mục đích và hiệu quả của truyền thông t này
Cuối cùng, truyền thông phải đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành vi,
nếu không mỗi việc làm sẽ trở nên vô nghĩa.
1.2. CÁC YẾU TỐ TRONG QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG
Để tiến hành truyền thông cần có các yếu tố sau:
– Nguồn (Source), hoặc người gửi/cung cấp (Sender):
Là yếu tố khởi xướng việc thực hiện truyền thông. Đó có thể là một cá nhân
nói, viết, vẽ hay làm động tác. Yếu tố khởi xướng có thể là một nhóm người, một tổ
chức truyền thông như cơ quan đài phát thanh, truyền hình, báo chí, thông tấn,...
– Thông điệp (Message):
Là yếu tố thứ hai của truyền thông. Thông điệp có thể bằng tín hiệu, ký hiệu,
mã số, bằng mực trên giấy, sóng trên không trung hoặc bằng bất cứ ký hiệu nào mà
người ta có thể hiểu được và được trình bày ra một cách có ý nghĩa. Điều quan trọng
là thông điệp phải được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ mà người cung cấp (nguồn) và
người tiếp nhận đều hiểu được. Đó có thể là ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống hằng
ngày, ngôn ngữ kỹ thuật trong khoa học kỹ thuật hay ngôn ngữ văn học nghệ thuật.
Bằng bất cứ cách nào, một ý nghĩa nào đó cũng phải được diễn tả bằng ngôn ngữ
hiểu được trong truyền thông.
– Mạch truyền/Kênh (Channel):
Là yếu tố thứ ba trong truyền thông. Mạch truyền làm cho người ta nhận biết
thông điệp bằng các giác quan. Mạch truyền là cách thể hiện thông điệp để con người
có thể nhìn thấy được qua các thể loại in hay hình ảnh trực quan, nghe thấy được
qua các phương tiện nghe, nhìn qua hình ảnh, truyền hình và những dụng cụ nghe
nhìn khác như: sờ, nếm, ngửi qua mẫu, hiện vật thí nghiệm.
– Người tiếp nhận, nơi tiếp nhận (Receiver):
Là yếu tố thứ tư của truyền thông. Đó là những người nghe, người xem, người
giải mã, người giao tiếp, hoặc có thể là một người, một nhóm, một đám đông thành
viên của một tổ chức hay của công chúng đông đảo.
Mục đích của truyền thông là làm cho người tiếp nhận hiểu được cặn kẽ thông
điệp và có những hành động tương tự. Nói một cách khác, người cung cấp, khởi
xướng truyền thông, khi chuyển thông điệp cho người tiếp nhận, mong muốn họ biết
được mình muốn thông tin gì, muốn việc làm của mình ảnh hưởng đến thái độ và
cách xử sự của người tiếp nhận. Người cung cấp, khởi xướng phải cố gắng xây dựng
được ảnh hưởng và làm thay đổi sự hiểu biết chung. Sự thông cảm qua truyền thông
cũng không phải tự nhiên mà có được. Có vô vàn những rào chắn làm cho người
khởi xướng, ng truyền tin khó thực hiện được mục đích của họ như: lứa tuổi, điều
kiện kinh tế xã hội, bất đồng ngôn ngữ, thái độ,... Chẳng hạn, những người ở các độ
tuổi khác nhau rất khó thông cảm với nhau. Hoặc những người thuộc các giới chính
trị khác nhau, trường phái tư tưởng, đảng phái khác nhau rất ít khi giao tiếp truyền
thông có hiệu quả và khó có thể thuyết phục được nhau. Hoặc những người có
chuyên môn khác nhau rất khó truyền thông khi dùng những thuật ngữ kỹ thuật,...
Biết được đối tượng truyền thông cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để
tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông. Đối tượng của truyền thông là con
người. Mỗi người có thể trả lời, đáp ứng thông điệp của người khởi xướng tuỳ theo
xu hướng, thái độ, trình độ học vấn, địa vị xã hội của riêng họ. Vì vậy, để biết được
đối tượng không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi người làm truyền thông phải đi sâu
vào bản chất, nhu cầu, nghiên cứu kỹ đối tượng, dùng chính ngay ngôn ngữ của đối
tượng để làm giảm bớt những rào chắn ngăn cách xuống mức thấp nhất.
Quá trình truyền thông là quá trình hai chiều. Người khởi xướng (nguồn) và
người tiếp nhận (người đọc, người nghe, người xem) phải kết hợp với nhau để tạo
nên những cái chung. Cả người cung cấp, khởi xướng và người tiếp nhận đều phải
tham gia vào trong hành động truyền thông. Người truyền thông không thể xem cái
mình biết là cái cuối cùng, mà còn phải chú ý tới phản ứng và sự trả lời của người
tiếp nhận. Quá trình: Người cung cấp ↔ Thông điệp ↔ Người tiếp nhận được gọi
là quá trình phản hồi (Feedback), một yếu tố quan trọng trong quá trình truyền thông.
Người làm công tác truyền thông phải luôn đặt các câu hỏi: Người cung cấp,
khởi xướng có giành được sự chú ý của đối tượng không? Người tiếp nhận có chấp
nhận những suy nghĩ, hành động và thực hiện có kết quả như mong muốn của người
cung cấp, khởi xướng không? Nếu đạt được các câu trả lời trên theo hướng tích cực
có nghĩa là truyền thông có hiệu quả. Nếu không đạt được thì kết quả sẽ ngược lại.
Người khởi xướng phải luôn nhớ rằng, mọi tư tưởng, ý nghĩa truyền bá và những kỹ
năng trên lĩnh vực truyền thông sẽ vô ích khi không có những thông tin, ý nghĩa quan
trọng được truyền đạt.

1.3. MÔ HÌNH TRUYỀN THÔNG ĐỘC HẠ

Quá trình truyền thông diễn ra theo những bước nhất định. Có thể hình dung
quá trình này thông qua các mô hình sau:
Hoạt động trước khi truyền thông: Hai nhóm người ở hai không gian A và B
chưa có sự hiểu biết và thông cảm chung.

A B

Nhóm người A Nhóm người B

Hình 1.1. Mô hình hai nhóm A và B trước khi truyền thông

Sau khi truyền thông:


Những nhóm người nói trên có mối liên hệ truyền thông thích hợp nghĩa là
cùng có chung một tập hợp những tín hiệu của sự chú ý, quan tâm chung.
Những tín hiệu này có thể là ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, nhìn hoặc động tác.
Muốn truyền thông hiệu quả phải có kinh nghiệm sống của những nhóm người có
cùng sự chú ý và quan tâm chung đến một lợi ích nào đó. Sau khi truyền thông, mô
hình giữa hai nhóm A và B được biểu thị như sau:

A B

Hình 1.2. Mô hình hai nhóm A và B sau khi truyền thông

Trong mô hình trên, A và B là không gian sống của hai nhóm người. Phần
chồng lên nhau là môi trường cho “truyền thông” giữa hai nhóm. Chính nhờ sự giao
tiếp này đã tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông.
Rất nhiều học giả khi nghiên cứu về truyền thông đã đưa ra nhiều mô hình
truyền thông khác nhau. Tuy nhiên mô hình của Harold Lasswell, nhà chính trị học
nổi tiếng người Mỹ, ngay từ khi đưa ra đã được đông đảo mọi người chấp nhận vì
nó đơn giản, dễ hiểu và thông dụng.

S M C R E

Hình 1.3. Mô hình truyền thông của Harold Lasswell

Mô hình của Harold Lasswell bao hàm những phần tử chủ yếu của quá trình
truyền thông, trong đó:
S– Source, sender (Ai): Nguồn, người cung cấp, khởi xướng.
M– Message (Nói, đọc, viết gì): Thông điệp, nội dung thông báo.
C-Channel (Kênh): Bằng kênh nào, mạch truyền nào.
R – Receiver (Cho ai): Người tiếp nhận, nơi nhận.
E – Effect (Hiệu quả): Hiệu quả, kết quả của quá trình truyền thông.
Với mô hình này của Lasswell, mọi hoạt động nghiên cứu có thể được tiến
hành và tập trung vào những phần tử đó. Cụ thể:
– Phân tích nguồn (S) (Ai là người cung cấp?).
– Phân tích nội dung (M) (Thông điệp chứa những gì?).
– Phân tích phương tiện (C) (Kênh nào được sử dụng và sử dụng như thế
nào?).
- Phân tích đối tượng (R) (Ai là người nhận?)
– Phân tích hiệu quả (E) (Thay đổi hành vi ra sao? Thông tin được phản hồi
như thế nào?).
Theo Lý thuyết thông tin và điều khiển học (Cybernetics) của Claude Shannon
và nhiều nhà nghiên cứu khác, quá trình truyền thông còn được bổ sung thêm các
yếu tố: hiện ng nhiễu (Noise) và phản hồi (Feedback). Do đó, mô hình của Harold
Lasswell có thể bổ sung như sau:
(Nhiễu) (Noise)

Phản hồi (feedback)

Hình 1.4. Bổ sung mô hình truyền thông của Harold Lasswell


Phản hồi (Feedback) được hiểu là sự tác động ngược trở lại của thông tin từ
phía người tiếp nhận đối với người truyền tin. Phản hồi là phần tử cần thiết để điều
khiển quá trình truyền thông, làm cho quá trình truyền thông được liên tục từ nguồn
đến đối tượng tiếp nhận và ngược lại. Nếu không có phản hồi, thông tin chỉ là một
chiều và mang tính áp đặt.
Nhiễu (Noise) luôn tồn tại trong quá trình truyền thông. Đó là hiện tượng
thông tin truyền đi bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của tự nhiên và xã hội, bởi các
phương tiện kỹ thuật,... gây ra sự sai lệch hay kém chất lượng về nội dung thông tin
cũng như tốc độ truyền tin. Do vậy, nhiễu là hiện tượng cần được xem xét và cần
được coi như một hiện tượng đặc biệt trong quá trình lựa chọn kênh để xây dựng nội
dung thông điệp. Các dạng nhiễu có thể có là: vật lý, cơ học, luân lý, tôn giáo, môi
trường, cung độ, lứa tuổi, giới tính, ngôn ngữ, học vấn, dân tộc,... Mặt khác, nhiễu
vẫn luôn được coi là quy luật của quá trình truyền thông, nếu biết xử lý nhiễu sẽ tăng
thêm hiệu quả cho quá trình truyền thông.

1.4. QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG


Trong quá trình truyền thông còn phải lưu ý đến các công việc cần thiết như:
mã hoá (encode) thông điệp bằng các tín hiệu của người cung cấp, người khởi xướng
và quá trình giải mã (decode) của người tiếp nhận để tiếp. nhận thông điệp. Như vậy,
quá trình truyền thông sẽ được chia làm hai giai đoạn theo mô hình sau:
Hình 1.5. Các giai đoạn của quá trình truyền thông

Trong đó:
Quá trình A: Nguồn (Source) có thể là một tổ chức, một cơ quan chuyển một
thông điệp cho đối tượng. Thông điệp chứa đựng những thông tin mã hoá (encode)
thông qua việc tìm tòi một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ học nào đó để diễn đạt nội
dung thông diệp. Thông điệp (message) là những thông tin thực sự được chuyển theo
một mạch truyền (kênh) này hay kênh khác đến đối tượng.
Quá trình B: Giải mã (Decode) là quá trình từng cá nhân, bằng con đường
riêng của mình, làm rõ ràng, rành mạch thông điệp được chuyển đến Mỗi thông điệp
chuyển đến có thể được chấp nhận và hiểu biết theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc
vào kiến thức, thái độ của người tiếp nhận và cũng tuỳ thuộc vào người cung cấp và
nội dung thông điệp.
Nơi nhận (Destination), người nhận (Receiver) là điểm cuối cùng giải mã
thông điệp, có quá trình và sự tích luỹ của người tiếp nhận.
Phản hồi (Feedback) là dòng chảy thông tin mà những bước đi từ thông tin
gốc đến các nơi tiếp nhận và ngược lại. Phản hồi chỉ được thực hiện với điều kiện
người tiếp nhận giải mã được thông tin và người tin có những thông tin thích hợp
với hiện tại.
Phản hồi là khía cạnh quan trọng nhất của quá trình truyền thông, là công cụ
mạnh mẽ cho phép nối hai đường truyền thông lại với nhau. Phản hồi sẽ không còn
tồn tại hoặc bị cản trở khi một trong hai bộ phận truyền thông bị vô hiệu hoá hoặc
có sự chống lại của bộ phận tiếp nhận. Như vậy, một hạn chế của truyền thông là có
thể xảy ra hiện tượng không phản hồi.
Chúng ta có thể thấy thông tin có phản hồi trong quá trình truyền thông qua
mô hình sau:

Hình 1.6. Thông tin phản hồi trong quá trình truyền thông
Đây là một chu trình khép kín của quá trình truyền thông. Trong chu trình này,
cần chú ý tới các khía cạnh sau:
- Quá trình truyền thông giữa con người với nhau bao giờ cũng diễn ra trong
môi trường xã hội, xác định rõ những kinh nghiệm chung giữa người khởi xướng và
người tiếp nhận.
- Để truyền thông đạt hiệu quả, kinh nghiệm của người khởi xướng và người
tiếp nhận có giá trị đặc biệt khi tiến hành.
– Thông điệp trong truyền thông phải qua các bước mã hoá, truyền đi, - tiếp
nhận và giải mã. Mỗi thông điệp chuyển từ người khởi xướng đến người tiếp nhận
thường bị giảm độ chính xác và cường độ nên phải tìm cách tăng thêm sức mạnh
cho thông điệp.
– Mỗi thông điệp được người tiếp nhận nghiên cứu và chúng ta chỉ biết được
sức mạnh, hiệu quả của nó khi người tiếp nhận có thông tin phản hồi.
Tóm lại, muốn truyền thông đạt được hiệu quả cao cần phải nắm vững các
bước, các khía cạnh và các yếu tố nói trên của quá trình truyền thông.

1.5. MÔI TRƯỜNG TRUYỀN THÔNG

Bất kỳ quá trình truyền thông nào cũng xảy ra trong môi trường xác định. Môi
trường ấy bao gồm ít nhất hai loại yếu tố, đó là: các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên
– kỹ thuật và các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã hội.
Các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên – kỹ thuật bảo đảm cho thông điệp được
chuyển tải trọn vẹn đến cho nhóm đối tượng – công chúng truyền thông. Môi trường
tự nhiên thuận lợi, kỹ thuật và công nghệ truyền thông hiện đại là cơ sở bảo đảm cho
quá trình truyền thông được thuận lợi. Với kỹ thuật và công nghệ số (nhất là truyền
thông đa phương tiện – multimedia) hiện nay, việc quảng bá, chuyển tải thông điệp
truyền thông rất thuận tiện và có sức thuyết phục cao.
Để chinh phục các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã hội thì đòi hỏi nhà
truyền thông cần nghiên cứu, nắm bắt mới có thể triệt để khai thác nhằm nâng cao
hiệu ứng xã hội của truyền thông. Đó là môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị, tâm
lý và tâm trạng xã hội; là sở thích, thói quen, thị hiếu và nhu cầu thông tin – giao
tiếp; là cảm xúc và khả năng tiếp nhận thông điệp, cường độ của sự chú ý, sự tham
gia tích cực và sự tương tác,... Tuy nhiên, các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã
hội cũng nên được xem xét trong những cấp độ khác nhau, từ nhóm giao tiếp truyền
thông, bối cảnh diễn ra và môi trường rộng hơn.
Nói đến môi trường truyền thông là để các nhà truyền thông cần phải tính toán
tối đa các điều kiện thực tế khi lập kế hoạch hoặc xây dựng chiến dịch, chiến lược
truyền thông; tiên liệu trước nhằm khai thác triệt để các điều kiện thuận lợi và hạn
chế những khó khăn — rào cản (có thể có) trong quá trình xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện chiến dịch truyền thông; đồng thời nếu không tính đến các yếu tố
trong môi trường truyền thông cụ thể, năng lực và hiệu quả truyền thông có thể bị
hạn chế, thậm chí ngược lại mong đợi của chủ thể truyền thông.

1.6. PHÂN LOẠI TRUYỀN THÔNG1

Khái niệm “mẫu” có thể hiểu là một dạng (dạng thức), một khuôn thức (hay
mô thức), hay một mô hình (nói một cách trừu tượng là một tập hợp các quy tắc, tiêu
chí) mà có thể dùng để làm ra hay tạo nên những sự vật hoặc có n | ma co the dung
ac lam ran các bộ phận của một vật. Với tư cách là hiện tượng xã hội luôn biến đổi
h thích ứng với môi trường hoạt động, dạng thức hay loại hình truyền thông là những
khái niệm tương đối, không giống như trong ngôn ngữ học, toán học,...
Dạng thức, loại hình truyền thông là những khái niệm được dùng để ra c khu
biệt các mô hình, mô thức, cách thức tổ chức liên kết các yếu tố hoạt động truyền
thông; nhờ đó, kế hoạch, hoạt động truyền thông được lập ra I novi theo những tiêu
chí nhất định; và những tiêu chí này làm cơ sở cho hoạt động kiểm tra, giám sát và
đánh giá kế hoạch hay chiến dịch truyền thông.
Căn cứ và các tiêu chí khác nhau sẽ có các cách phân loại khác nhau cho dạng
thức hay loại hình truyền thông. Có truyền thông nội cá nhân (truyền thông cho chính
mình), truyền thông liên cá nhân (truyền thông với người khác), truyền thông nhóm,
truyền thông đại chúng,...

1.6.1. Phân loại theo kênh chuyển tải thông điệp


Căn cứ vào kênh chuyển tải thông điệp có thể phân loại truyền thông thành:
truyền thông trực tiếp và truyền thông gián tiếp và các dạng thức truyền thông khác.

1
Nguồn: Nguyễn Văn Dũng làn
a, Truyền thông trực tiếp
Là hoạt động truyền thông trong đó có sự tiếp xúc trực tiếp mặt đối mặt giữa
những người tham gia truyền thông – giữa chủ thể và nhóm đối tượng truyền thông.
Truyền thông trực tiếp có thể là truyền thông 1 − 1 (hai người truyền thông trong bối
cảnh gặp gỡ trực tiếp), truyền thông 1 – 1 nhóm (ví dụ: một diễn giả đang nói chuyện
với một nhóm), truyền thông trong nhóm (ví dụ: thảo luận nhóm nhỏ trong một hội
thảo),... Một số loại hình truyền thông biểu diễn hay sân khấu với khán giả trực tiếp
hoặc diễn thuyết trước đám đông cũng thuộc nhóm truyền thông trực tiếp.
Ưu điểm cơ bản của truyền thông trực tiếp là khả năng tạo sự tương tác, bày
tỏ cảm xúc và thái độ, thu hút nhóm đối tượng – công chúng bằng trực quan sinh
động... Ở đây, uy tín, năng lực, kỹ năng truyền thông tương tác và tâm lý hòa nhập,
chia sẻ,... của chủ thể truyền thông có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo
hiệu ứng và hiệu quả truyền thông.
b) Truyền thông gián tiếp và các dạng truyền thông khác
Là hoạt động truyền thông trong đó những chủ thể truyền thông không tiếp
xúc trực tiếp, mặt đối mặt với đối tượng tiếp nhận mà thực hiện quá trình truyền
thông nhờ sự hỗ trợ của yếu tố trung gian (con người hoặc các phương tiện truyền
thông khác) truyền dẫn thông điệp. Kỹ thuật và công nghệ truyền thông càng hiện
đại, phương tiện truyền dẫn và quảng bá thông điệp càng phong phú, đa dạng. Ví dụ:
Truyền thông nhờ sự hỗ trợ của bưu diện (gửi một bức thư hoặc nói chuyện qua điện
thoại,...), của Internet (chat, chat voice, webcam, email, forum,...), và qua các
phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, báo
mạng điện tử, các website,... Chẳng hạn như truyền thông radio là truyền thông qua
sóng điện tử phát thanh nên phương tiện thu nhận thông điệp (radio) được dùng làm
tên gọi cho phương thức này. Tương tự là truyền thông truyền hình,...
Ngoài truyền thông phát thanh, truyền thông truyền hình còn có truyền thông
biểu ngữ, truyền thông in ấn,...
1.6.2. Phân loại theo phạm vi tác động, ảnh hưởng
Căn cứ vào mức độ phạm vi tác động, ảnh hưởng của truyền thông, có thể
phân chia truyền thông thành: truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân,
truyền thông nhóm và truyền thông đại chúng.
a) Truyền thông nội cá nhân
Là quá trình truyền thông (với chính mình) diễn ra trong mỗi cá nhân do tác
động của môi trường bên ngoài – những tác nhân hay ảnh hưởng khác, cùng với quá
trình tiếp nhận và “chế biến” thông tin bên trong mỗi cá nhân. Truyền thông nội cá
nhân càng tích cực và chủ động bao nhiêu, quá trình tích luỹ kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm càng cao bấy nhiêu. Chẳng hạn, cùng nghe một buổi nói chuyện, cùng
đọc một cuốn sách,... nhưng ai chịu tư duy, chịu tự tổng kết, khái quát và liên tưởng,
suy luận,... thì người ấy sẽ thu được nhiều điều bổ ích cho bản thân. Đó là biểu hiện
cụ thể của nặng lực tư duy chủ động, tích cực. Dạng thức truyền thông này diễn ra
thường xuyên, liên tục ở mỗi cá nhân. Hiệu quả của dạng thức truyền thông này phụ
thuộc vào năng lực, tư chất cá nhân và môi trường giao tiếp xã hội rất rõ rệt.
Truyền thông nội cá nhân vừa là yếu tố kích thích phát triển vừa là tiêu chí
đánh giá năng lực tư duy cá nhân. Việc đánh giá năng lực cá nhân cũng cần có quan
niệm mới. Trong Lý thuyết “đa thông minh” (Theory of multiple intelligences – MI)
được giáo sư tâm lý Howard Gardner (Đại học Harvard) đưa ra lần đầu tiên trong
cuốn sách Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences xuất bản vào năm
1983, Howard cho rằng khái niệm thông minh vốn thường được đồng nhất và đánh
giá dựa trên các bài trắc nghiệm IQ chưa phản ánh đầy đủ các khả năng tri thức đa
dạng của con người. Theo ông, ở trường, một học sinh giải quyết dễ dàng một bài
toán phức tạp chưa chắc đã thông minh hơn đứa trẻ khác loay hoay làm mãi không
xong bài toán đó. Cậu học sinh thứ hai rất có thể sẽ giỏi hơn trong các “dạng” thông
minh khác. Theo đó, Howard Gardner và nhóm cộng sự của mình đề xuất trong việc
giáo dục học sinh nên phân loại để phát triển (những khả năng) hoặc cải thiện (nhũng
mặt yếu) của học sinh.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng không có truyền thông nội cá nhân. Nhưng
nhận diện dạng thức truyền thông này là nhằm đề cao năng lực tư duy theo hướng
chủ động và tích cực của cá nhân – yếu tố rất quan trọng trong quá trình tạo lập “vốn
con người” trong quá trình hình thành kinh tế tri thức, trong quá trình toàn cầu hoá
và thế giới đang bị làm phẳng; quá trình xã hội hoá và cá thể hoá cá nhân.
b) Truyền thông liên cá nhân
Là dạng thức truyền thông trong đó các cá nhân tham gia tổ chức, thực hiện
việc trao đổi thông tin, suy nghĩ, tình cảm,... nhằm tạo ra sự hiểu biết và những ảnh
hưởng lẫn nhau về nhận thức, thái độ, hành vi. Đó là quá trình thông tin – giao tiếp
và liên kết các cá nhân, chịu tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và chịu sự chi phối của
môi trường giao tiếp xã hội. Môi trường truyền thông xã hội cởi mở, dân chủ, công
khai, minh bạch và tương tác bình đẳng sẽ kích thích cá nhân giao tiếp, tư duy sáng
tạo và phấn khích tham gia công việc chung.
Chất lượng truyền thông nội cá nhân và truyền thông liên cá nhân là tiền đề,
điều kiện để nâng cao chất lượng truyền thông nhóm.
c) Truyền thông nhóm
Là dạng thức truyền thông được thực hiện và tạo ảnh hưởng trong phạm vi
từng nhóm nhỏ hoặc giữa các nhóm xã hội cụ thể. Khác với truyền thông liên cá
nhân, truyền thông nhóm và truyền thông một – một nhóm, truyền thông nhóm đòi
hỏi kỹ năng giao tiếp ở cấp độ cao hơn, khả năng liên kết và tương tác rộng hơn.
Truyền thông nhóm muốn đạt hiệu quả đòi hỏi các thành viên trong nhóm tuân thủ
nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động tham gia bày tỏ và chia sẻ ý kiến, suy
nghĩ, kinh nghiệm, tình cảm của mình; đồng thời yêu cầu các thành viên trong nhóm
tôn trọng ý kiến của nhau trên nguyên tắc tìm kiếm những tương đồng và bảo lưu sự
khác biệt. Truyền thông nhóm phát triển tích cực là cơ sở, tiền đề cho xã hội phát
triển bền vững. Một trong những yếu tố động lực của các nước phát triển là cá nhân
nào trong nhóm có năng lực tư duy vượt trội sẽ là nhóm trưởng; trong mỗi cơ quan
hay mỗi ngành cũng tương tự. Theo đó, các cá nhân này có vai trò kéo xã hội phát
triển theo hình chóp – đó là cơ chế lựa chọn qua thi cử, phát hiện và qua tiến cử nhân
tài, nhờ thế tạo thành động lực phát triển và kích thích nguồn nhân lực xã hội. Xã
hội ở các nước đang phát triển, nhất là các nước đang phát triển không bình thường
là xã hội có cơ chế ngược lại. Ở các xã hội theo cơ chế ngược lại này, sự “lựa chọn”
những người a dua nịnh hót, kéo bè kéo cánh vì “lợi ích nhóm” sẽ dần làm triệt tiêu
năng lực sáng tạo của con người đồng thời tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ xã hội.
d) Truyền thông đại chúng
Là dạng thức truyền thông – giao tiếp với công chúng xã hội rộng rãi, được
thực hiện thông qua các phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền thông, với phạm
vi ảnh hưởng rộng lớn tới công chúng – nhóm lớn xã hội. Một số loại hình truyền
thông đại chúng tiêu biểu là: sách, báo in và các ấn phẩm in ấn, điện ảnh, phát thanh,
truyền hình, quảng cáo, video clip, metoch tod Internet, mạng xã hội và các dạng
thức truyền thông trên mạng Internet, băng, đĩa hình và âm thanh,... Trong truyền
thông đại chúng, các loại hình a am than te báo chí (như báo in, tạp chí, phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử) có vị trí trung tâm, vai trò nền tảng; nó chi phối sức
mạnh, bản chất và khuynh hướng vận động của truyền thông đại chúng. Truyền
thông đại chúng phát triển và phát huy tác dụng cùng với quá trình đô thị hoá, cùng
với sự quan tâm đến giáo dục con người cũng như mức độ dân chủ hoá đời sống xã
hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với kỹ thuật và công nghệ truyền thông số if au
in ngày càng hiện đại, mạng xã hội và các dạng thức truyền thông trên mạng Internet
(có thể gọi là truyền thông xã hội) ngày càng đa dạng, việc phân biệt tính đại chúng
của truyền thông đại chúng với các mạng xã hội ngày càng phức tạp. Thời gian qua,
hội nghị tại Oxford (Anh) đã được tổ chức để tìm hiểu mối tương tác giữa Internet
và ngành công nghệ thông tin. Truyền thông xã hội trở thành một bộ phận quan trọng
trong lĩnh vực thông tin tài chính đối với hãng tin Reuters1.
Mặt khác, Hội nghị Truyền thông xã hội năm 2009 tập trung đánh giá sự phát
triển, tác động và tiềm năng của truyền thông xã hội để có cái nhìn về các phương
tiện truyền thông xã hội khác nhau và sự tác động của chúng trong lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội. Trong đó, mối quan hệ giữa blog và các phương tiện truyền thông
“dòng chính” (hàm chỉ truyền thông qua báo chí) được hội nghị đặc biệt quan tâm.
Richard Sambrook – Giám đốc của BBC Global News Division, nhận định rằng sự
tác động của phương tiện truyền thông xã hội được đánh giá quá cao nếu xét trong
quãng thời gian ngắn vừa qua, nhưng lại được đánh giá chưa đúng mức nếu xét về
lâu dài. Ông thừa nhận rằng, truyền thông “dòng chính” đang dần thích nghi với sự
“lấn sân” của truyền thông xã hội như Blog và Twitter; tuy nhiên chưa có ai đề cập
về sự tác động lâu dài của sự “lấn sân” này. Sự tác động về lâu về dài là như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, Richard khẳng định rằng về lâu về dài, sẽ không có một tổ
chức nào độc quyền sở hữu thông tin. Xã hội phát triển với sự tham gia của bộ phận
đông đảo công dân làm báo, nhiều thông tin không còn được giấu kín mà sẽ được
chia sẻ trên các phương tiện truyền thông xã hội. Do đó, Richard cho rằng bộ phận
làm báo này cũng nên được đánh giá đúng tầm quan trọng1.
Cũng tại hội thảo, các nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề là trong quá trình cạnh
tranh và kết hợp giữa các loại hình truyền thông – truyền thông “dòng chính” và
truyền thông xã hội, đòi hỏi những người làm “dòng chính” cần có cách tiếp cận
1
Nguồn: Compendiumblog
mới, nhận diện sự khác biệt giữa hai dòng truyền thông này cũng như nâng cao tính
chuyên nghiệp của mình.
Richard bình luận: “Mỗi sáng, khi bạn mở Twitter, bạn thấy có rất nhiều thông
tin mới, thì đó chỉ là tin, chứ không phải là tin tức báo chí. Tin tức báo chí đòi hỏi
có sự phân tích, tính kỷ luật, sự giải thích và bối cảnh rõ ràng. Vì vậy, tin tức do các
nhà báo, phóng viên cung cấp luôn có tính chuyên nghiệp và sự khác biệt. Richard
lạc quan tin tưởng về tương lai của báo chí trong sự cạnh tranh khốc liệt giữa truyền
thông “dòng chính” và truyền thông xã hội”2.
Cũng nguồn dẫn trên cho thấy, John Kelly bình luận viên của - Washington
Post có bản báo cáo về những thách thức và giá trị của “báo chí công dân” cho một
nghiên cứu về báo chí của Viện Reuters (Anh). Kelly cho rằng: “Huffington Post
không chỉ cạnh tranh với Washington Post về việc đưa tin, mà cạnh tranh cả về độc
giả”. Theo Kelly, truyền thông xã hội không chỉ quan trọng đối với “báo chí công
dân” mà quan trọng đối với cả người đọc. Các phương tiện truyền thông truyền thống
đang tìm cách sử dụng truyền thông xã hội để đạt được số người theo dõi với số
lượng lớn. Theo bản báo cáo của Kelly, Washington Post vẫn còn chần chừ trong
việc coi trọng các bài viết của công dân làm báo. Mảng thể thao của tờ này là mảng
có nhiều bài viết do độc giả thực hiện nhất. Đây là những bài tổng hợp về các cầu
thủ đá bóng của Mỹ từ Twitter. Còn Jonathan Ford – biên tập viên, bình luận viên
của hãng Reuters, cho rằng đối với một hãng thông tấn như Reuters thì việc để truyền
thông xã hội góp mặt trong việc đưa tin là một quyết định khá khó khăn. Reuters là
một hãng tin lớn, nếu các bài của hệ thống truyền thông xã hội mắc lỗi thì điều này
sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của hãng. Theo báo cáo của Kelly, ở khía cạnh thông
tin tài chính, Reuters lại rất quan tâm đến Blog nhằm thiết lập một cộng đồng chuyên
cung cấp thông tin và tin tức cụ thể về thương mại. Bởi lẽ trên thực tế, truyền thông
xã hội đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tài chính. Chẳng hạn, chuyên gia kinh
tế Paul Krugman hay các giám đốc ngân hàng đều chia sẻ thông tin với công chúng
thông qua truyền thông xã hội để lôi kéo nhiều người vào các cuộc tranh luận về tài
chính, và từ đó lấy được lòng tin của những người này. Trên Twitter, thậm chí một
dòng chữ “Các chủ ngân hàng sử dụng Blog để lấy lòng tin. Ai quan tâm?” cũng đã
thu hút nhiều người bình luận.
Như vậy, truyền thông đại chúng, báo chí và truyền thông xã hội tuy có những
điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt căn bản.
1
Nguồn: http://tintuc.vnth.vn/n4031-1/bao-chi-loai-hinh-truyen-thong.htm.
2
Nguồn: http://tintuc.vnth.vn/n4031-1/bao-chi-loai-hinh-truyen-thong.htm.

1.6.3. Phân loại theo mục đích và phương thức tổ chức


Căn cứ vào mục đích và phương thức tổ chức hoạt động truyền thông, có các
loại hình truyền thông: thông tin – giáo dục – truyền thông; tuyên truyền; truyền
thông thay đổi hành vị; truyền thông – vận động xã hội,...
a) Thông tin – giáo dục – truyền thông
Là loại hình truyền thông có chủ đích sử dụng phối hợp ba dạng truyền thông
ứng với ba mục tiêu cụ thể và cùng hướng tới mục tiêu chung của kế hoạch/ chiến
dịch: thông tin (cung cấp những thông tin cơ bản, bao gồm các kiến thức nền, kiến
thức chuyên biệt và các kỹ năng cần thiết nhất, những thông tin cập nhật,... về vấn
đề cần truyền thông, phù hợp với nhóm đối tượng truyền thông) cho nhóm đối tượng
chuyên biệt; giáo dục (không chỉ hướng vào các đối tượng đang cần những thông tin
này mà cả những người cần đến trong tương lai, nhằm tạo nên sự thông hiểu, chia
sẻ) theo định hướng giá trị cụ thể về nhận thức, hiểu biết và kỹ năng cần đạt tới; và
truyền thông (chia sẻ, trao đổi thông tin, kiến thức để nhân lên những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm nhằm thúc đẩy những thay đổi trong nhận thức, thái độ và hành
vi). Bởi vì, muốn thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi thì cần cung cấp kiến thức,
chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm thông qua quá trình thông tin – giao tiếp. Cho nên
vấn đề tạo lập môi trường thông tin – giao tiếp phong phú, đa dạng và nhiều chiều
có ý nghĩa rất quan trọng.
Quá trình thông tin – giáo dục – truyền thông dòi hỏi sự kết hợp hài hoà, chặt
chẽ giữa ba phương thức này trong một chiến dịch cụ thể. Chẳng hạn, muốn thực
hiện chiến dịch thông tin – giáo dục – truyền thông phòng tránh tai nạn thương tích
cho trẻ em, cần xác định các nhóm đối tượng và vấn đề cần can thiệp cụ thể. Trên
cơ sở ấy, cung cấp thông tin nền, thông tin chuyên biệt nhằm hỗ trợ cho hoạt động
giáo dục theo những định hướng giá trị cần đạt được; trên cơ sở ấy, truyền thông
chia sẻ, tương tác để nhân lên kỹ năng và kinh nghiệm nhằm thực hiện mục tiêu của
chiến dịch. Đó là quá trình lồng ghép, đan xen kết hợp trên cơ sở kế hoạch được thiết
lập hợp lý.

b) Truyền thông – vận động xã hội


Là loại hình truyền thông với các nhóm đối tượng xác định nhằm tạo ra sự
đồng thuận, ủng hộ mục tiêu chiến dịch truyền thông. Đối tượng chủ yếu của truyền
thông – vận động xã hội chủ yếu tập trung vào các nhân vật quan trọng trong bộ máy
lập pháp, hành pháp, tư pháp và các nhà hoạt động văn hoá xã hội, các nhà truyền
thông nhằm tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ từ các nhân vật quan trọng cũng như dư
luận xã hội cho mục tiêu chiến dịch truyền thông. Truyền thông – vận động xã hội
nhằm tham gia giải quyết các vấn đề lớn liên quan đến cộng đồng và dư luận xã hội,
nhưng chủ yếu tập trung vào các nhóm đối tượng trọng điểm trên đây, các nhóm đối
tượng có khả năng gây ảnh hưởng lớn, có tính chất quyết định, kể cả vận động hành
lang, vận động gây ảnh hưởng.
Đối với các nhân vật trong bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp (ở Việt
Nam, gọi chung là các nhân vật chủ chốt trong các tổ chức của hệ thống chính trị),
cần vận động, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ để có thể tạo lập môi trường pháp lý,
chính sách, chủ trương, sự ủng hộ, khuyến khích với chiến dịch truyền thông. Đối
với các nhà hoạt động văn hoá — xã hội, những người có uy tín xã hội, các “sao”,...
cần vận động, tranh thủ sự ủng hộ thông qua các phát ngôn gây ảnh hưởng tới cộng
đồng và dư luận xã hội.
Đối với giới truyền thông, không chỉ vận động nhằm gây ảnh hưởng tới dư
luận xã hội mà còn cung cấp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cho công chúng
nhằm thống nhất nhận thức và cách tiếp cận, kỹ năng xử lý vấn đề liên quan một
cách hiệu quả; bởi thông qua giới truyền thông tác động tới công chúng và dư luận
xã hội theo hướng có lợi cho chiến dịch truyền thông — vận động xã hội.
c) Truyền thông thay đổi hành vi
Truyền thông thay đổi hành vi là hoạt động truyền thông lấy việc thay đổi
hành vi làm mục đích trực tiếp, có kế hoạch nhằm tác động vào tình cảm, lý trí của
các nhóm đối tượng, từ đó nâng cao nhận thức, kỹ năng, hình thành thái độ tích cực,
làm cho đối tượng chấp nhận và duy trì hành vi mới có lợi cho các vấn đề truyền
thông trong việc tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Truyền thông thay đổi hành
vi cũng là một quá trình truyền thông, nhưng nó lấy mục tiêu thay đổi hành vi và
duy trì bền vững hành vi làm tiêu chí chủ yếu đánh giá những nỗ lực và mức độ
thành công của hoạt động truyền thông.

d) Tuyên truyền
Là loại hình truyền thông đặc thù. Đó là quá trình truyền thông dựa trên mô
hình truyền thông một chiều, áp đặt làm cơ sở lý thuyết và phương châm hoạt động.
Mô hình truyền thông đặc thù này hiện nay vẫn được sử dụng ở nhiều nước trên thế
giới – dù ở các mức độ và phạm vi khác nhau, trong những trường hợp khác nhau,
trong các xã hội có chế độ chính trị khác nhau và với các quan niệm khác nhau.
Chẳng hạn, ở các nước phương Tây, người ta cho rằng, tuyên truyền là nói
mãi một vấn đề không có thật, kể cả bằng các sự kiện nguỵ tạo, để cho dân chúng
tin là thật, còn thực chất là lừa dối công chúng nhằm mưu lợi.
Trong khi đó, ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo
quan niệm của V.I. Lênin, lại cho rằng tuyên truyền là đem chân lý, lẽ phải đến cho
quần chúng nhân dân để giác ngộ nhân dân, vận động nhân dân tin tưởng và thực
hiện một đường lối, chủ trương hay chính sách cụ thể.
Tuyên truyền chủ yếu được sử dụng trong hoạt động chính trị – tuyên truyền
chính trị. Truyền thông nói chung và tuyên truyền nói riêng đều nhằm đạt được mục
đích cụ thể. Dạng thức tuyên truyền có ưu thế riêng của nó. Tuy nhiên trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hoá, nếu trong thời gian dài, liên tục áp dụng dạng thức này,
thậm chí tuyệt đối hoá nó, sẽ có thể tạo ra những hoài nghi, ngờ vực và có thể dẫn
tới những bất ổn. Cho nên cần tính toán sử dụng dạng thức tuyên truyền trong sự kết
hợp với các dạng thức truyền thông khác một cách hợp lý, tuỳ theo tính chất vấn đề,
nhóm đối tượng truyền thông cũng như bối cảnh và thời điểm.
e) Truyền thông phát triển
Truyền thông phát triển (Development Communication) hay còn gọi là
Truyền thông vì sự phát triển bền vững (Development Support Communication) là
một lý thuyết mới xuất hiện gần đây so với lịch sử phát triển của ngành báo chí –
truyền thông nói chung. Ý tưởng cơ bản của Truyền thông phát triển là làm thế nào
để truyền thông phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia, mỗi
cộng đồng, đặc biệt ở các nước đang phát triển có tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ.
“Phát triển” là khái niệm được bàn thảo nhiều trong những thập niên gần đây
và nội hàm khái niệm này ngày càng phong phú. Tuy nhiên ở một bình diện nào đó,
có thể được hiểu là “cải thiện cuộc sống của con người hoặc cải thiện mức sống của
xã hội”. Nhưng còn rất nhiều ý kiến tranh cãi ý xoay quanh vấn đề cụ thể như thế
nào là “cải thiện”. Từ rất lâu, người ta thường đồng nhất “phát triển” là “tăng trưởng
kinh tế” hoặc “thịnh vượng về kinh tế”. Trong bài nghiên cứu khoa học Lý thuyết
Truyền thông phát triển1, Men-cốt cho rằng người ta thường nhầm tưởng mức độ
phát triển được đo bằng “tổng thu nhập quốc nội GDP và mọi nhân tố trong nước
được huy động để tăng cường và duy trì mức độ tăng trưởng GNP, nhất là trong
những ngành tập trung nhiều vốn như công nghiệp và công nghệ với nguyên tắc sở
hữu tư nhân, tự do thương mại và thị trường tự do”2.
1
International and Development Communication: a 21 Century Perspective,
Sange Publications, 2001.
2
International and Development Communication: a 21st Century Perspective,
Såd, tr. 131.
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”. Khái niệm
này được phổ biên rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo Brundtland1. Báo cáo này ghi
rõ, phát triển bền vững là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại
mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương
lai...”. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu
quả xã hội công bằng, văn hoá và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được a
va vực điều này, tất cả các thành phần kinh tế – xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức
xã hội,... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hoà các lĩnh chính: kinh
tế — văn hoá – xã hội – môi trường, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Mục tiêu xã
hội phải đưa lên hàng đầu trong sự phát triển kinh tế, vì nếu con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển thì không thể hy sinh con người cho sự phát
triển. “Chúng ta chọn phương thức phát triển mà cái kinh tế và cái xã hội sẽ hoà nhập
vào nhau. Sự phát triển khác với sự tăng trưởng. Tăng trưởng về số lượng, còn phát
triển có tính chất lượng. Tăng trưởng là sự tiến bộ cục bộ về kinh tế. Phát triển là sự
tiến bộ toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, môi sinh”2. Do đó,
truyền thông phát triển là phương tiện và phương thức đặc biệt quan trọng góp phần
bảo đảm sự phát triển bền vững.
Vì tư duy ngắn hạn, chụp giật mà không ít quốc gia đang phát triển cứ nhằm
vào huy động mọi nguồn lực tài nguyên cứng sẵn có, nhất là đào bởi làm tái vô tội
vạ tải nguyên không tái tạo, hoặc là bán nguyên liệu thô cho nước ngoài, phục vụ
mục đích tăng trưởng GDP trước mắt và vì lợi ích nhóm, bất chấp hậu quả trước
mắt, chứ chưa nói đến để lại hậu quả về lâu dài cho các thế hệ con cháu mai sau.
Hoặc ý thức, thái độ và hành vi của con người đối với môi trường, cũng như kiến
thức và kỹ năng sống của mỗi người và nhóm người,... còn nhiều vấn đề cần được
giáo dục, cải thiện,...
Trong bối cảnh đó, truyền thông phát triển, nhất là ở các nước đang phát triển
cần đề cao vai trò, trách nhiệm xã hội của mình đối với quá trình phát triển bền vững
của cộng đồng và đất nước.
Khó có thể kể hết các dạng thức truyền thông, dù ở mức độ tổng quan, vì trong
thực tế, các dạng thức truyền thông luôn biến đổi, lồng ghép và có những bước phát
triển mới. Hơn nữa, các loại hình, dạng thức truyền thông ngày càng phát triển đa
dạng, tương thích với trình độ văn minh của con người và xã hội sẽ là nguồn năng
lượng hằng ngày của báo chí, kết nối với báo chí và thông qua báo chí để phát huy
hiệu quả của nó; đồng thời, tác động tích cực của báo chí sẽ là yếu tố tạo nên hiệu
ứng xã hội và môi trường truyền thông hiệu quả. Báo chí, một mặt, cũng là những
loại hình truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng; mặt khác, nó
là những loại hình có vị trí trung tâm, vai trò chủ yếu, quyết định sức mạnh xã hội
của truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng.
1
Còn gọi là Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển
Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland).
2
Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
– WCED.

1.7. TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG


1.7.1. Khái niệm vo9
Do tác động và chi phối đến số đông nên truyền thống đại chúng được hiểu
theo nhiều quan niệm khác nhau, tuỳ theo sự cảm nhận và góc độ tiếp cận của mỗi
người.
Nhìn từ bình diện giao tiếp, người ta cho rằng, truyền thông đại chúng là kênh
giao tiếp đại chúng với đặc trưng bản chất là có sự tham gia của nhiều người về
những chủ đề mà họ quan tâm, với tần suất và diện quảng bá ngày càng gia tăng. Từ
đó, có sự khu biệt rõ ràng giữa giao tiếp liên cá nhân, giao tiếp gia đình và giao tiếp
đại chúng1.
Dưới góc độ tiếp cận từ các phương tiện kỹ thuật, người ta cho rằng truyền
thông đại chúng là các kênh truyền thông chuyển tải thông điệp tới đông đảo công
chúng xã hội và nhân dân nói chung.
Tiếp cận từ tính chất của truyền thông đại chúng, người ta nhấn mạnh tính
chất đại chúng của các kênh truyền thông này2.
Trên cơ sở xem xét các bình diện, từ phương tiện, đối tượng tác động đến mục
đích,... có thể nêu ra một định nghĩa như sau:

1
Xem Mai Quỳnh Nam, Giao tiếp đại chúng và giao tiếp gia đình
2
Xem Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên), NXB Văn
hoá – Thông tin, H., 1992.

Truyền thông đại chúng có thể được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các
phương tiện truyền thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân
dân các vùng miền, cả nước, khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ,
nhằm lôi kéo và tập hợp giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo công chúng xã
hội và nhân dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội đã
và đang đặt ra.
Như vậy nội hàm khái niệm truyền thông đại chúng có thể nhấn mạnh mấy
khía cạnh sau đây:
– Chỉ hệ thống hoặc mạng lưới các kênh truyền thông khác nhau;
– Chuyển tải khối lượng lớn các thông điệp;
– Hướng thông điệp tác động vào đông đảo công chúng xã hội; – Mục đích là
chia sẻ thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nhằm thuyết phục, lôi kéo, tập
hợp lực lượng xã hội;
- Hiệu ứng cuối cùng của truyền thông đại chúng là hành vi xã hội. Khái niệm
truyền thông đại chúng nhìn từ các yếu tố cấu thành có thể được mô tả như sau:

Hình 1.7. Mô hình truyền thông đại chúng


Trong đó:
- Báo chí, gồm:
+ Báo in và các ấn phẩm in ấn;
+ Phát thanh (báo nói);
+ Truyền hình (báo hình);
+ Báo mạng điện tử (online newspaper internet).
– Phương tiện truyền thông khác, gồm:
+ Sách;
+ Quảng cáo;
+ Tờ rơi, tờ gấp;
+ Panô, áp phích;
+ Điện ảnh;
+ Nhiếp ảnh;
Vv…

Trong khái niệm nêu trên, có thể thấy vai trò trung tâm, vị trí nền tảng của báo
chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Báo chí có vai trò chi
phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh hướng của truyền thông đại chúng.
Do đó, trong nhiều trường hợp, người ta dùng thuật ngữ báo chí để chỉ các phương
tiện truyền thông đại chúng. Mặt khác, nói đến truyền thông đại chúng trước hết là
nói đến báo chí (hay giới truyền thông nói chung). Thông tin báo chí và thông tin
trên các phương tiện truyền thông khác tuy có sự khác biệt căn bản, nhưng giữa
chúng có sự chia sẻ, phối hợp, kết nối để gia tăng sức tác động và sự lan toả trên
diện rộng cũng như len lỏi vào công chúng xã hội theo nhóm nhỏ,
1.7.2. Đặc điểm, tính chất của truyền thông đại chúng
– Thứ nhất, đối tượng tác động của truyền thông đại chúng là đông đảo công
chúng xã hội – những quần thể dân cư không phân biệt trình độ, dân tộc, đảng phái,
tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp,... Khi nói chuyện với một nhóm đối tượng xác định
trong không gian xác định, bạn hoàn toàn có thể biết đó là những ai đang nghe;
nhưng khi phát biểu qua các phương tiện truyền thông đại chúng, bạn khó có thể xác
định được những ai đang theo dõi thông điệp của mình. Có thể gọi đó là đặc tính ẩn
danh, không xác định của công chúng truyền thông đại chúng. Mặc dù các ấn phẩm
truyền thông đại chúng đều nhằm vào những nhóm đối tượng cụ thể với mục đích
cụ thể, nhưng mỗi khi những ấn phẩm ấy được xã hội hoá trên các kênh truyền thông
đại chúng thì đối tượng tiếp nhận không phải chỉ còn là nhóm đối tượng được xác
định ban đầu. Đây chính là tính công khai của truyền thông đại chúng. Hơn nữa,
chính tính công khai này lại tiềm ẩn sức mạnh của truyền thông đại chúng. Bởi vì,
như C. Mác đã nói, vũ khí phê phán quyết không thể thay thế bằng việc phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, nhưng
sức mạnh tinh thần khi đã ngấm vào quần chúng thì nó sẽ biến thành lực lượng (sức
mạnh) vật chất, và lực lượng vật chất này có thể làm được mọi việc — từ việc lật
nhào đến việc dựng lên một thể chế chính trị. Những thông điệp trên truyền thông
đại chúng tác động vào hàng triệu người, lay động, chi phối, thậm chí lũng đoạn
hàng triệu người, kêu gọi, thúc đẩy và tổ chức họ tham gia giải quyết các vấn đề
đang đặt ra. Đấy chính là lực lượng vật chất khổng lồ có thể tạo dựng, kiến thiết nên
một chế độ xã hội, nhưng cũng có thể lật nhào nó một cách “ngọt ngào” trong chốc
lát. Tình hình ở Bắc Phi và Trung Đông trong năm 2011 đã chứng minh điều đó.
– Thứ hai, các sự kiện và vấn đề đăng tải trên truyền thông đại chúng - luôn
hướng tới việc ưu tiên thoả mãn, phục vụ nhu cầu, mong đợi của công chúng xã hội
và nhân dân. Những sự kiện được thông tin liên quan mật thiết đến việc giải thích
và giải đáp, tháo gỡ những vấn đề bức xúc trong cuộc sống của đông đảo cư dân –
lấy lợi ích của nhân dân làm trọng, hoặc giúp họ mở rộng tầm mắt, nối dài tầm tay
trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh liên quan đến cuộc sống.
Trong xã hội thông tin thời đại số hoá, các phương tiện truyền thông đại chúng đã
và đang trở thành diễn đàn chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm, kỹ năng và kinh
nghiệm của đông đảo nhân dân. Sản xuất, trao đổi, chia sẻ thông tin là một trong
những hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế tri thức và xã hội số hoá. ib
Nhu cầu tiếp nhận của công chúng nói chung hết sức đa dạng, phong phú. Với
mỗi sự kiện và vấn đề xảy ra, họ đều muốn được thông tin đa chiều. Thông tin đa
chiều giúp công chúng nhận thức rõ hơn bản chất của sự kiện và vấn đề đang đặt ra.
Cho nên cũng không ngạc nhiên vì cùng một vấn đề, cùng một sự kiện thời sự, mỗi
phương tiện truyền thông có những thông tin đưa ra không giống nhau, thậm chí trái
ngược nhau; nhưng những sự khác biệt ấy cần có sự kiểm chứng nguồn tin và hướng
vào việc công chúng nhận thức được, hiểu được bản chất sự thật. trong là văn
– Thứ ba, tính mục đích rõ rệt. Mọi hoạt động của con người đều có tính mục
đích. Các kênh truyền thông luôn tiếp xúc, tác động đến đông đảo công chúng, nhằm
làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đông đảo người theo một chiều hướng
nào đó, liên quan đến việc tranh thủ, tập hợp lực lượng vì mục đích nào đó. Do đó
tính mục đích ở đây trước hết là mục đích chính trị. Mục đích chính trị ấy có thể biểu
hiện trực tiếp thông qua các khẩu hiệu chính trị, quyết tâm chính trị, hoặc gián tiếp
qua các tầng nấc trung gian và dưới nhiều dạng thức khác nhau. Điều này khác hẳn
với giao tiếp gia đình; giao tiếp gia đình linh hoạt và uyển chuyển hơn, còn giao tiếp
trên các phương tiện truyền thông đại chúng lại mang tính định hướng và xác định
rõ ràng hơn. “Không phải ngẫu nhiên ở giai đoạn đầu trong lịch sử nghiên cứu truyền
thông đại chúng, khoảng những năm 30 của thế kỷ này (thế kỷ XX), các nhà xã hội
học Đức thuộc trường phái Frankfurt lại phê phán gay gắt khả năng biến công chúng
thành “những khối đại chúng” và nguy cơ phá huỷ các quan hệ sinh động của đời
sống cộng đồng bởi áp lực của các phương tiện truyền thông công cộng khi hệ thống
này bị thao túng bởi lập trường chính trị tư sản”1.
Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá mục đích chính trị của truyền thông đại
chúng. Bởi vì ngoài mục đích chính trị, truyền thông đại chúng còn thoả mãn nhiều
nhu cầu đa dạng khác như văn hoá – giải trí, an sinh xã hội, chia sẻ kỹ năng và kinh
nghiệm sống, nhu cầu an sinh,...
Xét trên bình diện xã hội, nếu tuyệt đối hoá mục đích chính trị của thông tin
truyền thông đại chúng thì dễ dẫn đến việc làm cho thông tin đơn điệu, nghèo nàn
do áp đặt duy ý chí, làm cho công chúng xa lánh các phương tiện truyền thông đại
chúng; và do đó, hiệu lực và hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng sẽ suy
giảm, niềm tin của công chúng xã hội thậm chí bị đánh mất dần. Nhưng nếu xa rời
tính chính trị của mục đích thông tin thì việc lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết
phục và tổ chức đông đảo công chúng xã hội và nhân dân nói chung sẽ không có
phương hướng xác định. Do đó ở đây cần có tính chuyên nghiệp, nghệ thuật thông
tin và sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như thế nào cho hiệu quả.
– Thứ tư, tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều. Có thể nói rằng, xét trên
mọi khía cạnh, các kênh truyền thông đại chúng thể hiện rõ nhất sự phong phú, đa
dạng. Một là, đối tượng phản ánh bao gồm các sự kiện và vấn đề về mọi lĩnh vực
khác nhau của đời sống: từ các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong sản xuất, đời
sống,... Hai là, đáp ứng mọi nhu cầu phát triển của con người và xã hội từ tâm lý,
tình cảm, nhận thức, hiểu biết đến hành vi,... Ba là, hệ thống ký hiệu, các phương
tiện và phương thức sản xuất, chuyển tải thông điệp rất đa dạng nhằm thu hút và hấp
dẫn các giác quan tiếp nhận của con người – thị giác, thính giác, hoặc cả hai, và
trong tương lai có thể cả khứu giác nữa,... Bốn là, hình thức và thể loại cũng rất linh
hoạt và phong phú: từ những thông tin ngắn gọn, cô đúc có tính chất thông báo đến
những bức tranh được tái hiện miêu tả chân thực cuộc sống hay những mảnh đời
đang “cựa quậy”, từ diện mạo đến chiều sâu với những cảm xúc và ấn tượng cũng
như những nhận xét và đánh giá ban đầu, ngôn từ, giọng điệu hết sức linh hoạt, uyển
chuyển tạo nên sự đa thanh trong hình thức thể hiện. Trong xã hội thông tin, khi mô
thức truyền thông chuyển đổi từ đơn nguồn – đa tiếp nhận đến mô thức đa nguồn –
đa tiếp nhận thì tính phong phú, đa dạng sẽ nhân lên gấp bội. Do đó nếu biết khai
thác các thế mạnh đặc trưng của các kênh truyền thông sẽ tạo nên sức mạnh tổng
hợp đa năng trong việc thu phục công chúng xã hội vào việc xây dựng và phát triển
bền vững.
Thông tin phong phú, đa dạng đã khó, thông tin nhiều chiều càng khó khăn
hơn. Bởi vì nó còn đòi hỏi tư duy chính trị, môi trường pháp lý và văn hoá giao tiếp
của cộng đồng.
– Thứ năm, tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Tính chất giao tiếp đại chúng
yêu cầu thoả mãn trình độ chung của công chúng. Do đó các thông điệp phát ra phải
đảm bảo để công chúng hiểu ngay lập tức và cùng hiểu như nhau để có thể chia sẻ,
nhận thức hoặc xử lý kịp thời, hiệu quả. Điều này đòi hỏi thông điệp phải được thiết
kế phù hợp để người nông dân có trình độ trung bình khi tiếp nhận không thấy khó
hiểu và nhà khoa học không thấy nhàm chán. Đây thực chất là yêu cầu cao, đòi hỏi
nhà truyền thông không chỉ phải có trình độ, năng lực, kinh nghiệm từng trải mà còn
phải có khả năng hoà nhập vào các nhóm công chúng và có năng khiếu thể hiện.
– Thứ sáu, tính gián tiếp. Hầu hết các kênh truyền thông đại chúng, trong quá
trình chuyển tải thông điệp, không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể
mà dùng các phương tiện kỹ thuật làm vật trung gian truyền dẫn. Do đó, muốn nâng
cao năng lực và hiệu quả truyền thông, không thể không tính đến việc đầu tư vào đổi
mới công nghệ, hình thức và phương thức truyền dẫn thông điệp; mặt khác, cũng
cần phải nắm vững các đặc trưng của mỗi kênh giao tiếp để có thể khai thác triệt để.
– Thứ bảy, một trong những nguyên lý của truyền thông là trong quá trình
truyền thông, tần suất tương tác giữa chủ thể và khách thể càng nhiều, càng bình
đẳng, càng nhiều người tham gia bao nhiêu thì năng lực và hiệu quả truyền thông
càng cao bấy nhiêu. Do đó mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của cơ quan truyền
thông đại chúng phải phù hợp để cho những ai có nhu cầu và điều kiện đều có thể
tham gia. Một trong những phẩm chất của nhà truyền thông giỏi là người biết tổ chức
và kích thích, động viên và hướng dẫn cho nhiều người cùng tham gia. Trong xu thế
của thời đại số hoá, các nhà báo, nhà truyền thông chủ yếu là người tổ chức, biên tập
và khai thác các nguồn lực thông tin – truyền thông từ đông đảo công chúng – đây
là tiền đề cho báo chí công dân và công dân làm báo ra đời; sự liên kết giữa báo in
với internet, với các weblog, giữa các weblog với nhau, giữa các mạng xã hội và các
kênh truyền thông đa phương tiện đang làm thay đổi cách thức tổ chức và cơ chế
vận hành của các cơ quan truyền thông đại chúng.
Những đặc điểm, tính chất trên đây được thể hiện rõ rệt nhất ở các loại hình
báo chí – tác động đến đông đảo công chúng nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất, thường
xuyên, liên tục nhất, phong phú, đa dạng và hấp dẫn nhất, nhanh chóng và kịp thời
nhất,...

1
Mai Quỳnh Nam, Báo chí - những điểm nhìn từ thực tiễn (Nguyễn Văn Dũng
chủ biên), NXB Văn hoả – Thông tin, H., 2000.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Truyền thông là gì? Phân tích các định nghĩa về truyền thông từ các góc độ
tiếp cận.
2. Nếu và phân tích các yếu tố trong quá trình truyền thông.
3. Trình bày các mô hình truyền thông. Nhiễu và cách xử lý nhiễu trong quá
trình truyền thông. Ý nghĩa của thông tin phản hồi trong truyền thông.
4. Chứng minh truyền thông là một quá trình. Các giai đoạn của quá trình
truyền thông.
5. Trình bày cách xây dựng thông điệp trong truyền thông. Hãy lấy ví dụ để
chứng minh.
6. Phân biệt truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng. Trình
bày các dạng truyền thông.
7. Phân tích đặc điểm của truyền thông đại chúng.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA BÁO CHÍ

2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ


Trước khi báo chí ra đời, nhân loại cũng đã có những hình thức trao đổi thông
tin. Chính sự trao đổi thông tin đó đã làm cho mọi thành viên của xã hội liên kết với
nhau mật thiết hơn, đồng thời xuất hiện nhu cầu cần phải trao đổi với nhau một điều
gì đó. Chính nhu cầu trao đổi thông tin là nguyên nhân ra đời của ngôn ngữ và các
hình thức giao tiếp, Hơn nữa, trong chế độ thị tộc, khi hoạt động thông tin chưa được
chia thành lĩnh vực độc lập, khí mà chưa có công cụ cưỡng bức nào khác dư luận xã
hội thì chức năng giao tiếp của ngôn ngữ càng giữ vai trò quan trọng trong việc hình
thành tư tưởng, ý niệm và nhận thức của con người.
Khi nhà nước xuất hiện, cùng với việc trao đổi vật chất, con người vẫn sử
dụng ngôn ngữ làm phương tiện trao đổi thông tin. Hình thức phổ biến lúc bấy giờ
là tuyên truyền miệng. Hoạt động này đã làm xuất hiện nhiều nhà hùng biện tài hoa
như: Cicero, Demosthenes, Lôi-pe-rit, Đi-na-zô, E-xkhin, Li-cu-rơ, Isaios, Socrates
(469-399 TCN), Li-xi, An-đô-kit của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Họ vừa là những nhà
hùng biện, nhà triết học, nhà tư tưởng, vừa là nhà hoạt động chính trị – xã hội, thực
hiện truyền bá các chủ trương, chính sách, các sắc lệnh, chỉ thị của nhà nước cho
dân chúng. Hoạt động tuyên truyền của các nhà hùng biện nhằm tác động tới những
hoạt động tâm lý – tư tưởng của công chúng, làm hình thành ở họ những quan điểm,
ý niệm, mong muốn hướng họ vào những hoạt động vật chất hay tinh thần.
Sau đó, những nhà hoạt động của giáo hội hay chính quyền phong kiến đã
dùng nhiều phương pháp khác nhau để truyền đạt các chủ trương của giáo hội hay
chính quyền đến dân chúng. Do mục đích tuyên truyền như vậy nên có thể gọi đó là
những hiện tượng tiền báo chí.
Ở những quốc gia rộng lớn thời cổ đại, hình thức tuyên truyền miệng không
thể đáp ứng được nhu cầu thông tin rộng lớn của công chúng. Vì thế một hình thức
hoạt động mới ra đời; Công văn bằng chữ viết. Những bản tin khẩn cấp có hình dạng
như những quyền sổ ghi chép tin tức đã xuất hiện. Thời các Vương triều Ai Cập cổ
đại đã xuất hiện loại “bảo” chỉ thảo (viết trên lá cây, ván gỗ, vỏ cây,...) cho mọi
người đọc. Ở La Mã cổ đại (từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ IV SCN) đã “xuất bản”
những bản tin tổng hợp như: “Acta publica", "Acta diurna popuri Romani" để đăng
lại những chỉ thị, sắc lệnh của Ceasar. Những “Acta” (tin tức) này được viết trên một
tấm bảng bằng thạch cao, treo ở chỗ công cộng, dễ nhìn thấy. Các “Acta” được sao
ra nhiều bản rồi gửi đến các thành phố và các tỉnh trong Đế quốc La Mã cho các
quan chức địa phương, các thủ lĩnh quân sự và dân chúng biết để thị hành mệnh lệnh
của chính quyền trung ương.
Ở Trung Quốc, từ thế kỷ III TCN đã xuất hiện kỹ thuật in. Vua Tần Thuỷ
Hoàng đã cho khắc trên những mảnh thân trẻ các tác phẩm thời cổ xưa; phương pháp
khắc trên gỗ này sau đó đã được lan truyền, phổ biến rộng rãi trong xã hội. Nghề in
ở Trung Quốc được xuất hiện vào thế kỷ X dưới thời Tống. Lúc đó, người ta khắc
các nét chữ lên một tấm gỗ, sau mặt gỗ được trát bằng một thứ bột nhão để in lên
giấy. Sang thế kỷ XI, cũng ở Trung Quốc, một kỹ thuật ấn loát mới đã ra đời: thay
vì gỗ, người ta dùng thạch cao.
Ở Việt Nam, theo truyền thuyết, nghề in có từ rất sớm. Vùng đồng bằng sông
Hồng, đặc biệt là ở Hà Nội, làng Bưởi, làng Láng có nghề làm giấy nổi tiếng từ rất
lâu. Có thuyết cho rằng, đất Luy Lâu xưa vốn là trung tâm Phật giáo từ thế kỷ I đến
thế kỷ III đã có các hoạt động khắc in Kinh Phật.
Ở Nhật Bản, trước khi xuất hiện kỹ thuật in ấn, đã có các “tờ báo" bằng dất
sét nung có khắc tin tức. Tấm bảng đất sét nung cổ nhất được tìm thấy ở Nhật Bản
có niên đại là năm 1615.
Ở Anh Quốc, từ năm 1615 đã có những bản tin viết tay.
Dưới thời Nga Hoàng, ở Nga đã có bản tin gọi là “Colocol” – đồng hồ chuông,
ra đời năm 1621.
Cùng với sự phát triển của hoạt động báo chí, trong xã hội đã xuất hiện những
người làm nghề truyền tin. Ở châu Âu, thời Trung cổ, có những khu vực đã thành
lập các văn phòng để lựa chọn và phổ biến tin tức (Novellanti ở Roma và Serittori
D’awiso ở Thụy Sĩ).
Mặc dù lúc đó chưa thể nói đến sự tồn tại của báo chí theo đúng nghĩa của từ
này nhưng vẫn có những nhóm có tổ chức ra đời để phổ biến tin tức trong các nhóm
xã hội khác nhau, đúng như Ph. Ăngghen đã nhận định: Xã hội đã sinh ra những
chức năng chung, rõ ràng, thiếu nó là không được. Để thực hiện những chức năng
đó, con người đã tạo ra những ngành nghề mới trong việc phân công lao động xã
hội.
Ở châu Âu, kỹ thuật ấn loát tuy ra đời sau Trung Quốc nhưng những cải tiến
tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã thúc đẩy ngành in nhanh chóng phát
triển. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, từ việc sử dụng gỗ người ta đã chuyển
sang sử dụng sắt và đồng rồi thay vì in bằng máy thủ công đã chuyển sang in bằng
máy sử dụng hơi nước,... Do đó công suất in cũng không ngừng tăng lên. Trước đây,
một chiếc máy mỗi ngày chỉ in được vài trăm tờ giấy, nhưng đến đầu thế kỷ XIX
con số này đã lên tới khoảng 3000 tờ/ngày. Chính điều này đã cho phép ra đời những
tờ nhật báo có số lượng ấn bản ngày càng lớn phát hành rộng rãi trong công chúng.
Mặt khác, thế kỷ XVI – XVII, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh, buôn bán
giữa các nước tăng lên, từ đó làm nảy sinh nhu cầu về tin tức thương mại cũng như
những tin tức về tình hình trong nước và thế giới. Sau đó báo chí đã hình thành và
phát triển cùng với những tham vọng của giai cấp tư sản. Do vậy, ngay từ đầu, họ đã
sử dụng kỹ thuật ấn loát để xuất bản báo với mục đích thương mại. Không phải ngẫu
nhiên mà tờ báo Gazette (tiếng Italia là “Gazzetta”) lại liên quan đến tên gọi đồng
tiền của nước này.
Những tờ báo in được phát hành định kỳ đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII ở
châu Âu, trước hết là dành cho các nhà buôn. Nội dung chủ yếu của nó đăng tải
những tin tức về cách buôn bán, giá cả, nguồn hàng, sự dao động về giá hàng, tình
hình thị trường trong nước và thế giới. Sự phát triển của kỹ thuật in ấn đã cho phép
các nhà xuất bản đáp ứng được nhu cậu thông tin kinh tế của giai cấp tư sản.
Đến thế kỷ XIX, báo chí thực sự trở thành vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị
– tư tưởng gay gắt. Các giai cấp thống trị đã sử dụng báo chí như Big cap một công
cụ, vũ khí sắc bén để gây ảnh hưởng và phân chia quyền lợi giai cấp. Báo chí trở
thành lĩnh vực quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,... Năm
1836, tờ báo chính trị – văn học La Presse của Pháp ra đời, mở đầu cho kỷ nguyên
báo ngày.
Tiếp đến là sự xuất hiện báo “Sông Ranh mới” (1848––1849) do C. Mác sáng
lập và Ph. Ăngghen là người cộng tác đắc lực đã khai sinh ra một nền báo chí kiểu
mới – Báo chí Cách mạng. Báo chí cách mạng đã tích cực đấu tranh cho lợi ích của
nhân dân lao động và sự tiến bộ của xã hội. Nền báo chí này có khuynh hướng tiến
bộ và cách mạng nên đã gây ảnh hưởng to lớn tới nhiều nước trên thế giới như: Nga,
Pháp, Italia, Hungary, Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc,...
Cùng với kỹ thuật ấn loát, vai trò của báo chí ngày càng tăng. Vào cuối thế kỷ
XIX, phim ảnh xuất hiện. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, radio và truyền hình ra
đời. Sự ra đời của các loại hình mới này đã tạo ra bước phát triển về chất, làm phong
phú và đa dạng hơn các loại hình báo chí, góp phần đáp ứng nhu cầu thông tin – giao
tiếp ngày càng cao của xã hội. Đến cuối nhũng năm 40 của thế kỷ XX, radio, truyền
hình và các phương tiện khác đã trở nên phổ biến và không thể thiếu được trong đời
sống hằng ngày của nhân dân.
Ở Việt Nam, báo chí chỉ xuất hiện từ khi thực dân Pháp chiếm được Nam Kỳ
và bắt đầu thiết lập chế độ thuộc địa ở nước ta vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Tờ báo
in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ “Gia Định báo”, số 1 ra ngày 15/4/1865. Tuy
nhiên xét về tính chất, tờ Gia Định báo là cơ quan thông tin chính thức của nhà cầm
quyền Pháp tại Việt Nam.
Đặc biệt, một sự kiện lớn trong nền báo chí cách mạng Việt Nam là sự ra đời
của tờ Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập, được in ở Quảng Châu (Trung
Quốc), phát hành ở nước ngoài và sau đó được đưa vào trong nước. Số 1 của tờ
Thanh niên ra ngày 21/6/1925 và ngày này về sau đã được chọn làm ngày Báo chí
Việt Nam. Tiếp đó là hàng loạt tờ báo khác ra đời góp phần vào việc tuyên truyền,
giáo dục và tổ chức các phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc.
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đặc biệt là đến Thời kỳ Đổi mới, báo
chí nước ta đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng, về nội dung
và hình thức, về quy mô và tính chất. Theo tài liệu của Bộ Thông tin và Truyền
thông, tính đến tháng 4/2011, cả nước có 18.000 nhà báo với 745 cơ quan báo chí,
trong đó có 153 tờ báo và 333 tạp chí với 850 ấn phẩm; 67 đài phát thanh, truyền
hình Trung ương và địa phương, 1 hãng thông tấn, 44 nhà xuất bản, 46 nhà cung cấp
thông tin trên mạng Internet; (ICP),... Tất cả những bộ phận đó tạo nên một hệ thống
truyền thông đại chúng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước phồn
vinh.
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
mạnh mẽ. Trong xu thế toàn cầu hoá truyền thông đại chúng, vai trò của báo chí
ngày càng được coi trọng và nâng cao. Để hiểu được vai trò và tác dụng của báo chí,
chúng ta phải tìm hiểu các điều kiện và yếu tố có tính quyết định cho sự ra đời và
phát triển của báo chí.

2.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG XÃ HỘI


2.2.1. Vị trí
Trong tiến trình phát triển lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một hiện tượng
xã hội. Báo chí ra đời do nhu cầu thông tin – giao tiếp, giải trí và nhận thức của con
người. Mặc dù ra đời chậm hơn so với những hình thái ý thức xã hội khác, nhưng
báo chí đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực xung kích bởi khả năng
phản ánh hiện thực của nó. Từ khi xuất hiện cho đến nay, báo chí luôn năng động
trong việc phản ánh hiện thực đa dạng, sinh động và luôn vận động phát triển. Báo
chí là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mọi người, mọi dân
tộc. Vì thế, báo chí luôn là một công cụ hoạt động quan trọng của con người và các
giai cấp trong cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ và văn minh của nhân loại. Theo các tài
liệu nghiệp vụ báo chí nước ngoài, chữ information (thông tin, thông báo, báo tin)
xuất phát từ một chữ trong triết học cổ Hy Lạp với nghĩa: “tạo ra một hình thái”
(form), dùng để chỉ những yếu tố có thể giúp cho sự hiểu biết của con người về thế
giới xung quanh đang tồn tại dưới một hình thái nhất định. Như vậy, cũng giống như
các hình thái ý thức xã hội khác, báo chí luôn lấy hiện thực khách quan làm đối
tượng phản ánh. Thông tin trong báo chí là một quá trình liên tục, xuyên suốt trong
mối quan hệ chặt chẽ giữa Cuộc sống — Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng.
Thông tin trong báo chí vừa có tính xã hội cao, vừa có tính tư tưởng và khuynh
hướng rõ rệt. Song, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, báo chí có những đặc
trưng riêng. Những đặc trưng ấy quy định tính chất, mức độ và chức năng phản ánh
hiện thực của báo chí. Đứng trước một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thông tin,
báo chí có những cách thức riêng của mình để phản ánh hiện thực nhằm mục đích
tác động tới nhiều tầng lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu
không giống nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động
thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã
hội nào có được.
Trên cơ sở những đặc trưng riêng của mình, báo chí đã tạo ra cách tiếp cận
đặc thù để phản ánh hiện thực (không giống với những loại hình khác). Công chúng
của báo chí bao gồm nhiều giai tầng trong xã hội nên không phải thông tin nào cũng
được số đông tiếp nhận dễ dàng. Hiện thực được tái hiện trên báo chí phải là một
hiện thực sôi động, tiêu biểu và luôn luôn đổi mới – những điều vừa xảy ra, đang
xảy ra và sẽ xảy ra. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hiện thực được phản ánh trên
báo chí có ý nghĩa và giá thông tin tức thời. Nhiều tác phẩm báo chí, do đề cập tới
những vấn đề thực sự tiêu biểu, thực sự điển hình của đời sống, lại được thể hiện
dưới ngòi bút của những nhà báo tài năng, có thể sẽ sống lâu bền. Nhiều tác phẩm
báo chí nổi tiếng của Hồ Chủ tịch cùng các nhà báo có tiếng khác trong lịch sử báo
chí Việt Nam như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lạm, Hải Triều, Trường
Chinh, Hồng Hà, Thép Mới, Xuân Thuỷ, Hoàng Tùng, Hữu Thọ, Vũ Bằng,... và
những nhà báo nước ngoài có tên tuổi như: John Reed, Wilfred Burchett, Boris
Polevoy, Ilya Ehrenburg,... vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay.
Ở một phương diện khác, với tính chất là những phương tiện truyền thông đại
chúng hoạt động trên quy mô toàn xã hội, báo chí đã tham gia vào việc tìm tòi, phát
hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, vai trò thực tiễn của
báo chí ngày càng được nâng cao. Các phương tiện truyền thông đại chúng trở thành
một yếu tố trong quá trình quản lý kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Chất lượng và
hiệu quả của báo chí góp phần đắc lực vào nhiều lĩnh vực khác nhau.
Mặt khác, báo chí cũng đảm bảo thông tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề,
sự kiện của đời sống xã hội và thế giới xung quanh với một phạm vi rộng lớn, tham
gia vào việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học,
thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ
quốc.
Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, báo chí cách mạng luôn luôn
gắn bó với những bước thăng trầm của lịch sử đất nước và là người hướng dẫn tin
cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ,
nhân dân đã chọn. Báo chí không chỉ là phương tiện chủ yếu để truyền bá chủ nghĩa
Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là công cụ đắc lực nhằm giáo dục ý
thức chính trị, hun đúc tinh thần yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực tự cường dân
tộc, phát huy sức mạnh toàn dân để tập trung giải quyết các nhiệm vụ cách mạng.
Báo chí nước ta đã thực sự trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc và các thế lực thù địch. Báo chí cũng là người châm ngòi và thổi bùng lên các
phong trào cách mạng có tính quần chúng rộng rãi như: “Tất cả cho tiền tuyến”,
“Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Ba xung kích”, “Hai giỏi”,.... rồi
đến phong trào “Thanh niên lập nghiệp”, “Xoá đói giảm nghèo”, “Kế hoạch hoá gia
đình”, “Cùng với nhà nông bàn cách làm giàu”..
Trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng và trước yêu cầu của công cuộc Đổi mới, sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, báo chí cần phải là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận
tư tưởng – văn hoá nhằm nâng cao năng lực khoa học công nghệ, tri thức mọi mặt
cho toàn dân. Mặt khác, báo chí phải làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực của công cuộc
xây dựng chỉ nghĩa xã hội. Báo chí góp phần làm cho thế giới quan Mác—Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; động
viên toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn thử thách, năng động sáng tạo, giữ
vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc Đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực đi liền với việc phê phán các
hành vi tiêu cực; bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp của
con người Việt Nam, thực hiện vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của
các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đánh giá
cao vai trò và tác dụng to lớn của báo chí. Chỉ thị số 22–CT/TW ngày 17/10/1997
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về “Tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản” đã đánh giá hoạt động
báo chí nước ta có nhiều biến chuyển và tiến bộ tích cực nhiều mặt: “Báo chí nói
chung hoạt động có định hướng thông tin kịp thời, phong phú và đa dạng hơn; thực
hiện tốt hơn vai trò là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và diễn đàn tin cậy của nhân
dân, đóng góp tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp mới, hoàn thành những nhiệm
vụ chính trị quan trọng về đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân
trí, bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá thế giới, góp phần tăng cường ổn định chính trị, tạo bầu không khí
dân chủ, cởi mở trong xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với bạn bè thế
giới.”.
Rõ ràng vai trò của báo chí trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước ngày càng được nâng lên. Vị trí của báo chí được quy định
không chỉ bởi quy mô, phạm vi, tính chất mà còn bởi khuynh hướng nội dung của
nó. Hơn thế nữa, ngày nay, khi mà thông tin được quốc tế hoá, toàn cầu hoá, thì các
phương tiện thông tin đại chúng đã và đang phá vỡ những biên giới quốc gia 1 thống,
thu hẹp dần khoảng không gian địa lý trên quy mô toàn cầu. Thực tế đó đặt ra nhiệm
vụ càng quan trọng và nặng nề hơn cho báo chí. Một mặt, các phương tiện truyền
thông đại chúng cần khai thác, xử lý tốt lượng thông tin quốc tế nhằm đáp ứng nhu
cầu thông tin đa dạng, phong phú của xã hội. Mặt khác, cần đảm bảo cơ cấu nội dung
và chất lượng thông tin để hình thành dư luận xã hội lành mạnh, nâng cao nhận thức,
xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, hiện đại, khoa học. Đó cũng chính là
thước đo hiệu quả quan trọng nhất của hoạt động báo chí.

2.2.2. Vai trò của báo chí


Trong đời sống chính trị – xã hội, báo chí giữ vai trò hết sức quan trọng. Bất
kỳ một lực lượng cầm quyền nào của các quốc gia trên thế giới đều sử dụng báo chí
như một công cụ để tác động vào tư tưởng, tình cảm của công chúng, nhằm tạo ra ở
họ những nhận thức mới, những định hướng có giá trị cho cuộc sống.
Vì thế, trong quá trình đấu tranh cách mạng, cả phía cách mạng lẫn phản cách
mạng đều nhận thấy tác dụng lợi hại của báo chí. Điều đó đã được chứng minh bằng
toàn bộ thực tiễn đấu tranh cách mạng và những biến cố quốc tế diễn ra trong suốt
những thế kỷ qua, kể cả những bài học đắt giá của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa
ở một số nước Đông Âu, Liên Xô trước đây.
Ở Việt Nam, báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức,
đoàn thể xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Vai trò của báo chí trong đời sống chính
trị – xã hội thể hiện rõ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ của nhân dân ta để giải phóng đất nước. Ngay từ khi chưa có Đảng lãnh đạo, đã
có những tờ báo do nhiều lực lượng xã hội lập ra hoạt động rất tích cực và đã gây
được sự chú ý của dư luận xã hội về các vấn đề chính trị. Báo chí đã trở thành vũ khí
sắc bén trên mặt trận tư tưởng – văn hoá. Báo chí cũng tạo những điều kiện cần thiết
để cho mọi người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Vì vậy,
ý nghĩa của thông tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thông tin có tính định
hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư
luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo
những chiều hướng có chủ định.

Hình 2.1. Sơ đồ về vai trò của báo chí trong tạo lập dư luận và định hướng dư
luận
Báo chí không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà còn là người tuyên
truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể; điều này rất phù hợp với thời đại
bùng nổ thông tin hiện nay.
Báo chí đóng vai trò quan trọng trong xã hội bởi lẽ:
– Là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận.
– Là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức, thông tin về tình hình thời sự trong
nước và quốc tế cho nhân dân.
— Là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội.
− Là một định chế với những quy tắc và chuẩn mực riêng của mình và có
những quan hệ mật thiết với các định chế khác trong xã hội.
– Trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống hằng ngày
của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thông tin, kiến thức và giải trí cho người
dân.
Vai trò của báo chí trong đời sống xã hội được biểu hiện cụ thể trên nhiều lĩnh
vực như:
a) Về chính trị
Báo chí là công cụ, vũ khí quan trọng trên mặt trận tư tưởng – văn hoá. Vai
trò của báo chí trong lĩnh vực chính trị là hướng dẫn nhận thức và hành động cho
công chúng. Ở Việt Nam, báo chí cách mạng vừa là phương tiện tuyên truyền, phổ
biến chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước, vừa là công cụ để phát hiện, khẳng định, nhân rộng những cái hay, cái
đẹp, điển hình và những nhân tố mới, đồng thời phê phán cái xấu, cái tiêu cực, những
hành vi sai trái, lệch lạc trong xã hội. Báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận
tư tưởng – văn hoá của Đảng; là công cụ tham gia quản lý xã hội; công cụ giám sát
cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Do vậy, báo chí càng có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội.
Lịch sử báo chí chỉ ra rằng, bất cứ chế độ nào trên thế giới cũng sử dụng và
khai thác triệt để các phương tiện truyền thông đại chúng (PTTTĐC) nhằm phục vụ,
củng cố và duy trì chế độ đó. Người ta cho rằng, một chính khách, một đảng phái
trong một tổ chức chính trị xã hội nào nếu nắm được trong tay các PTTTĐC thì có
thể tạo ra và hướng dẫn được dư luận, cuối cùng nắm được quần chúng và sử dụng
họ vào mục đích đã định.
Trong xã hội hiện đại, người nào nắm được các phương thức, PTTTĐC có thể
“điều khiển” con người theo ý muốn, có nghĩa là dùng báo chí để hằng ngày phát đi
những thông điệp chính trị nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng, thuyết phục quần chúng
làm theo ý muốn của mình. Những thông điệp này được lặp đi lặp lại nhiều lần dần
dần sẽ làm hình thành trong đầu người nhận thông điệp những ý thức mới, những tư
tưởng mới. Nói cách khác, để có ý thức giác ngộ chính trị trong quần chúng là nhờ
các PTTTĐC tác động đến họ qua những thông tin có chủ đích. Vì thế, ở xã hội tư
bản, nhiều trường hợp nhân dân bị nhầm lẫn trong cách lựa chọn ứng cử viên các
cuộc bầu cử là do chính những thông điệp từ các PTTTĐC. Các chính khách đã sử
dụng các PTTTĐC với sự giúp đỡ của các chuyên gia giỏi về tâm lý và kỹ thuật
truyền thông để đánh lừa dư luận, nhằm gạt bỏ nhau, giành phần thắng về mình. Lịch
sử một số nước phương Tây đã chứng minh điều đó.
Ở xã hội Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin sắc bén của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức xã hội để giáo dục, thuyết phục nhân dân xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn vậy, báo chí phải bám sát chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, biến đường lối đó thành “ý Đảng, lòng dân”, phục vụ nhu
cầu, lợi ích của nhân dân và sự bộ xã hội. tiến
Thông qua các sản phẩm báo chí để truyền đạt, hướng dẫn quần chúng trong
nước và quốc tế nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh mọi chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ban hành. Đồng thời, báo chí tham gia
chống lại các luận điệu phản tuyên truyền, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Hoạt động của các PTTTĐC trong lĩnh vực chính trị rất phong phú, đa
dạng. Muốn vậy, người làm báo luôn phải nắm vững nghệ thuật hoạt động chính trị
– xã hội, coi trọng nâng cao “tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông
tin”, cũng như các phương pháp, nguyên tắc, chức năng của báo chí để hoạt động có
hiệu quả.
b) Trong lĩnh vực kinh tế
Trong quá trình phát triển, loài người đã trải qua nhiều nấc thang lịch sử. Cơ
sở để chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của tiến bộ xã hội là sản xuất của
cải vật chất nhằm phục vụ đời sống con người.
Sản xuất của cải vật chất dù ở trình độ thô sơ hay hiện đại cũng đều có thuộc
tính chung: đó là quá trình tác động lẫn nhau giữa con người với tự nhiên, trong đó
con người biến đổi vật thể tự nhiên và làm cho chúng thích ứng với việc thoả mãn
nhu cầu tăng lên của con người.
Sản phẩm làm ra nhiều do sản xuất gia tăng, thậm chí còn dư thừa nhưng chưa
hẳn đã thoả mãn nhu cầu tiêu thụ đa dạng của xã hội. Từ đó tất yếu dẫn đến sự xuất
hiện nhu cầu trao đổi: bán đi những mặt hàng mà mình sản xuất được, đồng thời mua
những mặt hàng khác mà mình không có. Địa bàn trao đổi hàng hoá ngày càng được
mở rộng. Giới thương gia xuất hiện và nhu cầu thông tin thương mại phát triển cùng
với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế hàng hoá.
Vào cuối thế kỷ XV, ở thành phố Venice (Italia) xuất hiện những người làm
nghề kinh doanh tin tức. Họ phải chép tay những tin tức kinh tế thương mại (vì lúc
đó chưa có máy in) rồi bán cho những người có nhu cầu. Điều đó nói lên rằng, sự ra
đời của báo chí trước hết là do nhu cầu trao đổi thông tin kinh tế.
Ngày nay, ở những nước công nghiệp phát triển, với máy móc hiện đại, người
ta có thể làm ra bất cứ mặt hàng nào đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của xã hội. Trong bối
cảnh đó, điều kiện cần thiết cho một nền kinh tế đứng vững và tiếp tục phát triển
chính là do khả năng tiêu thụ sản phẩm làm ra của các công ty, xí nghiệp. Về vấn đề
này, các phóng sự đóng vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực quảng cáo các mặt hàng
đến người tiêu dùng.
Nhiều trường hợp, quảng cáo đã trở thành “công cụ cưỡng bức” người tiêu
dùng bằng thông tin. Việc đó không thể coi là tính ưu việt của phóng sự, nhưng
chúng vẫn còn mang tính phổ biến, nhất là các nước đang phát triển. Vì thế xảy ra
tình trạng người mua hàng không phải vì nhu cầu mà do bị ảnh hưởng của quảng cáo
gây nên. Có nghĩa là người mua hàng không còn được tự do lựa chọn món hàng mà
mình thích mà chọn theo ý muốn của nhà quảng cáo.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin chính xác, kịp thời là sức mạnh tạo nên
thắng lợi trong cạnh tranh. Các PTTTĐC có vai trò to lớn trong việc cung cấp những
thông tin có giá trị đó. Các lĩnh vực thông tin kinh tế cần là: thông tin thị trường
hàng hoá (bao gồm thông tin giá cả, sức tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến đổi thị
hiếu tiêu dùng), thông tin thị trường tài chính, thị trường lao động, vật tư, thiết bị,
đặc biệt là thị trường công nghệ,...
Báo chí không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần tuý mà còn có
thể hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và kinh doanh. Với
việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại trong quản lý, kinh doanh và
áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, báo chí góp phần tạo nên
hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội.
c) Trong lĩnh vực văn hoá – xã hội
Văn hoá là một lĩnh vực quan trọng, không thể thiếu được trong đời sống tinh
thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trên thế giới, dù ở hình thái kinh tế – xã hội
nào, mỗi dân tộc đều có nền văn hoá riêng trong quá trình hình thành và phát triển.
Vì lẽ đó, mỗi dân tộc đều có dấu ấn văn hoá riêng của mình. Nhiều bản sắc văn hoá
riêng của các dân tộc hợp thành, tạo nên sự đa dạng phong phú của văn hoá nhân
loại. Nếu nền văn hoá riêng bị triệt tiêu hoặc mất dần thì nền văn hoá chung của nhân
loại dần bị khô cứng, đơn điệu. Với vai trò và ý nghĩa quan trọng như vậy, văn hoá
đã trở thành đối tượng phản ánh và được quan tâm trong việc sản xuất các chương
trình, ấn phẩm của các PTTTĐC. Công chúng có thể tiếp nhận các tri thức văn hoá
từ nhiều nguồn khác nhau như sách vở, trường học, nhà hát, lễ hội,... Nhưng nguồn
trực tiếp, thường xuyên vẫn là các phương tiện truyền thông đại chúng. Thông qua
các chương trình phát thanh, truyền hình, qua các số báo, tạp chí, băng hình,... công
chúng có thể tiếp thu và làm giàu thêm vốn trị thức văn hoá cho mình.
Vai trò của báo chí trong lĩnh vực văn hoá thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hoá dân tộc, nhất là ngôn
ngữ (tiếng nói, chữ viết); báo chí là nơi giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật
ngữ mới cả trong cách viết và cách thể hiện, trong việc chuẩn a ta ngôn ngữ nói và
viết.
Thứ hai, báo chí đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, âm nhạc
và các lĩnh vực khác, từ các tác phẩm kinh điển đến các tác phẩm vừa mới sáng tác.
Thứ ba, qua các PTTTĐC, công chúng có thể tiếp nhận nhiều tri thức văn hoá
của các dân tộc trên thế giới như quan niệm, truyền thống, lối sống, cách ăn mặc, ở,
đi lại, sinh hoạt từ nhiều phong cách, bản sắc khác nhau.
Thứ tư, báo chí góp phần nâng cao văn hoá, giúp con người giải trí, làm cho
mọi người ngày càng hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn, chia sẻ tâm tư, tình cảm,
đồng thời cùng học tập, tiếp thu nền văn hoá đa dạng, phong phú của các dân tộc
khác để làm giàu cho văn hoá dân tộc mình.
Do vậy, vấn đề bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hoá (vật thể, phi vật
thể) của dân tộc là một trong những nhiệm vụ chủ yếu và chiến lược của mỗi nước.
Vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn trong nền kinh tế thị trường, trong xu hướng
hội nhập toàn cầu, giao lưu văn hoá phát triển với đầy đủ những mặt tích cực và tiêu
cực của nó. Đó là lối sống thực dụng có nguy cơ lấn át các giá trị tinh thần, coi trọng
đồng tiền, coi nhẹ nhân phẩm, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ tục với sự du nhập
ồ ạt của văn hoá ngoại lai, kệch cỡm, coi nhẹ văn hoá truyền thống. Do vậy, báo chí
có nhiệm vụ và vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục và
giải trí đối với nhân dân; một mặt tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại; mặt
khác giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Thông
qua các sản phẩm của mình, các PTTTĐC có vai trò truyền bá những tiêu chuẩn và
các giá trị tinh thần được xã hội công nhận; xây dựng ý thức công dân, chống lại
những quan niệm và hành động lệch lạc với chuẩn mực, định hướng công chúng đến
với CHÂN – THIỆN – MỸ.
Trong giai đoạn mới, để thực hiện tốt vai trò của mình, các PTTTĐC ở nước
ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các
tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại;
xây dựng nền đạo đức mới trên nền tảng đạo lý dân tộc; vun đắp, hoàn thiện hình
mẫu con người Việt Nam hiện đại, kế thừa nét đẹp truyền thống của cha ông, nâng
tầm trí tuệ, tri thức khoa học, công nghệ của mỗi công dân. Muốn vậy, báo chí và
người làm báo cần nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công
dân. Đồng thời, nhanh chóng đổi mới nghiệp vụ để thông tin không chỉ đúng mà còn
hay, sinh động, hấp dẫn cho công chúng.

2.3. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ YẾU TỐ ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT


TRIỂN BÁO CHÍ
Báo chí ra đời và phát triển dưới sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố, điều
kiện như nhu cầu thông tin giao tiếp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chế độ chính trị – xã hội của mỗi
nước và mối quan hệ giao lưu quốc tế. Tất cả gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành tiền
đề cho sự nảy sinh, sự vận động của các bộ phận trong hệ thống các phương tiện
thông tin đại chúng, đồng thời, quy định tính chất, quy mô, vai trò của báo chí đối
với mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi lĩnh vực của đời sống chính trị – xã hội.
2.3.1. Nhu cầu thông tin giao tiếp
Khi xã hội loài người hình thành thì nhu cầu thông tin – giao tiếp cũng xuất
hiện. Qua giao tiếp xã hội, những mối quan hệ giữa người với người được tạo lập và
ngày càng gắn bó với nhau hơn. Xã hội càng phát triển, phạm vi hoạt động của con
người ngày càng tăng. Theo đó, các hình thức giao tiếp cũng tăng lên và đa dạng
hơn. Từ những truyền thống xa xưa như những câu vè lưu truyền trong dân gian,
tiếng mõ làng (Mẹ Đốp – Lý trưởng), những cuộc “giảng thập điều” trong sinh hoạt
đình làng,... đến những tờ huấn thị dán ở đình làng tựa như tờ Acta diurma của người
La Mã thời xưa cùng các bước tiến trong các lĩnh vực khác đã trở thành điều kiện
cho quá trình thông tin – giao tiếp được mở rộng.
Giao tiếp đã làm cho con người tự hiểu mình và hiểu xã hội. Quá trình giao
tiếp đã giúp con người tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong lao động sản xuất, học
tập để truyền lại cho các thế hệ sau. Mặt khác, một khi thông tin được lựa chọn một
cách có ý thức và có mục đích rõ ràng thì sẽ có sức thuyết phục, có thể làm thay đổi
cách nghĩ, ý kiến của từng người và do đó làm thay đổi cả dư luận xã hội, hình thành
với những quan điểm và hành động của con người phù hợp với nhu cầu xã hội. Mối
quan hệ giữa thông minh tài khoa học lý thu thường xuyên thông tin, tin tức về các
sự kiện, hiện tượng và các quá trình 1 khác nhau của thực tế nhằm quản lý các đối
tượng của thế giới xung quanh, -1 Trên M quản lý chính bản thân con người, quản
lý những tập thể của con người. Đó là điều kiện không thể thiếu được để xã hội vận
động và phát triển, để mỗi người tồn tại và phát triển.
Quá trình trao đổi thông tin sẽ giúp con người tự tìm ra phương thức, con
đường, phương tiện hợp lý hơn để tăng cường khả năng thông tin, cách phổ biến
thông tin sao cho nhanh hơn, rộng hơn và hiệu quả hơn. Chính điều đó đã thúc đẩy
quá trình ra đời và phát triển của báo chí nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng
cao của con người.
2.3.2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đóng vai trò hết sức quan
trọng.
Trước hết là kỹ thuật in. Với việc phát minh ra máy in typo vào năm 1450,
Gutenberg – nhà phát minh người Đức, đã được coi là cha đẻ của ngành công nghiệp
in ấn. Nhưng trên thực tế, “kỹ thuật in ấn đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thế kỷ III
TCN”.
Ở Việt Nam, đến thế kỷ XV, nghề in mới phát triển do công của tiến sĩ Lương
Như Hộc (1420 – 1501), vốn học được kỹ thuật in sách sau nhiều lần đi sứ sang
Trung Quốc rồi về dạy lại cho người dân Liễu Tràng, huyện Gia Lộc – Hải Dương
(nay thuộc hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Kỹ thuật in lúc đó là khắc chữ lên tấm
gỗ, sau đó quét mực để in lên giấy. Liễu Tràng về sau trở thành nơi có những thợ in
rất khéo tay và gần như là nơi in sách vở duy nhất ở nước ta thời bấy giờ. Lương
Như Hộc được coi là ông tổ của nghề in ở nước ta.
Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật in ấn ra đời sau Trung Quốc nhưng những cải
tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho ngành này nhanh chóng
phát triển. Chính những bước tiến về khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện cho sự ra
đời của những tờ nhật báo có số lượng phát hành ngày càng lớn.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện và động lực
cần thiết cho việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của các PTTTĐC. Năm 1901, nhà
bác học Nga A. Popov đã phát minh ra ăng ten. Tiếp đó, phát thanh ra đời. Năm
1933, vô tuyến truyền hình điện tử xuất hiện nhờ công của Vladimir Kosma
Zworykin (1809–1889), người Mỹ gốc Nga, chế tạo ra ống ghi hình (Iconoscope),
tiền thân của các camera video hiện nay. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, những
phát minh về điện tử, tin học, laze, vệ tinh nhân tạo, Internet đã đem lại cho báo chí
những bước tiến mới trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin – giao tiếp ngày càng lớn
của xã hội.
2.3.3. Trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
Như chúng ta đã biết, sự phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc đều tự đặt ra nhu cầu, đòi hỏi về thông tin khác nhau và nhu cầu
này lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sự phát triển của nền kinh tế, văn hoá, xã hội
của mỗi nước.
Những nguyên nhân kinh tế – xã hội có ảnh hưởng quyết định đến sự xuất
hiện của báo chí. Thế kỷ XVI – XVII, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh, việc buôn
bán giữa các nước tăng lên, điều đó làm nảy sinh nhu cầu thông tin về thương mại
và những tin tức khác về tình hình trong mỗi nước và tin tức thế giới.
Những tờ báo đầu tiên trước hết dành cho các nhà buôn nhằm cung cấp tin tức
về thị trường buôn bán, giá cả, nguồn hàng, sự dao động về giá hàng hoá trong nước
và thế giới,... Các nhà xuất bản đã đáp ứng được những mỗi quan tâm của giai cấp
tư sản đang lên trong việc cung cấp thông tin kinh tế.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, nhu
cầu thông tin càng lớn. Công chúng báo chí không chỉ đòi hỏi thông tin về kinh tế
mà còn về các lĩnh vực chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, an ninh quốc
phòng, môi trường, đời sống,...
Các loại hình báo chí như phát thanh, truyền hình, Internet xuất hiện nhằm
đảm bảo tốc độ truyền phát, số lượng nội dung thông tin. Nếu kinh tế kém phát triển
sẽ khó có điều kiện mua sắm thiết bị để xây dựng các đài, phương tiện máy móc in
ấn; và công chúng báo chí bị thu hẹp do không có khả năng về kinh tế, tài chính để
tiêu thụ những sản phẩm do báo chí phát ra.
Bên cạnh trình độ của kinh tế, văn hoá, xã hội, các vấn đề như truyền thống
dân tộc, luân lý, đạo đức, luật pháp,... cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các khía cạnh
hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, đến cách sử dụng ngôn ngữ, các thể loại báo
chí, đến cách thức giao tiếp của các PTTTĐC với công chúng và các hình thức phát
hành báo chí trong xã hội cũng như ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành và phát
triển của báo chí.
2.3.4. Sự tác động của chế độ chính trị – xã hội
Đây là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết và chi phối lẫn nhau. Vì sự phát
triển thông tin báo chí đều phụ thuộc vào thái độ, quan điểm của chế độ chính trị xã
hội. Do vậy, các thế lực chính trị xã hội khi lên nắm quyền đều sử dụng báo chí như
một công cụ, vũ khí lợi hại để bảo vệ lợi ích của mình, coi báo chí như một phương
tiện hữu ích để quản lý xã hội. Sự khác nhau ở chỗ đó là lợi ích như thế nào và mục
đích quản lý xã hội theo định hướng nào. Nếu thể chế chính trị mang tư tưởng tiến
bộ, cách mạng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự tiến bộ chung của xã hội thì sẽ xây dựng
nền báo chí cách mạng tiến bộ; còn một khi thiết chế xã hội đó di ngược lại quyền
lợi của dân tộc, phản động, bảo thủ, trì trệ thì lại xây dựng cho mình một nền báo
chí chỉ nhằm bảo vệ cho lợi ích một số người, đi ngược lại trào lưu dân chủ và tiến
bộ xã hội. Lịch sử nhân loại từ xưa cho đến nay đã chứng minh điều đó rất rõ ràng.
Chế độ hà khắc của chính quyền Taliban ở Afghanistan đối với báo chí là một ví dụ.
Từ đó có thể nói rằng, xã hội nào thì có nền báo chí đó. Báo chí là tấm gương phản
ánh thể chế chính trị – xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Ở Việt Nam, tuy báo chí ra đời muộn nhưng được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, chúng ta đã xây dựng được một nền báo chí cách mạng tiên tiến. Với mục
đích và sự nghiệp cao quý vì con người, báo chí cách mạng Việt Nam đấu tranh cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hoà bình và tiến bộ trên thế giới.

2.3.5. Mối quan hệ giao lưu quốc tế


Trong hoạt động báo chí hiện đại, không thể thiếu được quan hệ giao lưu quốc
tế. Những thông tin về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, thể thao, an
ninh quốc phòng, môi trường và nhiều vấn đề khác ngày càng được đông đảo người
dân quan tâm. Những thông tin do báo chí cung cấp giúp công chúng tự điều chỉnh
hành vi, xác định thái độ ứng xử, phương pháp hành động nếu thông tin đó phù hợp
với lĩnh vực mà họ đang quan tâm. Mặt khác, thông tin báo chí còn giúp công chúng
nâng cao nhận thức, góp phần tích cực vào việc hình thành đời sống tinh thần lành
mạnh trong xã hội.
Mối quan hệ giao lưu quốc tế có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời và phát triển
thông tin đại chúng ở các quốc gia. Sự ảnh hưởng đó được biểu hiện qua việc trao
đổi các phương tiện kỹ thuật làm báo như máy ảnh, camera, máy in và các thiết bị
cần thiết cho hoạt động báo chí – xuất bản. Những kinh nghiệm tổ chức và vận hành
các cơ quan truyền thông đại chúng cũng được phổ biến rộng rãi. Các khuynh hướng
tư tưởng trong báo chí cũng được lan rộng khắp thế giới. Việc trao đổi kinh nghiệm
làm báo, hoạt động phóng viên cũng được diễn ra thường xuyên trong thời đại bùng
nổ thông tin và toàn cầu hoá truyền thông đại chúng.
Nó tạo cơ hội cho báo chí nước nhà sớm tiếp cận với nền báo chí hiện đại
nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin – giao tiếp ngày càng tăng của nhân dân.
Tóm lại, trong hoạt động báo chí hiện đại, quan hệ giao lưu quốc tế ngày càng
đóng vai trò quan trọng, là cầu nối giữa các quốc gia, dân tộc, làm tăng hiệu quả
truyền thông đại chúng.

2.4. CÔNG CHÚNG BÁO CHÍ


2.4.1. Khái niệm
Công chúng báo chí (Citizen journalism) là khái niệm rộng, được hiểu theo
nhiều cách. Giới nghiên cứu truyền thông thường dùng hai thuật ngữ sau đây khi đề
cập vấn đề công chúng truyền thông:
The reading public: Giới bạn đọc của báo in, tạp chí,
Audiences: Khán – thính giả, độc giả nói chung.
sách,...
D. McQuail (1983, 1987, 1994, 2005) là người nghiên cứu sâu những khái
niệm cơ bản của truyền thông đại chúng: mass (đại chúng), the mass communication
process (các quá trình truyền thông đại chúng), mass audience (khán – thính giả, độc
giả đại chúng), mass culture and popular culture (văn hoá đại chúng và văn hoá phổ
thông), four models of communication (4 mô hình truyền thông),... Với đặc điểm
chính là: số lượng thành viên lớn, phân tán rộng khắp, nặc danh, không tương tác
lẫn nhau, không đồng nhất, không có tổ chức (hoặc hành động tự phát), đây chính là
những nội hàm chủ yếu của khái niệm công chúng truyền thông được ông sử dụng
trong quá trình nghiên cứu.
E.P. Prokhorop giải thích: “Công chúng, tiếng Latinh — auditorium; audire
có nghĩa là “nghe”, auditor là “người nghe”, đó là cộng đồng người, những người
mà phương tiện thông tin đại chúng hướng tới và là những ai cảm thụ những thông
tin được hướng tới họ... Người ta thường gọi công chúng khán — thính giả là những
người tiếp thu (tiếng Latinh recipienttis có nghĩa là “tiếp nhận”, receptio là “sự tiếp
nhận”).
Ông còn phân chia công chúng thành nhiều loại: (1) Công chúng cử toạ − là
“bộ phận” báo chí tích cực; độc lập hình thành thái độ của mình cùng với phương
tiện thông tin đại chúng với tư cách là một hệ thống hoạt động.
(2) Công chúng “đầu tiên” – tức là tầng lớp công chúng trên thực tế nhận
được thông tin do báo chí, đài phát thanh, truyền hình cung cấp. (3) Công chúng
“đầu tiên” “chuyển tải” thông tin ấy dưới dạng đã cải biến cho những ai không được
tiếp xúc trực tiếp với nguồn tin, hình thành tầng lớp công chúng cử tọa “thứ cấp”.
(4) Công chúng – cử tọa thực tế; (5) Những người chưa gia nhập vào cử tọa thực tế
có thể trở thành tầng lớp công chúng tiềm tàng.
Những tầng lớp và các nhóm xã hội nào được tờ báo hoặc chương trình phát
thanh đặc biệt hướng tới dễ biến thành độc giả, khán thính giả của mình. Sau khi đã
đề ra những phương hướng hoạt động và chính sách thông tin để thực hiện phương
hướng ấy, thì những nhóm đó tạo thành tầng lớp công chúng dự tính. Công chúng
thực tế chi là một phần trong nhóm công chúng dự tính. Tầng lớp công chúng tiềm
tàng luôn luôn lớn nhất. Như vậy, công chúng của báo chí luôn luôn phát triển.
Từ cách sử dụng thuật ngữ audience trong những nghiên cứu của D. McQuail
và nhiều tác giả khác có liên quan, có thể thấy audience là khái niệm để chỉ công
chúng truyền thông mà nội hàm của nó bao gồm người xem, người nghe, người đọc
được các phương tiện thông tin đại chúng trực tiếp hoặc gián tiếp hướng tới để tác
động.
Ở Việt Nam, mới có một số ít nghiên cứu đề cập đến khái niệm công chúng
truyền thông, công chúng báo chí.
Mai Quỳnh Nam (1996, 2001), khi bàn về truyền thông đại chúng và dư luận
xã hội đã gián tiếp chỉ ra nội hàm của khái niệm công chúng. Ông dùng “nhóm công
chúng” như là đối tượng “lan truyền thông tin” của báo chí, hoặc định nghĩa trực
tiếp “công chúng: người được cung cấp thông tin (người nhận)”, “công chúng báo
chí là một tập hợp xã hội rộng lớn, thậm chí họ không có mối liên hệ nào...”
Theo Trần Hữu Quang (1998, 2006), khái niệm công chúng có những đặc
trưng: “tính chất quảng đại (đông đảo), tính chất không đồng nhất (bao gồm rất nhiều
giới và tầng lớp khác nhau), và tính chất nặc danh (một mặt, các nhà truyền thông
không thể biết đích xác công chúng của mình gồm những ai; mặt khác, khối công
chúng đó cũng không ai biết ai). Ông cũng cho rằng, “Không nên quan niệm “công
chúng” là một đối tượng nghiên cứu đồng nhất hay đồng dạng... mà cũng không thể
coi đó như một tập hợp những cá nhân đơn lẻ và rời rạc nhau. Công chúng là một
tập hợp xã hội được cấu thành một cách phức tạp và mỗi người đều đang sống trong
một mạng lưới xã hội và những mối quan hệ xã hội nhất định”.
Nguyễn Văn Dũng (2000, 2002, 2006) có những cách tiếp cận khác nhau
nhưng đều chung một bản chất. Khi xem xét báo chí theo quan điểm hệ thống, tác
giả xem công chúng là một bộ phận của hệ thống: “Công chúng là quần thể cư dân
mà cơ quan báo chí hướng vào để tác động (và trực tiếp hay gián tiếp chịu sự tác
động của báo chí) nhằm lôi kéo, thu phục họ vào phạm vi ảnh hưởng của mình”.
Hoặc: “công chúng báo chí nói chung có thể được hiểu là những người tiếp nhận và
được các sản phẩm báo chí tác động hoặc hướng vào để tác động”, là “một nhóm
lớn trong xã hội, nhưng thường ngày người ta có thể dùng để chỉ một người hay một
nhóm nhỏ nào đó”; “có công chúng tiềm năng và công chúng thực tế, công chúng
trực tiếp và công chúng gián tiếp”. Khi xem xét báo chí trong chu trình truyền thông,
nghiên cứu công chúng được cho là một khâu công việc cơ bản bởi vai trò đặc biệt
quan trọng của nó: “Công chúng không chỉ là đối tượng tác động, đối tượng chi phối,
điều chỉnh mà còn là lực lượng xã hội quyết định vai trò, vị thế xã hội của sản phẩm
báo chí – truyền thông. Sức mạnh của tờ báo, của sản phẩm truyền thông, trước hết
thể hiện ở sức mạnh của công chúng, của dư luận xã hội mà nó tạo ra”.
Nguyễn Đình Lương (2003) khi đề cập đến vấn đề Thính giả – thành phần
quyết định hiệu quả truyền thông radio, đã đồng nhất khái niệm “đối tượng tiếp nhận
– Receiver” trong quá trình truyền thông với khái niệm “công chúng truyền thông
đông đảo bao gồm người nghe, người xem, người đọc của các phương tiện thông tin
đại chúng: báo nói, báo hình, báo in...”.
Trong Báo chí với trẻ em của Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2004), có
cách tiếp cận khái niệm khá rộng: “Công chúng không chỉ là đối tượng tác động, đối
tượng chi phối, điều chỉnh mà còn là lực lượng xã hội quyết định vai trò, vị thế xã
hội của cơ quan báo chí – truyền thông”.
Tuy nhiên, định nghĩa trên hầu như mới chỉ đề cập đến công chúng của loại
hình báo chí truyền thống là báo in, phát thanh, truyền hình. Có một kiểu công chúng
mới của loại hình báo chí mới xuất hiện là báo mạng điện tử lại ít được đề cập. Theo
chúng tôi, về cách nhận diện công chúng báo điện tử, có thể hiểu trong khái niệm
người sử dụng Internet (Internet users). Nếu những người đọc báo chí để giải trí, thư
giãn, xem quảng cáo,... vẫn được coi là công chúng báo in, thì những gamers, chat
users, netizens (cư dân mạng),... cũng có thể coi là công chúng báo điện tử.
Từ đây, có thể đi đến một cách hiểu chung về khái niệm công chúng báo chí:
Công chúng báo chỉ là những nhóm lớn dân cư, không đồng nhất trong xã
hội, được bảo chí hướng vào để tác động hoặc chịu ảnh hưởng, tác động của báo
chí và có tác động trở lại, giám sát, đánh giá, quyết định hiệu quả hoạt động của cơ
quan báo chí.

2.4.2. Nhu cầu tiếp nhận, tâm lý tiếp nhận thông tin báo chí
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, nhu cầu theo nghĩa chung nhất là: “Sự
cần đến hay thiếu một cái gì đó cần thiết để duy trì hoạt động đời sống của cơ thể,
của cá nhân, của một tập đoàn xã hội, của toàn bộ xã hội”. Từ điển tiếng Việt định
nghĩa nhu cầu là: “Điều đòi hỏi của đời sống, tự nhiên và n và xã hội”.
Theo Từ điển Tâm lý của Nguyễn Khắc Viện giải thích nhu cầu là: “Điều cần
thiết để đảm bảo tồn tại và phát triển... Nhu cầu do trình độ phát triển của xã hội mà
biến đổi”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin phân biệt hai loại nhu cầu:
“Những nhu cầu tự nhiên và những nhu cầu do xã hội tạo ra”. C. Mác thường xuyên
nhấn mạnh “tính chất xã hội chung của tất cả các dạng nhu cầu cá nhân và xã hội”.
Đi liền với khái niệm nhu cầu, có một luận điểm quan trọng cần chú ý, đó là
việc đo lường nhu cầu được thực hiện gián tiếp bằng cách đo lường hành vi (hoạt
động) được hướng vào việc thoả mãn một nhu cầu tương ứng.
Nhu cầu của con người có ba loại cơ bản: nhu cầu vật chất, nhu cầu xúc cảm,
nhu cầu xã hội.
Từ những cơ sở trên đây, khái niệm Nhu cầu tiếp nhận được hiểu là thuộc loại
nhu cầu xã hội. Tâm lý và nhu cầu tiếp nhận của công chúng có ảnh hưởng, tác động
ngược trở lại đối với hoạt động báo chí, với tư cách báo chí là phương tiện thông tin
đại chúng trong mối quan hệ Nhà bảo – Tác phẩm – Công chúng.
2.4.3. Sự tiếp nhận thông tin của công chúng
Mỗi thông điệp truyền thông được phát trên kênh truyền đến người tiếp nhận
là một quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng sang thông tin hiện thực. Vì thế, hiệu
quả của hoạt động báo chí cần được xem xét từ quan điểm thông tin, thể hiện mối
quan hệ giữa thông tin tiềm năng và thông tin hiện thực. Công chúng tiếp nhận thông
tin thông qua việc tiếp xúc với tác phẩm thường trải qua hai bước:
Bước một là lựa chọn trong tác phẩm những gì thoả mãn nhu cầu của họ.
Bước hai là việc xử lý thông tin hiện thực, do thông tin hiện thực vừa được
tiếp nhận đã làm thay đổi nhận thức và tính cách của quần chúng. Thông tin mới đã
tác động, làm hình thành các khái niệm, quan điểm, mục đích,... bằng những cách
khác nhau như hệ thống hoá, phát triển, làm sâu sắc hơn, điều chỉnh lại hay làm phá
vỡ, làm giảm giá trị đi... Sự thay đổi này không do số lượng mà do chất lượng thông
tin được tiếp nhận. Mức độ chất lượng của thông tin không phụ thuộc vào khối lượng
tiếp nhận mà phụ thuộc vào ý nghĩa, giá trị và ảnh hưởng của nó đối với công chúng.

2.4.4. Các điều kiện để đạt giá trị thông tin thực tiễn
Muốn cho thông tin trong một tác phẩm báo chí có giá trị thực tiễn, ảnh hưởng
tích cực đến công chúng, cần đảm bảo những điều kiện sau:
Một là, tính độc đáo của thông tin. Sự biểu hiện của nó rất đơn giản, đó là cái
mới của thông tin. Cái mới là cái mà công chúng chưa biết. Sự so sánh với những
cái đã biết sẽ giúp cho công chúng nhận thức cái mới tốt hơn để giải quyết những
vấn đề trước mắt, trả lời những câu hỏi mới.
Hai là, tính đại chúng, dễ hiểu để công chúng nhận thức nội dung tác phẩm
tương ứng với ý đồ của tác giả. Tính đại chúng đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí phải
được công chúng nhận thức một cách đầy đủ. Nhà báo phải biết cách tiếp xúc với
công chúng của tác phẩm, phải hiểu được trình độ của công chúng truyền thông.
Ba là, tính hợp thời (đúng lúc). Những tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc,
đáp ứng được nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong điểm đó thì tác
phẩm có giá trị hơn.
CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích hiện tượng trước báo chí và sự ra đời của báo chí. Cho ví dụ chứng minh
sự phát triển của báo chí qua các thời kỳ lịch sử.
2. Phân tích vị trí, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội. Lấy ví dụ để chứng
minh.
3. Phân tích vai trò của báo chí trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Cho ví dụ chứng minh.
4. Phân tích vai trò của báo chí trong việc tạo lập dư luận và định hướng dư luận xã
hội.
5. Phân tích các yếu tố và điều kiện để báo chí ra đời và phát triển. Cho ví dụ chứng
minh.
6. Công chúng báo chí là gì? Phân tích nhu cầu tiếp nhận, tâm lý tiếp nhận thông tin
báo chí của công chúng.
7. Phân tích các điều kiện để đạt giá trị thông tin thực tiễn trong hoạt động báo chí.
Chương 3

CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ

3.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ


Trong tiến trình phát triển lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một hiện tượng
xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người, có
ảnh hưởng rộng lớn tới đời sống xã hội. Khả năng và điều kiện thụ hưởng các sản
phẩm báo chí còn được coi là một chỉ số quan trọng để đánh giá tính chất văn minh
của xã hội hiện đại.
Lịch sử phát triển của báo chí chính là sự gia tăng các tiện ích của quá trình
thu thập, xử lý và tiếp nhận thông tin dành cho số đông trong xã hội. Tính chất công
khai, rộng rãi và nhanh chóng đã khiến cho báo chí trở thành một nguồn năng lượng
có sức mạnh độc tôn. Việc bày tỏ quan điểm, chính kiến trên báo chí nhằm định
hướng dư luận xã hội đã khiến cho báo chí vượt qua khả năng của một phương tiện
truyền tin thông thường. Bảo chí thực sự là vũ khí có sức công phá lớn, thực sự là
một thứ quyền lực: quyền lực của trí tuệ, nhận thức, của khả năng thức tỉnh lý trí, cổ
vũ dư luận. Sức mạnh của truyền thông đại chúng lan toả nhanh nhất, rộng khắp
trong thời đại thông tin tri thức, đó là sức mạnh trực tiếp thúc đẩy sự phát triển xã
hội, tạo nguồn lực và cơ hội cho mỗi cá nhân phát triển.
Thông tin báo chí có tính tư tưởng và khuynh hướng rõ rệt. Những đặc tính
ấy quy định tính chất, mức độ và chức năng phản ánh hiện thực của nó. Vì thế, báo
chí đã trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà
không một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Ở một phương diện khác, với tính chất là các phương tiện truyền thông đại
chúng hoạt động trên quy mô toàn xã hội, báo chí đã tham gia vào việc tìm tòi, phát
hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn.
Báo chí cũng đảm bảo thông tin cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện của
đời sống xã hội.
Hiện nay, báo chí có nhiệm vụ hết sức to lớn và nặng nề, nhất là trong bối
cảnh thế giới phức tạp cũng như xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới đất
nước đòi hỏi phải nâng cao năng lực khoa học công nghệ, tri thức mọi mặt cho công
chúng.
Vậy báo chí là gì? Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), báo chí là
“báo và tạp chí xuất bản định kỳ; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái quát)”.
Khái niệm báo chí có thể được định nghĩa trên ba phương diện: “báo hệ xã là
anh), báo chí là một trong những hệ thống xã hội” (định danh), “báo chí là một hoạt
động chính trị xã hội” (định tính), “báo chí là thứ vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh
chính trị, tác động vào xã hội để tạo ra sự can thiệp gián tiếp vào đời sống chính trị,
tham gia vào việc tập hợp lực lượng, giáo dục ý thức và góp phần tích cực vào việc
hình thành các khuynh hướng, các phong trào chính trị – xã hội” (mục đích). Xét
theo quan điểm hệ thống, khái niệm báo chí được hiểu như một thiết chế, một chỉnh
thể. Theo quan niệm truyền thống, báo chí được coi là phương tiện truyền thông đại
chúng truyền tải những thông tin thời sự có tính định kỳ đến với đông đảo công
chúng. Đặc điểm nổi bật của báo chí là tính công khai, trung thực, chính xác, và sự
lan toả nhanh chóng rộng khắp.
Báo chí phải gắn liền với thông tin thời sự; những vấn đề, sự kiện diễn ra hằng
ngày, hằng giờ cần có sự phản ánh, phân tích, mổ xẻ của báo chí nhằm rộng đường
dư luận; những thông tin kinh tế, cơ hội làm ăn, việc làm,... cần thiết cho nhiều
người.
Công chúng tìm đến các phương tiện báo chí trước hết là để tìm kiếm thông
tin, và trong những thông tin đó, thông tin thời sự đóng vai trò hết sức quan trọng.
Chính thông tin thời sự đã làm nên uy tín, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội,
nhất là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hiện nay.
Tính định kỳ của báo chí được xác định theo từng loại hình báo chí như báo
in, báo nói, báo hình và báo điện tử phát trên mạng Internet. Đặc biệt, trong thời đại
bùng nổ thông tin, việc ứng dụng sự tiến bộ của công nghệ thông tin đã làm cho báo
điện tử phá vỡ tính định kỳ và làm tăng khả tiếp cận thông tin một cách nhanh nhất,
cập nhật nhất. năng
Từ những điều phân tích trên, có thể đưa ra một cách hiểu (định nghĩa) về khái
niệm báo chí như sau:
Báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng truyền tải thông tin về các sự
kiện, sự việc, hiện tượng đang diễn ra trong hiện thực khách quan một cách nhanh
chóng, chính xác và trung thực đến đông đảo công chúng, nhằm tích cực hoả đời
sống thực tiễn.
Khái niệm báo chí ở đây được coi là sản phẩm của hoạt động báo chí để chỉ
sự tiếp nhận của công chúng và được xem là một hệ thống xã hội, một thiết chế, một
hoạt động chính trị – xã hội, để xem xét mối quan hệ của báo chí với các thiết chế
khác trong đời sống xã hội cũng như mối quan hệ tương tác hai chiều với công chúng.
Thuật ngữ thông tin báo chí, hiểu theo nghĩa rộng, là “toàn bộ các tin tức (bằng
ngôn từ và cả hình thức được ghi lại không bằng ngôn từ) mà báo chí đem lại cho
công chúng”, “bên cạnh thông tin thời sự, trong nguồn thông tin của báo chí còn có
thông tin cơ bản và bình luận, thông tin nghệ thuật và chính luận”. Nói cách khác,
đó là toàn bộ thông điệp mà tác phẩm báo chí mang đến cho người tiếp nhận; nội
dung thông điệp chính là ngữ nghĩa trong văn bản.
Cách phân loại thông tin báo chí được dựa trên cơ sở cách phân loại thực tế,
hiện hành và phổ biến của báo chí hiện nay. Đó là phân loại theo đề tài — tức là theo
lĩnh vực thực tiễn mà báo chí phản ánh (ví dụ: các đề tài về chính trị – xã hội, về
kinh tế, về văn hoá – giáo dục, về văn học – nghệ thuật, về thể thao,...).
Truyền thông đại chúng (mass communication) được hiểu là quá trình truyền
đạt thông tin một cách rộng rãi đến với mọi người trong xã hội. Quá trình này được
tiến hành thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình, Internet, tức là thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng (mass media). Nhìn chung, nói đến truyền thông
đại chúng là nói đến hoạt động truyền đạt thông tin tới các nhóm, các cộng đồng
người, với phạm vi tác động và quy mô tác động xã hội rộng lớn.
Liên quan đến vấn đề trên, cần phân định rõ sự khác biệt giữa hai thuật ngữ
thường bị dùng lẫn lộn đó là: truyền thông đại chúng (mass communication) và các
phương tiện truyền thông đại chúng (mass media). Các phương tiện truyền thông đại
chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, Internet chỉ là những công cụ kỹ thuật
hay những kênh mà phải nhờ vào đó người ta mới có thể tiến hành quá trình truyền
thông đại chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, lan truyền thông tin đến mọi
người. Còn thuật ngữ truyền thông đại chúng là thuật ngữ được dùng để chỉ một quá
trình xã hội: quá trình truyền tải thông tin đến với đông đảo công chúng. nhiều
Chẳng hạn, khi chúng ta mở tivi và xem biên tập viên đọc một bản tin trên đài
truyền hình, thì đó là một hoạt động nằm trong quá trình truyền thông đại chúng.
Thế nhưng, nếu chúng ta cũng mở màn hình tivi, nhưng lại để xem một video quay
một cảnh sinh hoạt nào đó, thì hành động này lại không được coi là truyền thông đại
chúng. Như vậy, điều nón cơ bản ở đây không phải là thiết bị kỹ thuật, cũng không
phải là màn hình tivi, mà cốt lõi là truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội
đặc thù gồm các yếu tố:
- Thứ nhất là hoạt động truyền thông (chẳng hạn như đi săn tin, quay phim,
chụp ảnh,... rồi viết bài, biên tập, và cuối cùng là xuất bản hay phát sóng).
– Thứ hai là các nhà truyền thông (nhà báo, người làm phát thanh, truyền hình,
Internet)
– Thứ ba là đại chúng (bao gồm các tầng lớp công chúng trong xã hội).

3.2. CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ (CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
THỐNG ĐẠI CHÚNG)

3.2.1. Báo in
Báo in (newspaper) gồm báo và tạp chí, là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải
nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội thông
qua các công cụ như máy in, mực in và giấy in.
Về loại hình, báo in có những đặc điểm riêng của nó. Một trong những đặc
điểm quan trọng của báo in là chuyển tải nội dung thông tin qua văn bản in, gồm chữ
in, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,... Toàn bộ nội dung thông tin của sản phẩm
báo in xuất hiện đồng thời trước mắt người đọc, vì vậy việc tiếp nhận thông tin của
công chúng đối với báo in chỉ qua thị giác.
Do phương thức thông tin đặc thù như vậy, báo in có những đặc điểm ưu việt
là: Người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin (bố trí thời điểm
đọc, lựa chọn trình tự đọc, tốc độ đọc, cách thức đọc,...); Sự tiếp nhận thông tin từ
báo in là quá trình chủ động, đòi hỏi người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động
khả năng làm việc tích cực của trí não; Nguồn thông tin từ báo in bảo đảm sự chính
xác và độ tin cậy cao, giúp người đọc có thể nhận thức sâu sắc những mối quan hệ
bên trong phức tạp và tế nhị của các vấn đề, sự kiện; Việc lưu giữ báo in đơn giản
và thuận lợi, do đó báo in trở thành nguồn tư liệu mà người đọc có thể giữ lâu dài.
Tuy nhiên, báo in cũng có những hạn chế nhất định, như: Do chỉ xuất hiện ở
một thời điểm cụ thể, nhất định nên độ nhanh nhạy, tính cập nhật, thời sự bị hạn chế
hơn các loại hình báo chí khác; Sự đơn điệu và khả năng giải mã tín hiệu thông tin
dễ làm suy giảm sự hứng thú của người đọc; Phạm vi tác động thường bị giới hạn
trong số những người biết chữ; Việc phát hành báo in được thực hiện theo phương
pháp trao tay, do đó thường chậm và phụ thuộc vào điều kiện giao thông, vào phương
tiện và con người,...
Căn cứ vào định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay báo in ở
nước ta có hai loại là báo và tạp chí. Báo gồm có: báo hằng ngày (là những tờ phát
hành mỗi ngày một kỳ vào buổi sáng hoặc buổi chiều); báo nhiều kỳ trong tuần (là
những tờ báo phát hành khoảng 5–6 kỳ/tuần); báo một số kỳ trong tuần (là những tờ
báo có số kỳ xuất bản từ 2–4 kỳ trong tuần); báo tuần (là những tờ báo xuất bản định
kỳ 1 kỳ tuần); báo nửa tháng (bán nguyệt san) hay hằng tháng (nguyệt san) chủ yếu
là những ấn phẩm phụ xuất bản giữa tháng hoặc cuối tháng của các tờ báo hằng ngày,
các tờ báo nhiều kỳ, một số kỳ trong tuần hoặc tuần báo.
Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay một
số vấn đề, lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học kỹ thuật,... Định kỳ xuất bản của
tạp chí có thể là 1 tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng. Cũng có tạp chí xuất bản 3, 4, 5
hoặc 6 tháng/kỳ. Hiện cả nước có gần 400 tạp chí các loại.

3.2.2. Báo phát thanh (báo nói)


Báo phát thanh (radio) là loại hình thông tin mà nội dung thông tin được truyền
tải bằng âm thanh (trong đó có tiếng nói, tiếng động hiện trường và âm nhạc) qua
làn sóng vô tuyến điện và truyền thanh qua hệ thống dây dẫn.
Phát thanh có khả năng to lớn trong việc cung cấp cho công chúng những
thông tin nhanh nhất, những chương trình âm nhạc, giải trí chất lượng cao,... Bằng
phương tiện, thiết bị phát và thu tín hiệu phát thanh gọn nhẹ, phát thanh có lợi thế
trong việc đưa thông tin tới người nghe ở các vùng xa xôi hiểm trở, cách xa đô thị,
và đến với cả những người khiếm thị, mù chữ. Mặc dù là loại hình báo chí chỉ có
phương tiện âm thanh để biểu đạt nhưng phương thức tác động bằng radio có nhiều
ưu thế, nhất là ở những khả năng như: thông tin nhanh, phủ sóng rộng, tiếp nhận tiện
lợi và có khả năng kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của người nghe,... Cụ thể như
sau:
– Phủ sóng rộng: Là sự quảng bá nhờ phủ sóng điện từ trên phạm vi rộng lớn
với tốc độ tương đương với tốc độ của ánh sáng (xấp xỉ 300.000km/s). Có thể nói,
phát thanh không có giới hạn về khoảng cách, vì thế nó mang tính hội hoá rất cao.
Thông tin được xã hội hoá cũng sẽ có khả năng tạo ra hành động mang tính xã hội
hoá.
– Thông tin nhanh: Thông tin được truyền qua sóng điện từ và hệ thống truyền
thanh, có thể rút ngắn mọi khoảng cách ở phạm vi toàn cầu. Trong một số trường
hợp (như tường thuật trực tiếp, cầu truyền thanh,...), phát thanh có thể ngay lập tức
thông báo cho công chúng biết về sự kiện ở chính thời điểm nó đang diễn ra.
– Thông tin phụ thuộc vào quy luật thời gian: Khi đọc báo, người đọc có thể
chủ động xem những tác phẩm mà mình quan tâm ở bất cứ trang nào. Không giống
như vậy, thính giả phát thanh bị phụ thuộc hoàn toàn vào quy luật của quá trình
thông tin radio. Họ phải nghe chương trình tuần tự từ đầu đến cuối một cách hoàn
toàn bị động.
– Sống động, riêng tư, thân mật: Đặc điểm này thể hiện rõ nhất khi so sánh
giữa báo nói với báo in. Đối với phát thanh, thính giả được nghe thông tin qua giọng
đọc. Nghĩa là thông tin được truyền đến với họ thông qua giọng nói của những con
người cụ thể, vì thế nó gắn liền với những yếu tố của kỹ năng nói như: cao độ, cường
độ, và đặc biệt là tiết tấu, ngữ điệu,...
Giọng nói tự nó đã có sức thuyết phục bởi tính chất sôi động và có thể tạo ra
sự hấp dẫn, lôi cuốn thính giả đến với chương trình. Cần lưu ý là, tuy bất cứ một
chương trình phát thanh nào cũng hướng tới số đông, nhưng mỗi thính giả lại chỉ
lắng nghe radio với tư cách cá nhân. Điều đó đòi hỏi những người thực hiện chương
trình phát thanh phải lựa chọn cách nói sao cho thật riêng tư, thân mật như đang nói
với từng người. Nói khác đi, đối với phát thanh, yêu cầu đặt ra cho cả người viết và
người nói là hãy nói với mọi người như nói với một người.
- Sử dụng âm thanh tổng hợp (bao gồm lời nói, tiếng động và âm nhạc): Công
chúng của báo nói là rộng lớn và đa dạng. Đó là quần thể dân cư không phân biệt
trình độ học vấn. Mọi đối tượng đều có thể tiếp nhận thông tin qua radio. Âm thanh
không bị phụ thuộc vào hình ảnh hoặc chữ in nên có nhiều thuận lợi trong khai thác,
sử dụng. Âm thanh có thể kích thích trí tưởng tượng, gây không khí và gợi lên tâm
trạng,... Nếu xét riêng trong sự so sánh với truyền hình, báo phát thanh nổi lên ở đặc
điểm quan trọng nhất đó là việc sử dụng âm thanh tổng hợp (bao gồm lời nói – tiếng
động – âm nhạc) tác động vào thính giác. Như vậy, đây không chỉ là phương thức
tác động duy nhất mà còn là đặc trưng cơ bản của báo phát thanh trong tương quan
so sánh với các loại hình báo chí khác.
Hiện nay, hệ thống đài phát thanh của nước ta gồm hàng trăm đài phát sóng,
trong đó riêng Đài Tiếng nói Việt Nam trực tiếp quản lý 11 đài phát sóng với công
suất hơn 8.000kW. Tín hiệu của Đài Tiếng nói Việt Nam đã được truyền dẫn qua vệ
tinh. Hệ thống phát thanh địa phương gồm 63 đài ở các tỉnh, thành phố; 606 đài phát
thanh, truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài phát thanh FM.
Đài Tiếng nói Việt Nam hiện có 6 hệ chương trình gồm 4 hệ chương trình đối
nội, 2 hệ chương trình đối ngoại với tổng thời lượng hiện nay là 151 giờ phát sóng
mỗi ngày, phủ sóng 97% địa bàn dân cư cả nước. Cùng với Đài Tiếng nói Việt Nam,
thời lượng và nội dung chương trình của các đài phát thanh địa phương cũng ngày
càng được nâng cao.
Việc áp dụng công nghệ phát thanh tiên tiến, hiện đại đã tăng thêm tính hấp
dẫn cho các chương trình phát thanh, thu hút ngày càng đông số lượng công chúng
nghe đài.
3.2.3. Truyền hình (báo hình)
Truyền hình (television) là một loại hình thông tin đại chúng truyền tải thông
tin bằng sự kết hợp hài hoà giữa hình ảnh động và âm thanh, tạo ra khả năng chuyển
tải các nội dung thông tin vô cùng phong phú, hấp dẫn và có hiệu quả bằng phương
tiện truyền thông truyền hình.
Thuật ngữ “television” có nguồn gốc là một từ ghép từ tiếng Hy Lạp và tiếng
Latinh, gồm từ “Tele” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “xa”, và “visio” trong tiếng
Latinh có nghĩa là “nhìn” hay “thấy”. Hai từ này khi được kết hợp lại và được Anh
ngữ hoá trở thành Television.
Mặc dù là một loại hình báo chí nhưng bên cạnh những đặc điểm chung của
báo chí, truyền hình còn có những điểm đặc trưng riêng của nó. Cụ thể là:
– Tinh thời sự: Đây là đặc điểm chung của báo chí. Tuy nhiên truyền hình,
với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, có khả năng thông
tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các loại phương tiện khác. Với truyền hình, sự
kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó vừa mới diễn ra, thậm chí khi nó đang diễn
ra; người xem có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp
và cầu truyền hình. Truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24/24h trong ngày,
luôn mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra,
cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với các
loại hình báo chí khác.
– Ngôn ngữ truyền hình là hình ảnh và âm thanh: Một ưu thế nổi trội của
truyền hình chính là khả năng truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng lúc. Khác với
báo in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, với phát thanh là bằng con
đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và thính
giác. Qua các cuộc nghiên cứu, người ta thấy 75% lượng thông tin con người thu
được là qua thị giác và 25% qua thính giác.
- Tính phổ cập và quảng bá: Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh, truyền
hình có khả năng thu hút hàng tỷ người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển
của khoa học và công nghệ, truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng, phục
vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền
hình còn thể hiện ở chỗ, một sự kiện xảy ra ở bất kỳ đâu nếu được đưa lên vệ tinh sẽ
có thể truyền đi khắp cả thế giới, được hàng tỷ người biết đến.
– Khả năng thuyết phục công chúng: Truyền hình đem đến cho khán giả cùng
lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh có độ tin cậy cao, có khả năng tác
động mạnh mẽ vào nhận thức con người. Truyền hình có khả năng truyền tải một
cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt
của công chúng.
Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn của nhân
dân: Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi hấp dẫn
người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy được
thực tế của vấn đề, vừa tác động vào nhận thức của công chúng. Ngày nay, do sự
phát triển của khoa học và công nghệ, công chúng của truyền hình ngày càng đông
đảo, sự tác động dư luận cũng vì thế mà ngày càng rộng rãi. ch uid anid
Ở Việt Nam, quy mô chương trình truyền hình ngày càng được mở rộng, nội
dung, hình thức thể hiện không ngừng được đổi mới và ngày càng phong phú, đa
dạng, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng công chúng. Cho đến nay, Đài Truyền
hình Việt Nam đã phát sóng trên 7 kênh: VTV1 (chính trị, tổng hợp), VTV2 (khoa
học, giáo dục), VTV3 (thể thao, văn hoá, thông tin kinh tế, giải trí), VTV4 (thông
tin đối ngoại và phục vụ cho người Việt Nam ở nước ngoài); VTV5 (chương trình
tiếng dân tộc), VTV6 (chương trình thanh thiếu niên), VTV9 (dành cho vùng Đông
Nam Bộ).
Hiện nay, cả nước có khoảng 15 triệu máy thu hình với gần 90% số hộ gia
đình được xem truyền hình. Ngoài đài truyền hình quốc gia, còn có 4 trung tâm
truyền hình khu vực của đài quốc gia và ở 63 tỉnh, thành phố của cả nước đều có đài
truyền hình hoặc đài phát thanh – truyền hình.

3.2.4. Báo điện tử


Báo điện tử (Online newspaper) là loại báo xuất hiện trên Internet (World
Wide Web). Internet là mạng thông tin diện rộng, bao trùm toàn cầu, hình thành trên
cơ sở kết nối các máy tính điện tử, cho phép liên kết con người lại bằng thông tin và
kết nối nguồn tri thức đã tích luỹ được của toàn nhân loại trong một mạng lưu thông
thống nhất. Quy mô, phạm vi ảnh hưởng của thông tin trên mạng Internet rộng lớn
hơn nhiều so với các phương tiện thông tin thông thường khác. Với Internet, mọi
người có khả năng và điều kiện rất thuận lợi trong việc tiếp cận trực tiếp với các
nguồn thông tin. Các trang web có những đặc điểm chính sau:
– Về dung lượng: Các trang web cung cấp khả năng trình bày nhiều hơn lượng
thông tin bằng nhiều cách thức hơn so với cả báo in và báo nói, báo hình. Một phóng
viên báo in có thể bị hạn chế viết 500 hay 600 từ cho một bài báo. Một phóng viên
ảnh có thể mất cả ngày theo đuổi sự kiện và chờ đợi để có được duy nhất một bức
ảnh trên báo in. Ở một đài phát thanh truyền hình, một phóng viên chỉ có thể có 40
giây để tường thuật một câu,... Nhưng đối với web, nó làm giảm phần lớn, nếu không
muốn nói là xoá bỏ toàn bộ những giới hạn này. Trên web, phóng viên viết tin có
thể gộp cả các bài tường thuật, toàn văn các diễn văn mà họ có được; thông tin trích
ngang về nguồn tin của họ; các sơ đồ, bảng biểu, hình ảnh giúp phát triển khả năng
hiểu vấn đề của người đọc. Nó có thể bao gồm cả âm thanh của nguồn tin và những
cảnh quay tại nơi sự kiện xảy ra.
– Về sự linh hoạt: Web có thể quản trị một lượng lớn thông tin dưới các định
dạng mà nó hiển thị: từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, hình ảnh động, và đồ hoạ. Trong
lĩnh vực này, nó có khả năng linh hoạt hơn rất nhiều so với báo in và phát thanh,
truyền hình.
- Về sự trực tiếp: Web có thể phân phối thông tin ngay lập tức và liên tục theo
những sự kiện đang diễn ra. Truyền thông điện tử, đặc biệt là truyền hình, có thể làm
những điều tương tự và với ảnh hưởng rất mạnh, như chúng ta đã chứng kiến qua sự
kiện ngày 11/9/2001. Nhưng các ưu thế có thể cung cấp ngay lập tức của web khiến
cho truyền thông điện tử không thể cạnh tranh được ở trên 6 phương diện:
+ Thứ nhất là tính đa dạng: Hầu hết các sự kiện quan trọng và nóng đều có
nhiều góc độ đưa tin; đó là, họ bao gồm nhiều nhóm công chúng, nhiều địa điểm và
nhiều hành vi.
+ Thứ hai là khả năng mở rộng thông tin: Trang web có một khả năng chuyển
tải và hiển thị thông tin với khối lượng khổng lồ.
+ Thứ ba là đặc trưng trực tiếp của web: Thông tin có thể được chuyển lên
trang web ngay lập tức, nhưng để sẵn sàng cho điều đó, ít nhất nó cũng đã qua biên
tập bước đầu. Truyền hình và phát thanh về những sự kiện nóng, mặc dù thường
được thực hiện bởi những người rất chuyên nghiệp nhưng không có bước chuyển
giữa sự sáng tạo và quá trình phối hợp thông tin của họ. Trong khi đó, trang web, về
cơ bản, là phương tiện văn bản, do đó phóng viên báo mạng có những cơ hội biên
tập tác phẩm của họ.
+ Thứ tư là khả năng cung cấp trực tiếp bối cảnh sự kiện, điều mà các phương
tiện khác rất khó khăn để cung cấp cho công chúng trong các bản tin nóng của họ.
Những giới hạn của truyền hình trong việc cung cấp bối cảnh là hiển nhiên khi đưa
tin trực tiếp rất nhiều sự kiện, còn web có năng lực tóm tắt và cập nhật trong khi vẫn
bổ sung thông tin về nhiều phần khi sự kiện diễn ra.
+ Thứ năm là tính ổn định: Web chưa phải là phương tiện ổn định nhất của
truyền thông theo nghĩa nó không làm giảm giá trị các phương tiện khác. Không có
gì cần thiết bị mất đi. Được nén và được lưu trữ, dữ liệu trên web – dưới dạng điện
tử – có thể bảo tồn qua bất cứ phương tiện truyền thông nào mà chúng ta đang có.
Tính ổn định này thường không cho thấy được năng lực của web, nhưng đó là một
ưu thế để web mang đến cho phương tiện này sức mạnh to lớn. Báo in có thể giảm
giá trị, báo hình và phát thanh giảm thanh thế, tuy nhiên thông tin trên web vẫn đọng
lại nếu như không có người xoá nó đi
+ Thứ sáu là tính tương tác: Dĩ nhiên, các phương tiện truyền thông đại chúng
có tính tương tác ở các mức độ khác nhau. Chẳng hạn, những người xem truyền hình
và nghe phát thanh phải bật máy lên và dò kênh, điều khiển từ xa cho phép họ di
chuyển từ kênh này sang kênh khác theo ý thích. Tuy nhiên, ngoài điều đó ra, các
phương tiện này không cung cấp bất cứ một cơ hội tương tác nào. Báo in và tạp chí
thì có tính tương tác cao hơn, theo nghĩa người đọc có thể chọn cái gì họ muốn đọc
và không đọc những gì họ không muốn; nhưng nó lại không cung cấp kênh tương
tác để người đọc liên kết giữa những gì họ đang đọc và tương tác với nhà báo. Báo
mạng cung cấp những lựa chọn tương tự như báo in cung cấp; song hơn thế nữa,
trong khi các lựa chọn trên báo in là các trang và đề mục, thì lựa chọn trên web có
thể được xây dựng ngay trong chính bài báo và các trang của website bằng cách sử
dụng siêu liên kết. Điều này cho phép người đọc có thể xoay chuyển trong một bài
viết với thông tin mà họ thích nhất hoặc thông tin có liên quan.

Tuy nhiên, web cũng tồn tại những hạn chế như:
+ Thứ nhất, web có chi phí đắt đỏ. Thậm chí với ai không phải bỏ tiền túi ra
trả, một tổ chức sẽ phải bỏ tiền mua máy tính và kết nối Internet.
+ Thứ hai, web cố định và bất tiện. Báo in, tạp chí và sách thì dùng tiện lợi
hơn nhiều so với web, bởi không thể mang theo máy tính vào những nơi bất tiện
được, dù có thể đó là máy tính xách tay và đường kết nối không dây.
+ Thứ ba, từ quan điểm của những người dùng, web có thể gây khó hiểu và
sự nản lòng vì độ chính xác và chứng thực của thông tin không được đảm bảo. Có
nhiều người cho rằng web xuất hiện gây ra sự lựa chọn khó khăn, việc tìm kiếm
thông tin một cách chính xác có thể bất trang web tổ chức thông tin và thiết kế không
tốt.
Trong những năm qua, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng viễn thông
Internet cao nhất trong khu vực ASEAN, với tốc độ bình quân là 32,5%. Hiện Việt
Nam đã có 6 nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP), khoảng 20 nhà cung cấp
dịch vụ Internet (ISP), hơn 50 nhà cung cấp thông tin (ICP) và báo điện tử trên
Internet, có khoảng 3.500 trang tin điện tử (website) đang hoạt động. Người sử dụng
có thể truy cập Internet qua mạng điện thoại cố định tại tất cả 63 tỉnh, thành phố
trong cả nước với hình thức dịch vụ rất đa dạng: Internet trả trước, Internet trả sau,
các dịch vụ truy cập Internet qua mạng điện thoại di động,... Hiện nay, cả nước đã
có hàng triệu thuê bao sử dụng Internet.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh (chị) hãy trình bày và giải thích khái niệm, thuật ngữ các loại hình báo
chí.
2. Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm của loại hình báo in. Quá trình
hình thành và phát triển của báo in.
3. Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm của loại hình bảo nói (phát
thanh). Sự ra đời và phát triển của báo phát thanh.
4. Phân tích đặc điểm của truyền hình (bảo hình). Trình bày sự ra đời và phát
triển của truyền hình thế giới và Việt Nam.
5. Phân tích đặc điểm của báo mạng điện tử. Ưu điểm và hạn chế của từng
loại hình.
6. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích hệ thống truyền thông đại chúng ở Việt
Nam

Chương 4

ĐẶC TRƯNG CỦA BÁO CHÍ

4.1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ


4.1.1. Báo chí là loại hình hoạt động thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng (mass information) là thuật ngữ cơ bản nhất của lý luận
báo chí. Việc tìm hiểu nó có ý nghĩa như là điều kiện cơ sở để tìm hiểu các vấn đề
khác trong hoạt động báo chí nói chung. Bởi vì, “thông tin đại chúng” là bản chất
của hoạt động báo chí, bản chất này quy định tính chất của sản phẩm báo chí và
phương thức hoạt động của người làm báo.
Từ đại chúng trong thuật ngữ thông tin đại chúng có những nội dung sau:
– Đối tượng tác động của thông tin báo chí là xã hội rộng lớn bao gồm các
tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau.
– Những nhu cầu thông tin của nhân dân được ưu tiên, đảm bảo là thước đo
năng lực, hoạt động của thông tin báo chí.
- Mục đích của thông tin báo chí là nhằm hình thành đời sống tinh thần lành
mạnh của xã hội, qua đó tác động vào việc giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và phát
triển đất nước.
– Đảm bảo sự phổ biến rộng rãi, dễ hiểu, giúp cho đại đa số các thành viên
trong xã hội có khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin.
- Có sự tham gia rộng rãi của công chúng vào công việc của các cơ quan báo
chí, tạo điều kiện cho các thành viên trong xã hội có thể tham gia vào việc giải quyết
các nhiệm vụ chung, các công việc của xã hội.
Xét về bản chất, từ đại chúng được thể hiện trong báo chí là tính phổ biến rộng
rãi về nội dung và đối tượng tác động thông tin, nhằm phân biệt với các loại hình
thông tin chuyên biệt như: thông tin an ninh quốc phòng, thông tin liên lạc, thông tin
khoa học, thông tin nghề nghiệp, thông tin cá nhân, thông tin văn học – nghệ thuật,
thông tin thể thao,...
Từ thông tin cũng được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau trong các tình
huống cụ thể: — Thông tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung
thông báo. Hoạt động thông tin không chỉ có trong xã hội loài người. Ngay trong
thiên nhiên cũng có những hoạt động thông tin phức tạp, đa dạng của các loài động
vật khác nhau.
– Thông tin được dùng để chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói chung.
Trong trường hợp này, người ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng “lượng
thông tin” được chuyển đến đối tượng tiếp nhận.
Là một thuật ngữ nền tảng của báo chí, thông tin liên quan trực tiếp đến tính
hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng, đến những đòi hỏi về phương
pháp, hình thức sáng tạo của nhà báo, đến nguyên tắc về sự tác động qua lại giữa
báo chí và công chúng.
Để hiểu được đặc trưng của thông tin trong báo chí, cần xem xét các tác phẩm
báo chí trong mối quan hệ Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng. Tác phẩm báo chí
bao gồm nhiều loại hình phong phú, từ những tin tức, bài báo, tư liệu đến các chương
trình phát thanh, truyền hình, báo mạng. Tác phẩm do nhà báo chuẩn bị và được in
trên báo hay phát sóng. Đối với công chúng, tác phẩm báo chí mới chỉ thể hiện qua
chất lượng của thông tin tiềm năng, bởi những thông tin đó chưa chắc đã được công
chúng tiếp nhận. Có nhiều tác phẩm (bài báo) giữ vai trò là “cầu nối”, phục vụ cho
việc trao đổi thông tin giữa nhà báo và công chúng, nhưng công chúng lại không tiếp
nhận, mặc dù tác phẩm hay chương trình đã được đăng báo hay phát sóng. Hiện
tượng đó diễn ra khi công chúng không đọc báo, không xem truyền hình hay không
nghe đài. Trong những trường hợp như vậy, mối quan hệ nhà báo tác phẩm – công
chúng bị phá vỡ. Điều đó dẫn đến tình trạng là không có khả năng chuyển tải thông
tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Thông tin hiện thực là những thông tin được
nhà báo sáng tạo và được công chúng tiếp nhận qua các phương tiện thông tin đại
chúng. Vì thế, việc đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ giữa nhà báo và công
chúng được thể hiện qua các tác phẩm và chương trình phát thanh, truyền hình, báo
điện tử là rất cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện
thực. Vì thế mà trong khoa học hiện đại có một cách định nghĩa về thông tin như
sau: Thông tin không chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo
chí khi đã được công chúng tiếp nhận.
Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin, cần đặt nó trong
mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin
đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ để có hành
động đúng đắn. Vì vậy, có thể đồng tình với định nghĩa: “Thông tin là phần tri thức
được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cực và quản lý xã
hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm, phẩm chất, sự hoàn thiện và sự phát
triển hệ thống”1.

4.1.2. Báo chí là một loại hình hoạt động chính trị
– xã hội Hoạt động chính trị xã hội là một khái niệm có nội dung rộng lớn với
nhiều loại hình, phương thức khác nhau. Hoạt động báo chí là một trong những loại
hình của hoạt động chính trị xã hội.
Hạt nhân của đời sống xã hội là hoạt động chính trị. Nó giữ vai trò quan trọng
nhất trong các hệ thống xã hội. Hoạt động chính trị là việc hoạch định và tổ chức
thực hiện những nhiệm vụ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tư tưởng, an ninh –
quốc phòng,... dựa trên cơ sở các quyền lợi của giai cấp và - dân tộc. Hoạt động này
ảnh hưởng quan trọng hoặc chi phối các hệ thống xã hội khác, tác động mạnh mẽ
vào các mối quan hệ giữa chúng.
Báo chí là một hệ thống xã hội, có nghĩa là một loạt những yếu tố tồn tại trong
xã hội liên quan chặt chẽ với nhau theo quy luật, phương thức riêng và hoạt động
trong phạm vi xã hội rộng lớn. Các hệ thống xã hội ra đời, tồn tại và phát triển do
yêu cầu tất yếu của xã hội. Quy mô, tính chất, hình thức của chúng bị quy định bởi
những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội. Những điều kiện đó rất phong phú, đa
dạng, bao gồm từ trình độ sản xuất vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật và công
nghệ, các đặc điểm về địa lý, tính chất tâm lý, truyền thống dân tộc, giao lưu quốc
tế,... Ngày nay, hệ thống báo chí của Việt Nam bao gồm các phương tiện thông tin
đại chúng như: xuất bản, báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Mỗi cơ quan báo chí đều là đại diện, người phát ngôn, phương tiện thông tin
của một số tổ chức, lực lượng nào đó, phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ nhằm
đạt được mục đích, quyền lợi của tổ chức, lực lượng đó. Tổ chức bộ máy của các cơ
quan báo chí phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra và đặc điểm loại hình phương
tiện thông tin đại chúng. Phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của các cơ quan báo chí
không đồng nhất. Mỗi cơ quan hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể của đời sống
xã hội, có phạm vi tác động về không gian và địa lý riêng. Các cơ quan báo chí cụ
thể là các yếu tố hợp thành một hệ thống báo chí toàn xã hội. Quan hệ giữa các yếu
tố đó là quan hệ phân chia về chức năng, khu vực ảnh hưởng do tính chất, nội dung
thông tin. Đặc điểm chung có tính bản chất chi phối các khía cạnh khác của hoạt
động báo chí là sự tác động vào xã hội bằng thông tin và khả năng thuyết phục công
chúng bằng nội dung, tính chất của thông tin. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định,
báo chí là tiếng nói của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, là diễn đàn
của nhân dân.
1
Afanaxiep, Thông tin xã hội và định hướng xã hội, Moscow, 1975, tr. 33.

4.1.3. Báo chí là hoạt động kinh tế – dịch vụ


Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế, thực tiễn hoạt động báo chí đòi hỏi tư duy làm báo phải dần được
thay đổi. Trong kinh tế thị trường, hoạt động báo chí không chỉ được coi là hoạt
động truyền thông đại chúng và hoạt động chính trị – xã hội, mà còn là hoạt động
kinh tế – dịch vụ, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trên nhiều khía cạnh, cả về nhận
thức lý luận và hoạt động thực tiễn.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường phát triển, cơ quan
báo chí được coi như một doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Việc
quản lý cơ quan báo chí được coi như quản trị doanh nghiệp. Sản phẩm báo chí là
sản phẩm hàng hoá; dịch vụ báo chỉ là dịch vụ xã hội, bao gồm dịch vụ công ích và
dịch vụ thương mại. Các thế lực chính trị chi phối hoạt động báo chí nhằm mục đích
chính trị chủ yếu là thông qua các công cụ và phương thức kinh tế như tài trợ sản
xuất tin tức và sản phẩm báo chí theo đơn đặt hàng, ưu tiên quảng cáo nhà nước, ưu
tiên thuế suất,... Báo chí thông qua việc đáp ứng nhu cầu của công chúng xã hội (bán
sản phẩm bảo chí và tạo thị trường quảng cáo, dịch vụ,...) và phục vụ nhu cầu của
các lực lượng chính trị để phát triển nguồn thu cho báo chí trên cơ sở ưu tiên hàng
đầu việc thoả mãn nhu cầu ngày càng cao lượng thông tin) của công chúng xã hội.
Trong khi nói đến bản chất hoạt động kinh tế – dịch vụ của báo chí cần chống
khuynh hướng chạy theo mục đích thương mại đơn thuần nhằm thu lợi cho cơ quan
báo chí mà xâm hại đến lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội. Thực chất, đó là “khuynh
hướng thương mại hoá báo chí”.
Bởi vì, xét cho cùng, một trong những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của hoạt
động báo chí trong kinh tế thị trường là mâu thuẫn giữa lợi ích chính trị – văn hoá –
xã hội với lợi ích kinh tế. Có thể nói, lợi ích kinh tế mang tính chất cục bộ và trước
mắt (dù rằng lợi nhuận mà cơ quan báo chí thu được có thể sẽ là nguồn đóng thuế
cho nhà nước), còn lợi ích chính trị văn hoá – xã hội là lợi ích toàn cục và lâu dài.
Báo chí cần ưu tiên trước hết và trên hết lợi ích chính trị – văn hoá – xã hội, lợi ích
dân; bởi trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo là yêu cầu chúng và
nhân khách quan, là nghĩa vụ tự giác bắt buộc từ nhận thức, thái độ đến hành vi hằng
ngày trong thu thập, xử lý, sản xuất và quảng bá sản phẩm thông tin. Vì lợi ích kinh
tế đơn thuần, cơ quan báo chí có thể thu lợi hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đồng,
nhưng xã hội có thể phải tốn kém nhiều lần hơn thế mà vẫn khó khắc phục hậu quả
mỗi khi các giá trị văn hoá – xã hội bị coi thường hoặc xâm hại.
Báo chí xuất hiện và phát triển không phải do “tự thân”, “tự nó” và “cho nó”,
mà là vì công chúng và sự phát triển bền vững của xã hội, vì nhân dân và trách nhiệm
trước lịch sử. Đó là nguyên nhân sâu xa cấu thành trách nhiệm xã hội lớn lao của
báo chí và nhà báo. Tất nhiên, trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội này được thể hiện đến
đâu còn tuỳ thuộc vào nền chính trị mà trong đó báo chí hoạt động. Nền chính trị
dân chủ nào thì sẽ sản sinh ra nền báo chí dân chủ ấy; nền chính trị chuyên quyền,
độc đoán sẽ tạo ra nền báo chí không vì dân, mà là vì nhóm nắm giữ quyền lực. Do
đó, Thomas Jefferson đã viết năm 1787 rằng, “Nền tảng của chính quyền chúng ta
là dư luận quần chúng... Mục tiêu tiên quyết là phải giữ lấy quyền đó, và nếu để tôi
tự ý nên chọn một chính quyền không có báo chí hay báo chí không có chính quyền,
thì tôi sẽ không ngập ngừng phút giây nào mà chọn điều sau1. Mác cũng đã nói rằng,
“tự do báo chí là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân”.

4.2. TIẾP CẬN BÁO CHÍ TỪ QUAN ĐIỂM HỆ THỐNG


Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự kiện Liên Xô sụp đổ chính thức vào tối ngày
25/12/1991. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan vỡ, thế giới tù hai cực, hai hệ
thống hầu như khép kín trở thành thế giới đa cực, mở. Mặt “thế giới khác, do quá
trình toàn cầu hoá ngày càng gia tăng cả về quy mô, cường độ tính chất, với sự hỗ
trợ của kỹ thuật và công nghệ truyền thông, thế giới đang vận động và biến đổi theo
hướng từ “thế giới tròn” sang phẳng”. Từ đó, hàng loạt phạm trù, khái niệm trong
khoa học xã hội được nhận thức lại theo xu hướng tiếp cận bản chất khoa học - thực
tiễn của các sự vật, hiện tượng. Tư duy chính trị mới buộc phải nhìn nhận, đánh giá
lại thế giới và các hiện tượng xã hội cho phù hợp với tiến trình vận động khách quan
của thế giới đa cực trong tiến trình toàn cầu hoá cũng như trong tình hình có những
thế lực cực đoan muốn kéo về một cực với mục đích chi phối, thống trị thế giới.
Trong bối cảnh ấy, nhà khoa học đầu ngành lý luận báo chí Xô Viết, Giáo sư – Tiến
sĩ khoa học E.P. Prokhorop thuộc Khoa Báo chí Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia
Mát-xcơ-va mang tên Lômônôxốp đã đưa ra khái niệm báo chí tiếp cận từ quan điểm
hệ thống.
Có thể nêu vắn tắt quan điểm hệ thống là quan điểm nhìn nhận mọi sự vật,
hiện tượng trong sự cấu thành bởi nhiều yếu tố; các yếu tố này được liên kết với
nhau thông qua các quan hệ ràng buộc và chi phối lẫn nhau trong những điều kiện
cụ thể, trong không gian, thời gian xác định và cùng vận động theo một phương
hướng nhất định.
Tiếp cận theo điểm này, yếu tố và quan hệ (trong những điều kiện quan xác
định) sẽ tạo nên giá trị của sự vật, hiện tượng. Khi một trong hai thành tố ấy thay
đổi, giá trị của sự vật, hiện tượng sẽ thay đổi. Mỗi xã hội cụ thể đang vận động đều
có thể được xem xét theo quan điểm hệ thống. Theo đó, mỗi hệ thống xã hội cụ thể
sẽ có cấu trúc khác nhau, từ cấu trúc quyền lực chính trị, thể chế kinh tế, văn hoá,...
mà trong đó nền báo chí được xem xét như một tiểu hệ thống của hệ thống xã hội
nói chung ấy.
1
Dẫn theo Bước vào nghề bảo, tr. 41.
Ở đó, báo chí chịu sự chi phối của nhiều loại quan hệ dọc và ngang, quan hệ
bình đẳng và phụ thuộc. Ở bình diện thứ nhất, một là quan hệ với các tiểu hệ thống
khác, hai là quan hệ với hệ thống tổng thể. Ở bình diện thứ hai là quan hệ với quyền
lực chính trị, quyền lực kỹ thuật, hệ thống giá trị văn hoá, luật pháp,...
Chẳng hạn, trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị Mỹ, Nhà nước là tổ
chức quyền lực trung tâm. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Ba quyền lực này độc lập với nhau, kiềm chế, giám sát
lẫn nhau tạo nên sự cân bằng tương đối về quyền lực; do vậy, hạn chế tối đa sự lạm
dụng quyền lực. Cách tổ chức quyền lực chính trị Mỹ đi theo mô hình cộng hoà tổng
thống; trong đó Tổng thống có quyền lực bao trùm, là nguyên thủ quốc gia, đứng
đầu bộ máy hành pháp, là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Trong hệ thống quyền
lực chính trị Mỹ, báo chí được coi như quyền lực thứ tư, có thể giám sát cả quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hầu hết báo chí Mỹ là báo chí tư nhân, do tư nhân
lập ra, thậm chí có thể xuất bản báo mà không cần xin giấy phép ngay, nhưng bắt
buộc trước hết là phải có mã số thuế để đóng thuế.
Trong khi đó, nước Anh lại theo mô hình nhà nước quân chủ đại nghị quân
chủ (nhà vua) và Thượng viện được coi trọng, nhưng quyền lực thực tế lại thuộc về
Hạ viện và Chính phủ. Hạ viện do nhân dân trực tiếp bầu ra, có quyền lập pháp và
phê chuẩn tất cả các đạo luật, hiệp định ký kết với nước ngoài; có quyền phủ quyết
Thượng viện, có quyền thành lập Chính phủ và có thể giải tán Chính phủ thông qua
bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ.
Ở Pháp, hệ thống tổ chức quyền lực lại đi theo mô hình cộng hoà lưỡng tính.
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia có quyền lực cao nhất, đứng đầu cơ quan hành
pháp, có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, các Bộ trưởng và Quốc vụ khanh. Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Tổng thống và Quốc hội, có thể bị Quốc hội giải tán thông
qua bỏ phiếu bất tín nhiệm, hoặc bị Tổng thống giải tán.
Trung Quốc, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị lại theo mô hình một đảng
nổi trội. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản đồng thời kiêm Chủ tịch nước và là nguyên thủ
quốc gia. Trung Quốc không cho phép báo chí tư nhân hoạt động, không có luật báo
chí.
Ở Việt Nam, tổ chức quyền lực chính trị đi theo mô hình một đảng duy nhất
– Đảng Cộng sản, có quyền lực tuyệt đối, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện mọi hoạt
động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của mỗi nước trên thế giới được tổ chức
theo những mô hình khác nhau (cộng hoà tổng thống, cộng hoà lưỡng tính, quân chủ
đại nghị, quân chủ lập hiến, một đảng nổi trội hay một đảng duy nhất,...) và đều có
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của riêng mình. Theo đó, hệ thống hay mạng
lưới báo chí – truyền thông đại chúng của mỗi nước cũng được tổ chức và vận hành
theo những thể chế khác nhau, trong môi trường văn hoá, điều kiện kinh tế,... không
giống nhau, và ở vào những trình độ phát triển cụ thể khác nhau.
Trong các hệ thống tổ chức quyền lực chính trị khác nhau, dù quan điểm,
chính sách và phương thức khai thác, sử dụng báo chí có khác nhau, nhưng giữa
chúng vẫn có những điểm chung. Điểm chung này xuất phát từ bản chất của báo chí
truyền thông – là hoạt động thông tin – giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn nhất,
là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ và phương thức
can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội,
với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế,...
Sơ đồ (Hình 4.1) dưới đây định nghĩa khái niệm báo chí theo nghĩa rộng, ở
bình diện vĩ mô của nền báo chí, đồng thời cũng có thể tiếp cận nó trên bình diện vi
mô khi xem xét các hiện tượng báo chí trong hoạt động thực tiễn. Từ đó, cách nhìn
nhận báo chí và hoạt động báo chí theo một quan điểm khoa học – thực tế và luôn
vận động, chi phối hoạt động thực tiễn trong quá trình sản xuất các ấn phẩm báo chí,
trong quan hệ với công chúng - thị trường, với các nhóm xã hội và nhóm lợi ích,
cũng như trong quan hệ với quyền lực chính trị và các thể chế khác trên phạm vi mỗi
nước.
Dịch Khi phân tích sơ đồ khái niệm, chú ý các yếu tố và các mối quan hệ liên
kết giữa chúng – trực tiếp và gián tiếp; mặt khác, luôn luôn xem xét trên quan điểm
biện chứng lịch sử – cụ thể của các giai đoạn phát triển xã hội, tránh rập khuôn máy
móc hoặc bị lệ thuộc bởi những định kiến chính trị. Báo chí là hiện tượng xã hội
luôn tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể dưới sự tác
động và chi phối trực tiếp của thiết chế chính trị, quyền lực chính trị, được sự hỗ trợ
tối đa của các phương tiện kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ tin học.

Hình 4.1. Sơ đồ mô phỏng khái niệm báo chi tiếp cận từ quan điểm hệ thống
Các thành tố và mối quan hệ trong khái niệm báo chí có thể được miêu tả như
sau:
- Quyền lực chính trị tối cao – quyền lực nhà nước: Đối với thể chế chính trị
ở Việt Nam (cũng như ở các nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo), quyền lực chính trị
tối cao thuộc về Đảng Cộng sản – Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và triệt để đối
với toàn bộ đời sống xã hội nói chung, với báo chí nói riêng. Ở các nước khác, với
thể chế chính trị và cách thức tổ chức quyền lực chính trị khác nhau, mối quan hệ
giữa quyền lực chính trị và báo chí cũng theo nhiều mô thức khác nhau.
- Cơ quan chủ quản (cơ quan hay người sáng lập): Ở Việt Nam, theo Luật
Báo chí năm 1989, đó là tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,... có
quyền xin phép thành lập cơ quan báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng
điện tử).
– Nhà bảo - chủ thể trực tiếp hoạt động báo chí: Nhà báo được phân chia ra
nhiều chức danh cụ the , mỗi loại hình toà soạn báo chí (báo in, trong phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử). Điều đáng chú ý là, đối với báo chí truyền hình,
nghề nghiệp và chức danh các vị trí công việc của lao động rất đa dạng. Trong báo
chí hiện đại, các kỹ sư tin học có vai trò ngày càng quan trọng.
– Sản phẩm báo chí: Đó là sản phẩm tổng hợp hoàn chỉnh (số báo chương
trình phát thanh, chương trình truyền hình) để có thể phát hành (với báo in), phát
sóng (với phát thanh, truyền hình). Sản phẩm đơn lẻ chủ yếu do phóng viên, biên tập
viên chịu trách nhiệm trước tổng biên tập; tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp
luật và dư luận xã hội (và người đứng đầu cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí) về
sản phẩm tổng hợp – số báo, chương trình phát thanh, truyền hình,...
- Kênh chuyển tải: Trong trường hợp này là các loại hình báo chí: báo in, phát
thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Trong môi trường truyền thông số, các kênh
này có thể kết nối với các mạng xã hội, weblog, facebook,... và phương tiện cá nhân
để chiếm lĩnh công chúng xã hội và thị trường.
– Công chúng xã hội: Là quần thể dân cư nói chung hoặc nhóm đối tượng theo
những tiêu chí nhất định như: tuổi, giới tính, nghề nghiệp,.. đang chịu sự tác động
hoặc được sản phẩm báo chí hướng vào để tác động, gây ảnh hưởng.

- Tổ chức chính trị – xã hội: Nó giống như những mắt xích, đầu mối các tổ
chức trong hệ thống xã hội, như những điểm huyệt trong cơ thể con người mà nếu
báo chí tác động đúng và trúng thì năng lực và hiệu quả tác động sẽ nhân lên gấp
bội.

– Thực tiễn đời sống xã hội: Là tổng thể tất cả những gì đã và đang diễn ra
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Thực
tiễn đời sống xã hội ở mỗi quốc gia có những đặc thù riêng của mình do trình độ
phát triển, thể chế chính trị, thể chế kinh tế,... và nền văn hoá quy định. Báo chí của
quốc gia nào mang diện mạo và sắc thái của quốc gia ấy. Trong mô hình khái niệm
báo chí trên đây, thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn vận động và phát triển, có thể
ví như một chuyến xe lịch sử đang chuyển động.
Tuy nhiên, cần lưu ý là sơ đô này chỉ mới mô tả được một số trực tiếp, một
chiều, còn mối quan hệ gián tiếp, ngược chiều chưa được thể quan hệ hiện hết; mặt
khác, có thể bổ sung những thành tố và mối quan hệ khác tuỳ theo thực tiễn hoạt
động báo chí.
Khái niệm báo chí nhìn từ quan điểm hệ thống có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng; về đại thể có thể nêu ra một số ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, khái niệm này có thể mô tả, giải thích các hiện tượng báo chí trong
các xã hội có thể chế chính trị khác biệt nhau; nó có thể khắc phục được tình trạng
là cùng một hiện tại ... điểm chính ai đưa ra nhiều hôn " nhưng các trị khác nhau lại
đưa ra những định nghĩa hay quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Các thể
chế xã hội này có thể có sự khác biệt chủ yếu ở quyền lực chính trị tối cao, cách phân
chia quyền lực chính trị theo các mô hình tổ chức nhà nước.
Thứ hai, có thể tránh được việc định nghĩa báo chí khi chỉ nhìn vào những sản
phẩm cụ thể mà chưa nêu ra được các mối quan hệ ẩn kín bên trong, mà chính các
quan hệ này lại quy định tính chất và khuynh hướng by a thin chat va k hoạt động
của báo chí. Do vậy nó giúp nhà báo hiểu rõ hơn bản chất chính trị – xã hội của báo
chí, thấy rõ hơn các mối quan hệ bản chất bên trong của nó, nhận thức tự giác hơn
về nghề nghiệp báo chí và bản chất hoạt động nghề nghiệp. Tiếp cận từ quan điểm
hệ thống cũng giúp nhà báo nhận thức rõ vai trò của các yếu tố và các quan hệ trong
hoạt động thực tiễn; định vị được cá nhân trong hệ thống xã hội nói chung và trong
nền báo chí nói riêng, từ đó có ý thức và thái độ hành nghề thích hợp.
Thứ ba, khái niệm này xác định vị trí trung tâm của chủ thể hoạt động báo chí
— nhà báo, cũng như vai trò chi phối của quyền lực chính trị tối cao và cơ quan sáng
lập, sự đòi hỏi của công chúng xã hội đối với chủ thể ấy. Trong mô hình khái niệm
này, nhà báo có thể chịu nhiều áp lực trong quá trình thu thập, xử lý thông tin cũng
như sáng tạo tác phẩm, sản phẩm báo chí hướng tới thoả mãn nhu cầu của công
chúng và yêu cầu tuyên truyền, hướng dẫn, định hướng dư luận xã hội từ quyền lực
chính trị tối cao. Nói cách khác, nhà báo chịu áp lực từ “bên trên”, “bên dưới” và cả
chiều ngang trong tất cả các mối quan hệ trong quá trình sản xuất sản phẩm báo chí.
Nhìn chung, trên sân khấu chính trị, nhà báo nên định vị mình đứng ở đâu và từ đó
chọn góc nhìn, góc tiếp cận nào và xác định quan điểm, giọng điệu cho 10 va A tác
phẩm, sản phẩm của mình. Đây chính là một trong những biểu hiện chủ yếu của tinh
phức tạp của hoạt động báo chí.
Thứ tư, phân định cụ thể đối tượng tác động của báo chí, nhất là xác định hai
địa chỉ cụ thể bao gồm công chúng xã hội và nhất là tổ chức xã hội như những mắt
xích, điểm huyệt quan trọng mà nếu tác động đúng, trúng thì năng lực và hiệu quả
tác động của báo chí sẽ có thể được nhân lên gấp bội. Vấn đề này càng giúp chúng
ta nhận thức rõ hơn đối tượng tác động của báo chí không chỉ là công chúng báo chí
nói chung, mà còn là địa chỉ báo chí hướng tới như những mắt xích có ý nghĩa chính
trị, xã hội.
Thứ năm, khi nhìn nhận báo chí từ cách tiếp cận này, có thể định dạng cách
thức và mô hình hoạt động báo chí tuỳ thuộc cấu trúc hệ thống xã hội – vào cách
thức tổ chức quyền lực chính trị, vào trình độ phát triển của xã hội (như tính chất
chính trị, trình độ kinh tế, mức sống của dân cư, giao lưu thương mại, trình độ văn
hoá, mức độ dân chủ hoá đời sống chính trị,...).

4.3. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA THÔNG TIN BÁO CHÍ


Nhận diện đặc điểm báo chí là một việc khó khăn, bởi tính phức tạp của hiện
tượng xã hội này như đã đề cập ở trên. Thế nhưng nhận diện được những đặc điểm
cơ bản của báo chí là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và chi la van thực tiễn hoạt
động. Vì vậy, chúng tôi cố gắng nêu ra một số đặc điểm cơ bản để có thể nhìn nhận
rõ hơn bản chất xã hội của báo chí.
4.3.1. Thông tin thời sự
Thời sự, theo Đại từ điển tiếng Việt1, là “1. Toàn bộ sự việc ít nh . Thời sự, ít
nhiều quan trọng vừa mới xảy ra, được nhiều người quan tâm: Theo dõi thời sự –
nghe thời sự quốc tế; 2. tt. Có tính thời sự còn mới mẻ, được nhiều người chú ý quan
tâm: vấn đề thời sự – tính thời sự của đề tài”.
Ở quan niệm trên đây, có thể nhận thấy ba nét nghĩa chính. Một là, toàn bộ sự
việc vừa mới xảy ra; hai là, sự việc ít nhiều quan trọng; ba là, được nhiều người quan
tâm (mối liên hệ thời gian – sự việc – nhiều người quan tâm).
Như vậy, thời sự có thể hiểu là những sự việc, sự kiện vừa mới xảy ra, nóng
hổi, liên quan đến nhiều người và có ý nghĩa ngày hôm nay, ngay bây giờ. Tuy nhiên,
cũng có sự kiện xảy ra lâu rồi, nay mới biết và mới được nhận thức lại, được nhiều
người quan tâm.
Vấn đề này có thể hiểu là báo chí thông tin sự kiện và vấn đề đã và đang xảy
ra, có ý nghĩa xã hội và được nhiều người quan tâm. Đó là những sự kiện công chúng
muốn biết, cần biết nhưng chưa biết; hoặc những sự kiện lãnh đạo cần thông tin cho
công chúng để thực hiện mục đích chính trị của mình; hoặc sự kiện đã xảy ra từ lâu,
nhưng nay mới biết, hoặc xảy ra đã lâu nhưng nay mang ý nghĩa thời sự, thời cuộc.
Mọi vấn đề đều diễn ra dưới dạng các sự kiện. Cho nên, sự kiện là đối tượng
phản ánh chủ yếu và là phương tiện chính yếu để báo chí tác động vào công chúng
xã hội. Tuy nhiên, vấn đề là khi nào thì sự kiện bình thường trở thành sự kiện báo
chí và sự khác biệt giữa sự kiện đời sống bình thường và sự kiện báo chí là như thế
nào.
Sự kiện đời sống bình thường và sự kiện báo chí đều là những sự việc có thật
xảy ra; nhưng sự kiện báo chí liên quan đến nhiều người và được nhiều người muốn
biết, cần biết vì nó có ý nghĩa xã hội. Việc xác định sự kiện nào có ý nghĩa nhất thời
và chỉ cần thông báo; sự kiện nào có tính vấn đề, có thể khơi gợi, khơi nguồn vấn đề
thời sự, khơi nguồn dư luận xã hội; cũng như kỹ năng khơi nguồn, phản ánh, định
hướng và điều hoà dư luận xã hội thông qua thông tin sự kiện là những vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn nghề nghiệp trong hoạt động báo chí.
Vậy sự kiện là gì? Dựa vào những tiêu chí nào để phân biệt sự kiện – là cái lạ
và sự kiện – là cái mới?
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà báo là nhận thức và phản
ánh thực tiễn cuộc sống đã và đang diễn ra hằng ngày với những phương thức thông
tin, giải thích, giải đáp và bình luận những gì công chúng quan tâm. Áp lực lớn nhất
và cũng là nghĩa vụ — trách nhiệm xã hội lớn lao đối với nhà báo là thông tin cho
công chúng các sự kiện và vấn đề thời sự, thời cuộc – những vấn đề nhân dân quan
tâm, bức xúc, đòi hỏi
1
Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
2008, tr. 1530.
muốn biết, được biết, được thông tin một cách công khai, minh bạch và thoả
mãn nhu cầu nhận thức về những vấn đề liên quan đến lợi ích của họ; đồng thời
thông qua việc thực hiện quyền được thông tin của nhân dân, báo chí góp phần nâng
cao tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của họ đối với đất nước và cộng
đồng.
Nhưng khi nói nhận thức và phản ánh thực tiễn của nhà báo thì trước hết và
chủ yếu là nhận thức và phản ánh các sự kiện và vấn đề thời sự. Moi vấn đề diễn ra
dưới dạng các sự kiện. Và chỉ có sự kiện mới giúp con người nhận thức rõ ràng,
đúng đắn các vấn đề phức tạp. Sự kiện là minh chứng hùng hồn nhất, đanh thép nhất
thể hiện bản chất vấn đề.
Có sự kiện ngẫu nhiên, có sự kiện tất yếu, bản chất; có sự kiện nguỵ tạo và có
sự kiện có thật, khách quan; có sự kiện chính trị và có sự kiện khoa học – đời sống;
có sự kiện bản thể và sự kiện nhận thức,... Sự kiện bản thể là sự kiện nguyên dạng
trong cuộc sống với đầy đủ các chi tiết vốn có của nó; sự kiện nhận thức là sự kiện
đã được tái tạo thông qua lăng kính nhận thức của nhà báo. Và đương nhiên, khi thể
hiện bản chất tình hình thì không sự kiện nào lại xuất hiện đơn lẻ, rời rạc, mà nằm
trong một chỉnh thể, trong mối quan hệ nào đó, trong một quá trình, một xu thế vận
động (có thể ngoại trừ những sự kiện đột biến như động đất, sóng thần hay bão lụt).
Vấn đề là báo chí được thông tin và công khai các sự kiện, vấn đề công chúng
bức xúc đến đâu trước dư luận xã hội thì còn tuỳ thuộc vào quá trình mở rộng tính
công khai và dân chủ hoá đời sống xã hội. Chẳng hạn, nạn tham nhũng, rút ruột công
trình trong xây dựng ngày một “nóng” lên trong dư luận xã hội và đã trở thành “quốc
nạn”, nhưng vẫn “êm đềm” trôi qua trong nhiều sự cố công trình kém chất lượng
được “đắp chiếu”. Và rồi dư luận xã hội lại “nổi giận” khi sự kiện một số vị tổng
giám đốc, phó giám đốc tổng công ty nhà nước chơi trò đánh bạc, cá độ bóng đá đến
hàng trăm ngàn USD mỗi tháng và đến hàng chục tỷ đồng trong vài năm. Điều đó
phần nào hé lộ nguyên nhân của tình trạng công trình đầu tư với lượng tiền khổng lồ
nhưng mới đưa vào sử dụng trong thời gian ngắn lại đã bị hư hỏng nghiêm trọng.
Hơn nữa, nếu các sự kiện ấy được khơi thức, được lần tìm các mối quan hệ thì các
vấn đề khác cũng có thể được bung ra. Bởi không thể nói đầu tư và quản lý xây dựng
tốt khi hàng loạt công trình nhanh chóng xuống cấp chỉ trong một thời gian ngăn sau
khi đưa vào sử dụng; không thể nói đầu tư và quản lý xây dựng tốt khi giá trị công
trình quyết toán lại gấp hai, gấp ba lần giá trị công trình dự toán ban đầu,...
Bản thân sự kiện nói lên vấn đề và vấn đề được bộc lộ qua chính các sự kiện.
Đồng thời mỗi sự kiện đều có dấu vết của nó. Do vậy, nhà báo cần phát hiện các sự
kiện, các con số và đặt nó trong các mối quan hệ so sánh để có thể phân tích, lý giải
vấn đề một cách sáng rõ và thuyết phục nhất.
Sự kiện là khởi đầu và căn chứng nhưng mục đích của việc phản ánh, thông
tin là phải cắt nghĩa, giải thích và giải đáp được vấn đề. Sự kiện ở PMU 18 không
chỉ là vấn đề của PMU 18 mà đi xa hơn có thể là vấn đề của ngành giao thông vận
tải, của con người và cơ chế quản lý lúc đó. Hoặc lâu nay dư luận xã hội luôn đòi
hỏi nâng cao dân trí, nhưng cuối năm 2004 lại nổi lên vấn đề quan trí. Vấn đề quan
trí lại nổi lên trong quy hoạch đô thị, trong bảo vệ hành lang và môi trường – quần
thể văn hoá trong quá trình đô thị hoá và kinh tế thị trường, hoặc quy hoạch kiến trúc
và tổ chức trật tự giao thông đô thị,... Vấn đề này diễn ra bởi các sự kiện giành giật
để bảo vệ một địa chỉ văn hoá cụ thể, đó là một quả đồi, một rạp chiếu phim, một
địa chỉ vui chơi giải trí công cộng, một hàng cây xanh, công viên,... hay công trình
mang đậm dấu tích văn hoá, lịch sử,...
Chính vì thế, người ta nói rằng, ca sĩ, nhà văn, nhà báo,... đều cần có công
chúng của mình. Công chúng, chứ không phải ai khác, là những người quyết định
vai trò và vị thế xã hội của họ; công chúng cũng là khách hàng nuôi dưỡng họ cả về
vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên nếu ca sĩ “nói chuyện” với công chúng bằng nhạc
phẩm; nhà văn giao tiếp với công chúng thông qua tác phẩm và nhất là các hình
tượng nghệ thuật,... thì nhà báo nói chuyện với công chúng bằng sự kiện và vấn đề
thời sự. Sự kiện là công cụ, là phương tiện hữu hiệu của nhà báo. Săn tin, do đó,
cũng có nghĩa là săn sự kiện.
Có thể nói rằng, mỗi sự kiện đều có tiềm năng thông tin. Tiềm năng ấy có
được khơi thức hay không là tuỳ thuộc vào năng lực nhận thức, vào bàn tay, kỹ năng
nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của nhà báo. Cho nên, muốn khơi thức tiềm năng
thông tin của sự kiện thì nhà báo cần thông hiểu tình hình, nắm bắt được mạch đi
nhịp thở của cuộc sống, những động thái chính trị cũng như các quan hệ kinh tế, văn
hoá, xã hội; đồng thời cần hiểu công chúng mình và có khả năng phán đoán rằng sự
kiện được thông tin, được xã hội hoá sẽ tác động vào những mối quan hệ nào, vào
nhóm công chúng, đối tượng nào và hiệu ứng xã hội của nó sẽ ra sao. Đấy chính là
một trong những “cái khó” của nghề nghiệp báo chí, nó đòi hỏi sự am tường về cuộc
sống cũng như linh cảm chính trị, nghề nghiệp và sự nhạy bén thời cuộc để có thể
săn tin, phát hiện sự kiện đưa tin cũng như phán đoán năng lực và các mối quan hệ
tác động của nó trong bối cảnh cụ thể. Như vậy, nhà báo cần có mô thức và năng lực
phán đoán, tư duy logic cũng như phương pháp luận khoa học, biện chứng trong việc
phát hiện, khám phá để có thể thông tin, cắt nghĩa sự kiện và vấn đề thời sự.
Cũng là sự kiện có thật xảy ra, nhưng có sự kiện đặc trưng cho cái mới, có sự
kiện lại tiêu biểu cho cái lạ. Cái mới và cái lạ có những điểm tương đồng, nhưng lại
có những điểm khác biệt cơ bản.
Cái mới và cái lạ đều là sự kiện có thật, và ở mức độ nào đó, có khả năng hấp
dẫn công chúng – nhóm đối tượng, thậm chí nhiều khi cái lạ có sức hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên cái mới là cái xuất hiện theo quy luật – cái tất nhiên; còn cái lạ xuất
hiện không theo quy luật — cái ngẫu nhiên; cái mới có khả năng nhân rộng và phát
triển, trong khi cái lạ không có khả năng nhân rộng và phát triển; cái mới có ý nghĩa
thiết thực trong đời sống cộng đồng, trong khi cái lạ không có ý nghĩa thiết thực.
Nhưng điều nhà báo nên chú ý là không phải cái mới nào cũng mang giá trị nhân
văn, nhân bản; do đó không phải cái mới nào cũng được cộng đồng đón đợi và hoan
nghênh.
Trong báo chí hiện đại, ngoài thể hiện rõ tính thời sự của thông tin báo chí,
một vấn đề không kém phần quan trọng nữa là kỹ năng tổ chức sự kiện và cách thức
liên kết các sự kiện thông tin để tổ chức chiến dịch thông tin – truyền thông nhằm
khơi nguồn và định hướng dư luận xã hội. Có những sự kiện chỉ có thể thông tin độc
lập, một lần, có thể tạo ra hiệu lực tác động ít hay nhiều, mạnh hay yếu tức thì; nhưng
cũng có những sự kiện nếu biết khai thác, tác động của nó sẽ không chỉ ngày hôm
nay. Vì thế phải tuỳ theo tính chất sự kiện có khả năng khơi nguồn dư luận xã hội
sâu rộng hay không và khả năng đem lại hiệu ứng xã hội tích cực như thế nào để xác
định kế hoạch thông tin tiếp theo. Chiến dịch thông tin – truyền thông “Góp tay xoa
dịu nỗi đau da cam” và “Mãi mãi tuổi hai mươi” trên báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh là những dẫn chứng sinh động về nghệ thuật tổ chức sự kiện, khai thác và
liên kết các sự kiện trong một tiến trình thống nhất nhằm tạo ra hiệu lực và hiệu quả
tác động của báo chí trên quy mô rộng lớn trong quá trình khơi nguồn, phản ánh và
định hướng dư luận xã hội.
Nói báo chí thông tin sự kiện, hay đối tượng thông tin, phản ánh của báo chí
chủ yếu là sự kiện có nghĩa là người làm báo cần quán triệt nguyên tắc tôn trọng sự
thật, thuyết phục bằng sự thật. Đó là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động báo chí mà
bất kỳ ai bước chân vào nghề cũng phải có lời thề danh dự nghề nghiệp như vậy.
Nhấn mạnh đặc điểm thông tin thời sự – thông tin sự kiện và vấn đề thời sự
của báo chí là nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức, nguyên tắc và kỹ năng hành
nghề của nhà báo, cũng như nhận diện giá trị của sản phẩm báo chí. Báo chí phải
hướng tới việc giúp công chúng tiếp cận sản phẩm báo chí với những thông tin sự
kiện và vấn đề thời sự nóng hổi như cầm chiếc bánh mỳ nóng vừa ăn vừa thổi chứ
không phải như thức ăn lạnh ngắt lấy trong tủ lạnh ra, và những thức ăn ấy phải được
chắt lọc từ thực tiễn cuộc sống, từ đời sống hằng ngày góp phần tăng thêm chất “bổ
dưỡng” cho nhận thức của công chúng và nhân dân.
Sự kiện là cơ sở dữ liệu đầu tiên quan trọng nhất của sự thật khách quan.
Nhưng không nên đồng nhất sự kiện với tính chân thực của thông tin báo chí. Từ
thông tin sự kiện đến bảo đảm tính khách quan, tính chân thực của báo chí là cả một
quá trình phức tạp, khó khăn, đòi hỏi sự lao động công phu và nghiêm túc.

4.3.2. Tính công khai của thông tin báo chí


Trong thời đại công nghệ truyền thông số và toàn cầu hoá, thông tin báo chí
không chỉ tác động đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, mọi vùng miền trong cả
nước mà còn đến cả các châu lục khác trên hành tinh. Báo chí hướng tác động đến
quảng đại nhân dân, tác động vào số đông. Đó là tính công khai của báo chí. Công
khai tức là “không giữ kín, mà để cho mọi người có thể biết”. Công khai, minh bạch
là khái niệm của xã hội phát triển và là nhu cầu bức thiết hằng ngày của nhân dân,
của cộng đồng, là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá mức độ dân chủ hoá đời sống xã
hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Công khai trên báo chí tức là báo chí thông tin sự kiện, xã hội hoá Sự kiện,
vấn đề từ một góc phố, làng quê, trong góc nhà hay ngõ phố nào đó và làm cho nó
có thể trở thành sự kiện và vấn đề xã hội, thậm chí toàn cầu. kiện đó sẽ tác động vào
nhận thức, thái độ và hành vi của hàng triệu người, lay động, chi phối, thậm chí lũng
đoạn hàng triệu người. Đó chính là nguồn gốc quan trọng nhất tạo nên sức mạnh xã
hội của báo chí.
Do vậy, có thể nói rằng, tính công khai tiềm ẩn sức mạnh của báo chí bởi tính
công khai là căn nguyên tạo nên dư luận xã hội cũng như khả năng huy động nguồn
lực xã hội. Đối với báo phát thanh, truyền hình, báo điện tử, do đặc trưng của loại
hình, sự tác động đồng thời, toả khắp, sức mạnh xã hội này nhân lên gấp bội. Báo
mạng điện tử lại càng nối dài tầm tay, mở rộng tầm mắt cho công chúng trên phạm
vi rộng lớn; đồng thời lan toả phạm vi tác động ra bên ngoài biên giới quốc gia, lãnh
thổ, vươn tới mọi châu lục trên khắp hành tinh trong môi trường truyền thông số và
hội nhập toàn cầu. Mặt khác, tính công khai và sức mạnh xã hội của báo chí có được
là nhờ sức mạnh của dư luận xã hội – sức mạnh của đông đảo nhân dân. Do đó, nếu
báo chí không gắn bó mật thiết với công chúng và dư luận xã hội thì sức mạnh và
sức sống của báo chí sẽ bị hạn chế, thậm chí bị triệt tiêu. Theo quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, báo chí của ta là báo chí của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng; và Nhà nước của ta, về nguyên lý, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhưng
theo quan điểm của Đảng ta và do đặc thù bẩm sinh của mình, báo chí phải luôn đi
đầu trong thông tin sự kiện. phân tích bản chất sự kiện và vấn đề thời sự, chứ không
nên bị động ngồi chờ hoặc “nghe ngóng” mới dám thông tin.
Nhờ sức mạnh từ tính công khai, báo chí vừa là công cụ, vừa là lực lượng xã
hội trong sự gắn bó chặt chẽ với dư luận xã hội có thể tham gia có hiệu quả vào quá
trình tổ chức, quản lý, giám sát và phản biện xã hội. Tuy nhiên, sức mạnh của tính
công khai trên báo chí phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Thứ nhất, thông tin sự kiện có xác thực, đúng bản chất không? Thông tin sự
kiện xác thực, đúng bản chất giúp công chúng hiểu được bản chất củ sự việc và vấn
đề thông tin.
Thứ hai, thông tin có công khai nhiều chiều không? Công khai thông tin nhiều
chiều giúp công chúng nhìn nhận rõ bản chất sự kiện và vấn đề thông tin, từ đó tỏ
thái độ và hành vi ủng hộ hay phản đối rõ ràng. Thông tin một chiều, bản chất sự
việc dễ bị vo tròn, bóp méo.
Thứ ba, thông tin sự kiện, phân tích vấn đề thời sự cần được tập hợp và phân
tích dưới nhiều góc độ khác nhau để sự kiện và vấn đề thông tin được coi chiếu một
cách sáng rõ, giúp công chúng và dư luận xã hội nhận thức và có thêm cơ sở để bày
tỏ thái độ.
Vấn đề liên quan đến tính công khai của thông tin báo chí có ý nghĩa rất quan
trọng đối với nhà báo trong việc lựa chọn sự kiện và vấn đề thông tin. Khai thác
thông tin, phân tích sự kiện và vấn đề thời sự, thời điểm thông tin của báo chí và
phong cách văn hoá giao tiếp đại chúng trong quá trình khơi nguồn, phản ánh, định
hướng và điều hoà dư luận xã hội; và trên hết là kiến thức, vốn sống thực tế của nhà
báo, năng lực phân tích sự kiện pháp lý, đạo đức nghề nghiệp,... của nhà báo là những
vấn đề có ý nghĩa quan trọng.

4.3.3. Tính mục đích của thông tin báo chí


Có thể nói, bất cứ hoạt động nào của con người đều có tính mục đích, trước
hết là mục đích mưu sinh, sau đó là mục đích khoa học, nghệ thuật, chính trị,... Hoạt
động thông tin của nhà báo và báo chí nói chung càng thể hiện rõ tính mục đích. Để
đạt được mục đích, báo chí luôn tìm mọi cách, mọi phương tiện và cách thức thực
hiện tối ưu hoá trong mối quan hệ giữa sự kiện và vấn đề thông tin với đông đảo
công chúng và dư luận xã hội.
Thông tin báo chí tác động đến động đảo người, liên quan đến việc tập hợp và
thuyết phục công chúng. Cho nên, nói tính mục đích của thông tin báo chí trước hết
phải nói đến mục đích chính trị. Bởi vì thông tin báo chí là để cho nhiều người biết,
liên quan đến vấn đề “tập hợp lực lượng và tranh thủ bạn đồng minh”. Do đó tính tất
yếu, khách quan và phổ biến của mục đích thông tin và tính chính trị của mục đích
trong thông tin báo chí là điều dễ hiểu; và không phải thông tin để mà thông tin. Lịch
sử báo chí thế giới và Việt Nam đã chứng minh điều đó. Ngay trong đêm Cách mạng
Pháp, hai tờ báo chính trị đã được xuất bản. Để tuyên truyền chính trị – học thuyết
chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác cũng đã lập ra tờ báo Sông Ranh mới. Đầu thế
kỷ XX, V.I. Lênin cũng đã xuất bản tờ Tia lửa. Và Nguyễn Ái Quốc, cùng với việc
thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, đã cho xuất bản tờ
Thanh niên từ năm 1925. Hoặc khi thực dân Pháp đưa quân vào xâm lược nước ta,
trên chuyến tàu đầu tiên cập cảng Đà Nẵng, cùng với súng đạn, máy in báo và giấy
báo cũng đã được chuyển đến để xuất bản báo.
Báo chí là phương tiện thông tin tác động đến đông đảo công chúng một cách
thường xuyên, liên tục nhất. Do vậy mọi hoạt động của báo chí luôn gắn với chính
trị. Xét cho cùng, mục đích của báo chí là mục đích chính trị; tuy nhiên hoạt động
báo chí không chỉ nhằm mục đích chính trị, mà còn nhằm các mục đích khác như
văn hoá, dân sinh,... vì báo chí cũng khác như văn hoá, dân sinh lôi kéo, tập hợp,
giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề
kinh tế, văn hoá, xã hội. Báo chí là công cụ lôi kéo, tập hợp lực lượng chính trị có
hiệu quả nhất, là một trong những công cụ và phương thức nâng cao dân trí hiệu quả
nhất. Có thể nêu ra một số phương thức mà báo chí sử dụng để thể hiện mục đích
chính trị:
- Tuyên truyền thông qua sự kiện và vấn đề thời sự. Lựa chọn và thông tin sự
kiện, vấn đề thời sự, qua đó tác động đến nhận thức của công chúng xã hội theo định
hướng tư tưởng đã được hoạch định và lôi kéo họ vào tầm ảnh hưởng của mình.
Trước hết, đó là lựa chọn và xác định liều lượng thông tin sự kiện, chọn góc độ thông
tin và thời điểm, cách thức trình bày sự kiện thông tin, ngôn từ, giọng điệu,...
- Tham gia tổ chức các hội thảo xã hội và tổ chức các hoạt động kinh tế – xã
hội, các phong trào xã hội rộng rãi góp phần tuyên truyền, cổ vũ các quan điểm, tư
tưởng của văn kiện chính trị, biến khẩu hiệu chính trị thành quyết tâm của đông đảo
nhân dân.
– Phân tích, bình luận các sự kiện, vấn đề đã và đang diễn ra nhằm thể hiện
quan điểm, tư tưởng của mình, đấu tranh chống lại các quan điểm tư tưởng đối lập,
sai trái; đồng thời thông qua đó tuyên truyền quan điểm, tư tưởng mà cơ quan báo
chí đại diện, thuyết phục công chúng xã hội và làm cho quan điểm, tư tưởng ấy trở
thành ưu thế, chiếm lĩnh trong đời sống tinh thần của nhân dân.
- Trực tiếp tuyên truyền quan điểm, tư tưởng mà cơ quan báo chí đại - diện.
Đối với báo chí Việt Nam, đó là tuyên truyền đường lối, quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước Việt Nam, là
giáo dục ý thức chấp hành, thực hiện cho nhân dân trong thực tế. Phương thức chủ
yếu mà báo chí nước ta thường làm là giới thiệu tóm tắt (hoặc đăng nguyên văn khi
cần thiết) nội dung cơ bản của văn bản nghị quyết; phân tích thực tiễn quá trình thực
hiện nhằm giải thích và vận động nhân dân thực hiện – đưa nghị quyết vào cuộc
sống; biểu dương những nơi làm đúng, làm tốt, những tấm gương người tốt việc tốt;
phê phán và đấu tranh với những nơi làm do, làm sai; kích thích tính tích cực xã hội;
tạo lập sự đồng thuận xã hội và xây dựng ý thức, thái độ chính trị tích cực trong cư
dân.
Biểu dương những nơi làm đúng, làm tốt và phê phán những sự việc và con
người làm sai, làm trái nhằm bảo vệ đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và
Nhà nước, cũng như các giá trị văn hoá, đạo đức của cộng đồng. Báo chí đấu tranh
chống tiêu cực trong kinh tế thị trường cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp mỗi
khi bị lợi ích nhóm chi phối.
Quá trình tập hợp lực lượng, thuyết phục công chúng xã hội, huy động nguồn
lực trong dân và tham gia tổ chức đông đảo nhân dân tích cực đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi báo chí phải xác định rõ tính
mục đích trong thông tin và tổ chức các chiến dịch truyền thông rộng rãi hướng vào
các nhóm đối tượng xác định.
Cấp độ và phương thức biểu hiện có thể bao gồm: tác phẩm báo chí (chọn sự
kiện và vấn đề thông tin; chọn góc độ tiếp cận; chọn khuynh hướng thể hiện; chọn
ngôn ngữ biểu đạt; chọn thời điểm thông tin,...); trang báo và chuyên mục, số báo;
chiến dịch thông tin – truyền thông; xây dựng kế hoạch – thông tin của toà soạn
(gồm kế hoạch ngắn hạn và dài hạn),...
Báo chí là công cụ thể hiện quyền lực chính trị của nhà nước, đồng thời thể
hiện vai trò, vị thế chính trị của nhân dân trong hệ thống chính trị thông qua đăng tải
ý kiến của nhân dân và hình thành dư luận xã hội, huy động nguồn lực trí tuệ và cảm
xúc của nhân dân vào việc tham gia giải quyết các vấn đề lớn trong quá trình phát
triển1. Báo chí – truyền thông là vũ khí đấu tranh chính trị chống các tư tưởng thù
địch, tư tưởng bảo thủ lạc hậu; đồng thời là phương tiện và phương thức khơi dậy,
phát huy sức mạnh mềm nhân dân – trí tuệ, cảm xúc và niềm tin của nhân dân vào
sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Xem báo chí phản biện xã hội xung quanh Đề án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội – Thành phố
1

Hồ Chí Minh và trục giao thông Thăng Long – Ba Vì, năm 2008.

4.3.4. Thông tin báo chí có tính định kỳ, đều đặn
Định kỳ có thể được hiểu là “từng khoảng thời gian nhất định, sau đó sự việc
lại xảy ra”. Trong báo chí, theo đó, cứ sau một khoảng thời gian, sản phẩm báo chí
được xuất bản, được truyền phát đi. Cứ như thế, định kỳ, đều đặn lặp đi lặp lại. Thực
chất, tính định kỳ của báo chí là sự giao ước với cộng đồng, là hợp đồng trách nhiệm
xã hội của cơ quan báo chí với công chúng xã hội trong việc cung cấp và tiếp nhận
thông tin. Sau khi có quy ước, nếu có sự thay đổi hoặc có sự cố, cơ quan báo chí
phải trân trọng cáo lỗi và thông báo trước cho công chúng.
Mỗi loại hình báo chí thể hiện tính định kỳ theo đặc trưng loại hình và điều
kiện cụ thể về năng lực thu thập, xử lý, sản xuất và chuyển tải sản phẩm báo chí của
mình.
Chẳng hạn, báo in xuất bản cách buổi (báo buổi sáng), cách ngày (nhật báo,
báo hằng ngày), cách vài ngày (báo thưa kỳ), cách tuần (báo tuần hay tuần báo), cách
nửa tháng (bán nguyệt san), cách tháng (báo tháng, nguyệt san). Trên thực tế, ấn
phẩm báo in xuất bản cách tuần ngày nay thường được tổ chức dưới dạng tạp chí,
hoặc là tạp chí tổng hợp (magazine), tạp chí hàn lâm – khoa học, hoặc là tạp chí
thông tin – giải trí, tạp chí thông tin – chỉ dẫn,...
Với báo phát thanh và truyền hình, định kỳ thường với khoảng thời gian ngắn
hơn, có thể tính bằng giờ. Ví dụ, với sự phát triển của kỹ thuật – công nghệ truyền
thông và tốc độ nhanh chóng, dồn dập của các sự kiện thông tin, cứ sau mỗi giờ lại
có chương trình thời sự giờ. Do đó, tính nhanh nhạy là ưu thế vượt trội của các loại
hình báo phát thanh, truyền hình.
Đối với báo mạng điện tử, tính định kỳ hầu như biến mất. Với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin máy tính, báo mạng điện tử có thể xuất bản đơn lẻ – hội hoá
từng tác phẩm tin bài mà không phải chờ hoàn chỉnh kết cấu nhiều tin bài trong một
tệp mới xuất bản. Và bất cứ lúc nào, từng phút, từng giây cũng có thể post tin bài lên
báo mạng điện tử, không cần phải đợi một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên,
báo mạng điện tử vẫn có tính định kỳ tương đối của nó. Chẳng hạn, định kỳ tiếp
nhận thông tin theo múi giờ và chu kỳ hoạt động sống của công chúng, theo thói
quen giờ truy cập. Cán bộ công chức, viên chức hay truy cập mạng internet giờ nào;
sinh viên và các nhóm công chúng khác truy cập giờ nào. Hoặc trong lúc ở Việt Nam
2 giờ sáng thì ở New York là 2 giờ chiều, cho nên thông tin nào cần tác động vào
công chúng ở địa bàn này thì vẫn phải trực và post bài lên mạng.
Tính định kỳ tiềm ẩn sức mạnh của báo chí, bởi giao ước giữa cơ quan báo
chí với công chúng sẽ tạo ra phản xạ có điều kiện trong tâm lý và thói quen tiếp nhận
thông tin của công chúng.
Với báo chí hiện đại, được hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ truyền thông,
khoảng cách định kỳ ngày càng rút ngắn lại. Báo in thì có báo buổi sáng, báo buổi
chiều; các bản tin thời sự được xuất bản dày hơn. Chương trình thời sự của phát
thanh, truyền hình trước đây tính theo buổi, hoặc 3 giờ một thì ngày nay từng giờ
đều có chương trình thời sự.
Tác động chi phối của tính chất định kỳ của báo chí đối với hoạt động nghề
nghiệp của nhà báo và quy trình sản xuất các ấn phẩm báo chí được thể hiện như
sau:
- Trước hết, nó chi phối tư duy và phong cách làm báo của nhà báo. Cách tư
duy, tiếp cận của người làm nhật báo, chương trình thời sự khác với người làm báo
tuần hoặc chương trình chuyên đề, chuyên mục.
- Ngôn ngữ và cách trình bày thông điệp cũng khác nhau giữa nhật báo,
chương trình thời sự và chương trình chuyên đề so với báo tuần cũng như các ấn
phẩm chương trình chuyên đề.
- Tính định kỳ giúp công chúng và công dân cách ứng xử với thông tin báo
chí mỗi khi có nhu cầu tham gia, hoặc có xung đột cần giải quyết.
Ý nghĩa của tính định kỳ đối với hoạt động sáng tạo của nhà báo và giao tiếp
ứng xử với báo chí: Tạo ra phản xạ có điều kiện tiếp nhận thông tin cho công chúng;
Phản ánh sinh động và kịp thời nhịp điệu cuộc sống hiện đại; Hình thành phong cách
lao động tác nghiệp của đội ngũ nhà báo; Xây dựng kỷ luật lao động và nhịp điệu
làm việc của toà soạn báo chí; Là cơ sở hình thành kế hoạch và cách thức làm việc,
giao tiếp với công chúng xã hội.

4.3.5. Tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều của thông tin báo chí
“Phong phú” có thể được hiểu là nhiều kiểu cách thông tin và lắm màu vẻ;
“đa dạng” là có nhiều dạng biểu hiện khác nhau.
Trong các loại hình truyền thông đại chúng, thông tin báo chí phong phú và
đa dạng nhất. Điều đó thể hiện trên các bình diện sau đây:
– Đối tượng phản ánh của báo chí là các sự kiện, vấn đề đã và đang diễn ra
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hoá, đời sống bình dân,...
trên bình diện chung cũng như đời sống riêng của mỗi con người, liên quan đến vấn
đề xã hội và được đông đảo công chúng quan tâm. Có thể nói rằng, không một sự
kiện, vấn đề hay tình hình nào xảy ra liên quan đến cộng đồng mà báo chí không
quan tâm.
- Đối tượng tác động của báo chí hết sức phong phú, đa dạng. Đó là công
chúng xã hội nói chung – quần thể cư dân không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp,
giai cấp, trình độ,...; hoặc là các nhóm đối tượng – công chúng chuyên biệt, đặc thù
theo nhóm tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, địa bàn và mức sống,... Chính nhu
cầu, sở thích và tâm lý tiếp nhận của công chúng quy định tính phong phú và đa dạng
của thông tin báo chí. Đồng thời, tính phong phú, đa dạng, nhiều chiều đòi hỏi sự
phù hợp với công chúng – nhóm đối tượng; và chính sự phù hợp này lại tạo cho báo
chí có nét riêng, tránh sự trùng lắp, nhàm mòn.
- Tâm lý và tâm trạng, sở thích, nhu cầu, thị hiếu của công chúng – nhóm đối
tượng, hết sức đa dạng. Cùng một vấn đề nhưng làm cho chương trình thời buổi sáng
thì cách trình bày, diễn đạt,... cũng khác với làm cho chương trình thời sự buổi tối.
Bài viết cho báo ngày khác với viết cho báo tuần, báo thưa kỳ,...
- Các kênh chuyển tải thông tin báo chí phong phú, từ báo in, phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử cho đến sự liên kết giữa các loại hình báo chí với các
mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác,...
– Phương tiện và phương thức thông tin nhiều dạng vẻ khác nhau.
Báo in với ký hiệu chữ viết và hình ảnh, màu sắc tác động vào mắt – thị giác,
con người. Báo in với những đặc trưng và thế mạnh riêng là trục chính của báo chí
truyền thông hiện đại. Báo in đòi hỏi khai thác triệt để năng lực lựa chọn sự kiện và
phân tích vấn đề, tác động vào tư duy logic; từ đó có thể thuyết phục công chúng xã
hội.
Báo phát thanh với ba chất liệu chính là lời nói, tiếng động và âm nhạc có thể
tạo dựng lên bức tranh cuộc sống hiện thực về những điều mắt thấy tai nghe sinh
động và hấp dẫn người nghe thông qua con đường thính giác, tạo khả năng liên
tưởng,... Trong đời sống xã hội hiện đại, phát thanh ngày càng tỏ rõ những lợi thế
trong việc chiếm lĩnh và thuyết phục công chúng, chứ không phải sẽ bị diệt vong
như nhiều người tiên đoán sau khi truyền hình xuất hiện.
Báo truyền hình với ký hiệu lời nói, hình ảnh động, tiếng động, âm nhạc, màu
sắc hết sức sống động trong việc thông tin sự kiện, tạo cho công chúng cảm giác như
đang giao tiếp trực tiếp với những người trong cuộc. Truyền hình vẫn đang có nhiều
lợi thế trong chiếm lĩnh công chúng – thị trường truyền thông, đặc biệt là trong môi
trường công nghệ số.
Báo mạng điện tử có thể mạnh trong sử dụng tổng hợp các loại ký hiệu và
phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thiết kế và chuyển tải thông điệp. Đó là
truyền thông đa phương tiện (multimedia). Truyền thông online – đa phương tiện,
trên nhiều bình diện, là xu thế và sức mạnh có một không hai, đang trở thành mạng
kết nối ưu việt nhất hiện nay.
- Phương thức thông tin của báo chí cũng rất phong phú, linh hoạt, từ đưa tin
sự kiện, giải thích và phân tích, bình luận, chuyên luận cho đến các dạng thức tiểu
phẩm, bút ký, tranh ảnh, biếm hoạ,... phù hợp với mục đích và nhiệm vụ thông tin,
với tâm lý, thị hiếu, sở thích,... của công chúng – nhóm đối tượng, phù hợp với tâm
lý và tâm trạng xã hội.
Thông tin nhiều chiều, nhiều góc độ tiếp cận của báo chí giúp cho công chúng
nhận thức sâu sắc hơn bản chất các sự kiện và vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Nhấn
mạnh khía cạnh thực tế này, ngay thời kỳ trước C. Mác, các nhà nghiên cứu đã đặt
vấn đề chức năng nhận thức của báo chí, do báo chí cung cấp sự kiện thực tế, nhiều
chiều làm cơ sở cho nhận thức đúng bản chất của các sự kiện và vấn đề thời sự của
thực tiễn đang vận động. Tuy - nhiên thông tin nhiều chiều của báo chí còn phụ thuộc
vào tư duy và văn hoá chính trị, môi trường văn hoá giao tiếp, mức độ dân chủ hoá
đời sống xã hội cũng như năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp của nhà báo:
Đối tượng tác động của báo chí là công chúng xã hội, đông đảo dân cư nói
chung. Sự kiện và vấn đề mà báo chí thông tin hướng vào phục vụ số đông và nhằm
giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ xã hội đang đặt ra hôm nay, hoặc là vấn đề liên quan
đến các nhóm đối tượng, cần cho số đông hiểu ngay, có thể thống nhất nhận thức
ứng xử và xử lý ngay. Cho nên, ngoài những vấn đề tranh luận, thảo luận để tìm
kiếm sự tương đồng, thông tin báo chí bảo đảm cho hàng triệu người cùng phải hiểu
ngay lập tức và hiểu như nhau. Hiểu như nhau mới có khả năng thống nhất nhận
thức nhanh và cùng hành động nhanh, cũng như thống nhất phương thức ứng xử với
vấn đề đang diễn ra.
Do đó, thông tin báo chí dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo là do yêu cầu đòi hỏi
từ cuộc sống, từ công chúng xã hội mà báo chí cần phải đáp ứng để thoả mãn nhu
cầu nhận thức và xử lý các vấn đề đang diễn ra liên quan đến cộng đồng, đến công
chúng – nhóm đối tượng. Sự kiện và vấn đề báo chí tiếp cận phải dưới góc độ phổ
quát nhất, liên quan đến nhiều người nhất. Cách nói, cách viết dễ hiểu, dễ nhớ nhất.
Chẳng hạn, trên sóng phát thanh, truyền hình và trong bài viết không nên trình bày
vấn đề một cách phức tạp, không dùng nhiều những con số lẻ, số liệt kê làm cho
công chúng khó nhớ và có thể làm cho bản tin thêm rối rắm,... Chỉ nên dùng các khái
niệm, thuật ngữ phổ biến, người dân hay dùng và dễ hiểu. Các khái niệm mới, khó
hiểu được dùng trong bài nên có sự giải thích ngắn gọn. Trong bản tin, nên dùng câu
đơn, câu thông báo và dùng ngôn ngữ sự kiện, tức là để sự kiện nói lên ý đồ thông
tin của nhà báo. Tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo trong mô hình thông tin – chỉ
dẫn trên truyền hình có ý nghĩa thiết dụng nhất.
Dễ hiểu, tức là báo chí đem đến cho công chúng những bài viết mà trình độ
chung của nhân dân có thể hiểu một cách dễ dàng và hiểu ngay. Thông tin báo chí
phải bảo đảm rằng người có trình độ cao tiếp nhận không thấy nhàm chán, nhưng
người có trình độ thấp cũng không thấy khó hiểu. Đó là yêu cầu và đặc điểm của
giao tiếp đại chúng trên truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng.
4.3.7. Tính tương tác Tương tác là tác động qua lại với nhau, quan hệ hai
chiều giữa các sự
vật, hiện tượng. Có tương tác vật lý, hoá học giữa các sự vật, hiện tượng v
cũng có tương tác xã hội. Tương tác xã hội là quá trình tác động qua lại giữa dung
và các cá nhân, nhóm xã hội với tư cách là chủ thể trong xã hội. Tương tác xã hội
(TTXH), theo Từ điển bách khoa, là “khái niệm xã hội học chỉ ra rằng mỗi hoạt động
có mục đích của con người chỉ trở thành hoạt động xã hội khi nó năm trong một số
mối quan hệ giữa các chủ thể hoạt động và thông qua các mối quan hệ đó. Đồng thời
khái niệm đó cũng nói lên rằng mỗi quan hệ đều gắn liền với một hoạt động nhất
định. Sự TTXH tồn tại trong sự tác động qua lại của mỗi hiện tượng, quá trình hay
hệ thống xã hội, nói lên những mối liên hệ và quan hệ trong hiện thực. Nhưng không
phải mọi thứ trong hiện thực xã hội đều có thể sử dụng khái niệm này để giải thích.
Sự TTXH chi tồn tại trong những điều kiện xã hội đặc thù, các điều kiện đó được
thực hiện do sự kết hợp của ba nhân tố có liên quan với nhau: hoạt động xã hội, chủ
thể xã hội và quan hệ xã hội”. Vấn đề, phạm vi, mức độ và tính chất TTXH phản
ánh mức độ dân chủ hoá đời sống xã hội.
Tương tác xã hội có những đặc thù riêng. Mỗi cá nhân hay nhóm, trong quá
trình tương tác, vừa là chủ thể vừa là khách thể và đều chịu ảnh hưởng, chi phối của
các chuẩn mực, giá trị xã hội, tâm lý xã hội và trường văn hoá với những tương đồng
và khác biệt. Trong tương tác, mỗi người, mỗi nhóm xã hội chịu những tác động
khác nhau như lợi ích, động cơ, trình độ hiểu biết, văn hoá, nhân cách,... Quá trình
tương tác vừa tạo nên diện mạo, chân dung của mỗi cá nhân, nhóm tham gia với
những tương đồng và khác biệt, hợp tác và chia sẻ. Tương tác xã hội có thể làm gia
tăng năng lực tư duy, sáng tạo của mỗi người và mỗi nhóm xã hội do “cọ xát” tư
duy, nhận thức trong quá trình tăng dần những tương đồng, giảm dần sự khác biệt.
Trong truyền thông, tương tác có nghĩa là sự tác động, giao tiếp hai chiều với
công chúng trong những điều kiện và vấn đề cụ thể nào đó. Một trong qua lại giữa
chủ thể với khách thể truyền thông, giữa nhà truyền thông những nguyên lý quan
trọng của truyền thông là tương tác càng nhiều tần I càng cao, tương tác càng bình
đẳng bao nhiêu thì năng lực và hiệu quả suất truyền thông càng cao bấy nhiêu.
Tương tác không phải là dòng thông tin phản hồi chậm chạp và rời rạc mà là
hầu như đồng thời diễn ra, trao đổi qua lại giữa chủ thể và khách thể; mặt khác, giữa
chủ thể và khách thể có sự chuyển đổi vị trí cho nhau. Tương tác càng không phải là
dòng thông tin một chiều áp đặt, mà là tương tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, trên
cơ sở tăng dần những tương đồng, giảm dần những khác biệt giữa chủ thể truyền
thông và công chúng xã hội, hoặc giữa các nhóm công chúng khác nhau. Tương tác
xã hội là phương thức cơ bản trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ kỹ năng
và kinh nghiệm, tìm kiếm, trao đổi và nâng cao năng lực sáng tạo giá trị mới cho
mỗi cá nhân, Cho moi ca in nhóm xã hội và cộng đồng nói chung. Do vậy, tương tác
xã hội trong thông tin báo chí có trở thành đặc điểm nổi trội hay không còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố.
Tương tác xã hội trong báo chí là đặc điểm thông tin của báo chí hiện đại nhờ
sự trợ giúp của công nghệ thông tin truyền thông số, cùng với sự phát triển của xã
hội trên các bình diện như trình độ dân cư, thiết chế dân chủ xã hội và trình độ, năng
lực của báo chí chuyên nghiệp.
Trong thông tin báo chí, tương tác bình đẳng nhưng cần phải có kỹ năng định
hướng thông tin, hướng dẫn dư luận xã hội. Cơ sở đánh giá hiệu quả tương tác thông
tin báo chí là tạo ra sự đồng thuận xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững, phòng
tránh những nguy cơ bất ổn trong cộng đồng. Do đó, để bảo đảm tính tương tác trong
thông tin báo chí về những vấn đề nêu ra, đòi hỏi người làm báo không những cần
có kiến thức, trình độ, am hiểu vấn đề, mà còn có phong cách làm báo chuyên nghiệp
– có nguyên tắc, kỹ năng tác nghiệp cùng với sự hiểu biết thấu đáo vấn đề, chia sẻ
với nhóm công chúng xã hội cũng như hướng dẫn dư luận xã hội.
Tuy nhiên, tương tác xã hội trong thông tin báo chí chủ yếu nói đến vai trò
báo chí như cầu nối, phương tiện và phương thức tương tác giữa công chúng xã hội
với giới công, với các nhà hoạch định chính sách, các nhà lãnh đạo, quản lý,... trên
những vấn đề lớn, ảnh hưởng đến quá trình phát triển và đời sống nhân dân.
Vấn đề nhận thức rõ tính tương tác xã hội trong báo chí có ý nghĩa to lớn, thiết
thực đối với người làm báo chuyên nghiệp và đối với sự phát triển nói chung.
4.4. TÍNH ĐA PHƯƠNG TIỆN

Multimedia theo tiếng Việt có nghĩa là đa phương tiện. “Đa phương tiện có
nghĩa rộng là tổ hợp của văn bản, hình, hoạt hình, âm thanh và video. Các loại hình
đa phương tiện có tương tác với nhau. Ba loại đa phương tiện tương tác thông dụng
là: Thể hiện tuần tự, theo các nhánh chương trình hoá, siêu đa phương tiện”1. Như
vậy “đa phương tiện là kỹ thuật mô phỏng đồng thời và sử dụng nhiều dạng phương
tiện chuyển hoá thông tin và các tác phẩm tạo từ kỹ thuật đó”2.
Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa truyền thông hay truyền thông đa
phương tiện (phương pháp giới thiệu thông tin bằng máy tính, sử dụng nhiều phương
tiện truyền tải thông tin (như) văn bản, đồ hoạ và âm thanh, hình ảnh,... cùng với khả
năng gây ấn tượng bằng tương tác). Multimedia cho phép kết hợp các loại hình
truyền thông trong việc chuyển tải thông điệp nhằm gây chú ý, hấp dẫn và gia tăng
khả năng thuyết phục công chúng. Thông điệp, sản phẩm multimedia có khả năng
tác động vào nhiều giác quan con người, không chỉ tăng độ hấp dẫn, mà quan trọng
là tính khách quan, chân thực, độ tin cậy của thông tin.
Multimedia là đặc trưng và là thế mạnh nổi trội của báo mạng điện tử — loại
hình báo chí hiện đại ra đời sau và thể hiện nhiều đặc tính ưu việt hiện đại nhất. Hiện
nay, loại hình báo chí này chủ yếu gắn với nhóm công chúng – đối tượng trẻ, nhóm
cư dân mạng. Đối với nhóm cư dân này, họ không chỉ tiếp nhận sản phẩm multimedia
mà còn sản xuất ra và xã hội hoá sản phẩm của mình trên mạng intemet thông qua
các mạng xã hội, dưới dạng các weblog, facebook và trang tin cá nhân. Ở Việt Nam,
chính hoạt động của cư dân mạng đã và đang tạo nên áp lực thúc đẩy báo chí phát
triển, nhanh chóng tiếp cận và quảng bá sản phẩm multimedia theo hướng hoặc là
tăng cường các sản phẩm multimedia trên các báo mạng điện tử, hoặc là liên kết với
mạng xã hội, weblog, hoặc là cả hai để làm cho sản phẩm thông tin báo chí phong
phú thêm và thu hút nhóm công chúng trẻ.
Tính tương tác và tính chất multimedia là hai đặc điểm nổi trội của báo chí
hiện đại, trong đó tiêu biểu và đặc trưng là báo mạng điện tử. Từ những
đặc trưng này, nhờ phát triển của công nghệ truyền thông số, trong truyền hình
và phát thanh đã xuất hiện khái niệm chương trình tương tác, chương trình thực tế,...
Và ngay trong báo in hiện đại, ngôn ngữ, tư duy và cách trình bày tác phẩm, trình
bày số báo cũng dần dần chịu ảnh hưởng và áp dụng tính tương tác xã hội của truyền
thông.
1
Theo TS. Đỗ Trung Tuấn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
2
Theo TS. Đỗ Trung Tuấn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích bản chất của hoạt động báo chí truyền
thông.
2. Phân tích đặc điểm, tính chất của thông tin báo chí. So sánh thông tin báo
chí với các loại thông tin khác.
3. Phân tích mối quan hệ: Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng. Thử đưa mô
hình về mối quan hệ này.
4. Phân tích báo chí – loại hình hoạt động thông tin chính trị – xã hội, hoạt
động kinh doanh – dịch vụ.
5. Phân tích đặc điểm cơ bản của thông tin báo chí.
6. Phân tích khái niệm báo chí từ quan điểm hệ thống.

Chương 5

CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ

5.1. KHÁI NIỆM


Chức năng (function) là tổng hợp của vai trò và tác dụng. Có thể coi chức
năng là những nhiệm vụ trọng tâm nhất, cơ bản nhất mà một sự vật, hiện tượng phải
đảm nhiệm để nó là chính nó chứ không phải là một thực thể nào khác.
Báo chí là một hiện tượng xã hội đặc biệt, một loại hình truyền thông đại
chúng đa chức năng. Lênin đã chỉ ra, báo chí có chức năng chính là “tuyên truyền
tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể”. Đặt trong bối cảnh báo chí cách mạng
Việt Nam, những chức năng ấy vẫn là cơ sở chủ yếu để xác lập trách nhiệm của báo
chí với đời sống xã hội. Theo GS. Tạ Ngọc Tấn, báo chỉ có chức năng tư tưởng, chức
năng giám sát, quản lý xã hội và chức năng khai sáng, giải trí,... Dựa trên bản chất
thông tin của hoạt động bảo chí, nhà báo Hữu Thọ cho rằng báo chí còn có chức
năng thông tin, là cơ sở để thực hiện các chức năng khác. Dựa trên cơ sở doanh thu
của một số tờ báo, có một số ý kiến cho rằng báo chí có chức năng kinh doanh. Theo
quan điểm của tác giả, báo chí phải đảm bảo các chức năng chính: chức năng thông
tin, chức năng văn hoá – giáo dục – giải trí, chức năng tư tưởng, chức năng kinh
doanh – dịch vụ và chức năng quản lý, giám sát xã hội.

5.2. CÁC CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ


5.2.1. Chức năng thông tin Chức năng thông tin là chức năng quan trọng
hàng đầu của báo chí.
Bởi lẽ, báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của công
chúng và sự phát triển của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin giao
tiếp trong xã hội. Nhu cầu này là tự nhiên và mang tính bản thể. Khoa học đã chứng
minh, một đứa trẻ còn trong bụng mẹ cũng đã có nhu cầu thông tin – giao tiếp, có
thể tiếp thu cả những âm thanh từ bên ngoài như tiếng gọi của cha mẹ hay âm nhạc,...
Một xã hội ngay từ thời nguyên thuỷ cũng đã có nhu cầu thông tin, kết nối xã hội,
hợp tác lao động, chống kẻ thù,... Sự ra đời của báo chí chính là cột mốc quan trọng
đánh dấu nhu cầu thông tin – giao tiếp ở mức độ cấp thiết và khả năng đáp ứng của
các phương tiện truyền tin đã đạt đến trình độ cao hơn hẳn trước đó.
Báo chí thực hiện chức năng thông tin – giao tiếp còn nhằm thực hiện các
chức năng khác. Nói cách khác, mọi chức năng của báo chí đều được thực hiện thông
qua con đường thông tin. Báo chí thông tin để thực hiện chức năng tư tưởng, định
hướng dư luận xã hội; thông tin để thực hiện vai trò giám sát, quản lý xã hội; thông
tin để thực hiện chức năng văn hoá, giải trí,... Tóm lại, thông tin là chức năng bao
trùm, trực tiếp của báo chí.
Thực hiện chức năng thông tin, báo chí phải đảm bảo tính chân thực, chính
xác, độ nhanh nhạy, kịp thời,... Thông tin báo chí phải đảm bảo tính thời sự, diễn tả
những điểm nóng, những vấn đề nổi cộm nhất trong đời sống. Tuy vậy, bên cạnh
mảng thông tin trên, thông tin báo chí còn có một mảng thứ hai nữa là những thông
tin có tính chuyên đề, ẩn chứa tầng sâu tri thức,... Điều này thể hiện rõ mục tiêu phục
vụ xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin chính đáng của công chúng.
5.2.2. Chức năng tư tưởng
Chức năng thứ hai của báo chí là chức năng tư tưởng. Công tác chính trị – tư
tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các chính đảng, các tổ chức xã hội cũng
như các giai cấp nắm quyền lãnh đạo. Mục đích của công tác tư tưởng là nhằm tác
động vào ý thức xã hội, hình thành một hệ tư tưởng chính thống với những định
hướng nhất định. Để có được sự chi phối toàn bộ đời sống xã hội thì ngoài những
quyền lực về kinh tế, chính trị, quân sự còn cần có sự chi phối trong lĩnh vực tinh
thần. Việc tác động vào thế giới tinh thần của con người, hình thành một ý thức tiến
bộ xã hội và khoa học không chỉ có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực tinh thần của xã
hội mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để phát huy nguồn lực trong
các lĩnh vực kinh tế, xã hội cũng như để tập hợp quần chúng phát huy những tiềm
năng to lớn của nhân dân nhằm xây dựng xã hội theo con đường đã định.
Mục đích trực tiếp của công tác tư tưởng là liên kết các thành viên riêng rẽ
của xã hội thành khối thống nhất trên cơ sở một lập trường chính trị chung, với trách
nhiệm và thái độ tích cực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ đầu tiên trong hoạt động tư tưởng của báo chí là nâng cao tính tự
giác của quần chúng. Để thực hiện mục tiêu này, báo chí phải góp phần nâng cao
nhận thức của quần chúng. Trình độ nhận thức chính là tiền đè quy định mức độ tự
giác của nhân dân. Tính tự giác thể hiện ở sự nhận thức vị trí của mỗi cá nhân trong
các mối quan hệ xã hội, sự nhận thức mục đích, ý nghĩa cuộc sống, những nhu cầu
về lợi ích, về con đường và biện pháp để thực hiện nhu cầu đó.
Báo chí là một trong những phương tiện quan trọng của Đảng để thực hiện
chức năng giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng. Hoạt động giáo dục tư tưởng
của báo chí dựa trên sự tác động của tính thuyết phục bằng việc thông tin sự kiện,
hiện tượng, quá trình của đời sống xã hội một cách trung thực và khách quan. Sự
phản ánh kịp thời, phong phú các sự kiện kết hợp với minh chứng chặt chẽ về mặt
khoa học là cơ sở tạo nên chất lượng mới trong nhận thức của công chúng - sự nhận
thức có lý trí, tự giác những quan điểm về cuộc sống, những lý tưởng xã hội, những
giá trị của hiện thực.
Trong khi tham gia tích cực vào sự hình thành các yếu tố của ý thức xã hội,
báo chí còn tiến hành các hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể.
Nội dung tuyên truyền của báo chí gồm: (1) Truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và thế giới quan khoa học của chủ nghĩa xã hội cho quần
chúng; (2) Tuyên truyền, giải thích cho quần chúng đường lối, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội; (3) Phân tích, đánh
giá, nhận định tính chất, xu hướng vận động các mâu thuẫn cơ bản của từng nước,
từng khu vực và của cả thế giới; (4) Truyền bá những tri thức lịch sử văn hoá khoa
học tiên tiến nhằm xây dựng và phát triển lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc.
Cổ động là hoạt động của báo chí nhằm đưa đến cho quần chúng những thông
tin có khả năng tác động tích cực vào lập trường và thái độ của họ.

Tổ chức là hình thức hoạt động có tính bản chất của báo chí. Đó là kết quả
tổng hợp của tuyên truyền, cổ động và là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả của
những hoạt động đó.
Tóm lại, các hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức của báo chí có mối
liên hệ mật thiết với nhau.

5.2.3. Chức năng văn hoá – giáo dục – giải trí


Chức năng thứ ba của báo chí là chức năng văn hoá – giáo dục – giải trí, Thực
chất đó là một tổ hợp các chức năng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
– Chức năng văn hoá: Văn hoá, hiểu theo nghĩa rộng, là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động lịch sử.
Trong dòng chảy của cuộc sống, những giá trị văn hoá sẽ tích tụ, lan toả, tác động
sâu sắc đến đời sống tinh thần nhiều thế hệ, tầng lớp nhân dân,... Trách nhiệm của
báo chí – cơ quan truyền thông đại chúng có khả năng tác động mạnh mẽ nhất, tính
lan toả và tương tác cao nhất – chính là ở chỗ vun trồng, chăm sóc, nâng niu, trân
trọng và chuyển tải rộng rãi ra công chúng những giá trị văn hoá lành mạnh, thể hiện
tầm vóc văn minh nhân loại và dân tộc. Đồng thời, báo chí đấu tranh không khoan
nhượng với những hành vi phản văn hoá, những hiện tượng giả văn hoá, làm trong
sạch môi trường xã hội, tạo điều kiện cho cái tốt vươn lên.
- Chức năng giáo dục: Là một chức năng khách quan của báo chí. Bên cạnh
chức năng giáo dục tư tưởng và quản lý, giám sát xã hội, báo chí còn là kênh truyền
bá, phổ biến một cách sinh động, hấp dẫn các loại hình và tác phẩm văn hoá, văn
nghệ để nâng cao trình độ hiểu biết và đáp ứng nhu cầu văn hoá giải trí của nhân
dân. Với lợi thế của mình, từng số báo, từng chương trình phát thanh, truyền hình,...
hằng ngày hằng giờ truyền bá những giá trị văn hoá của dân tộc, tinh hoa văn hoá
nhân loại, góp phần khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc trong thời đại giao lưu quốc
tế rộng mở hiện nay.
– Chức năng giải trí: Là chức năng phổ biến các tác phẩm văn học nghệ thuật,
âm nhạc, điêu khắc, hội hoạ, kiến trúc, điện ảnh, các hoạt động văn hoá, lễ hội,...
nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng. Đây là điều kiện quan trọng để đại
chúng hoá các giá trị văn hoá tinh thần tốt đẹp của nhân loại và phát triển con người
một cách toàn diện – mục tiêu cao cả của chế độ ta.
- Bên cạnh việc truyền bá các tác phẩm văn hoá, văn nghệ nói trên thì thông
tin quảng cáo trên báo chí cũng có ý nghĩa xã hội to lớn, đáp ứng nhu cầu phong
phú, đa dạng của nhân dân. Các quảng cáo chỉ dẫn, dự báo thời tiết, giá cả thị trường,
thông báo chương trình phát thanh truyền hình, lời cảm ơn, điện chúc mừng,... đều
làm phong phú thêm nội dung thông tin của báo chí, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết
thực của nhân dân.

5.2.4. Chức năng giám sát, quản lý và phản biện xã hội


Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.
Quản lý xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý vào khách thể
quản lý nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của xã hội đạt hiệu quả và mục đích đề
ra. Đây là hoạt động có ý thức của con người trong hệ thống xã hội, trong đó con
người là yếu tố quyết định.
Báo chí thực hiện quá trình giám sát, quản lý và phản biện xã hội bằng các nội
dung chủ yếu sau đây:
- Đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và
các cấp, các ngành cho các tổ chức và các thành viên xã hội hiểu và hành động trong
thực tiễn.
– Báo chí tham gia tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành trong xã hội. Phản ánh,
phân tích kịp thời tình hình thực tế, hiện trạng công việc của các địa phương, cơ sở
sản xuất hoặc một vấn đề nào đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Báo chí cùng với nhân dân đề xuất sáng kiến, đưa ra kiến nghị, giải pháp cho
hoạt động quản lý hiệu quả hơn trên cơ sở phân tích sâu sắc, toàn diện và khoa học
các số liệu, dữ liệu cần thiết.
- Báo chí có khả năng to lớn trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cực,
biểu dương những điển hình tiên tiến, phanh phui những mặt trái của đời sống xã
hội đồng thời đề ra giải pháp tháo gỡ, khắc phục.
5.2.5. Chức năng kinh doanh – dịch vụ
Đề cập tới khía cạnh này, có ý kiến còn lo ngại rằng, nếu thừa nhận chức năng
kinh doanh, vô hình trung chúng ta sẽ hạ thấp chức tưởng, vũ khí đấu tranh, công cụ
tuyên truyền của báo chí. Nếu thực hiện choy the kinh doanh như một chức năng,
báo chí sẽ phải chạy theo lợi nhuận, sẽ bỏ rơi tôn chỉ, mục đích. Sản phẩm báo chí
vì thế sẽ chỉ thuộc về những người có tiền, điểm chính trị của tờ báo sẽ bị thiên lệch
theo lợi ích của quan những người bỏ tiền ra mua báo, thậm chí “mua” luôn người
làm báo,...
Trên thực tế, kinh doanh đã là một phần hoạt động của các cơ quan báo chí.
Báo chí phải có công chúng và muốn có công chúng, báo chí phải hiểu rõ công
chúng. Trong cơ chế thị trường, một bộ phận lớn công chúng sẵn o che sàng trả tiền
tương xứng với những thông tin mà mình mong muốn. Đó là một nhu cầu có thực
và lành mạnh. Mặt khác, nhiều cơ quan báo chí đang phải đóng các khoản phí và
thuế như các điều kiện kinh doanh, như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng. Nhìn
về hoạt động kinh doanh cụ thể, báo chí có hai hướng kinh doanh chính là: kinh
doanh sản phẩm hàng hoá (bán báo, thu tiền thuê bao truyền hình cáp,...), kinh doanh
dịch vụ (chủ yếu là quảng cáo). Ngoài ra, nhiều cơ quan báo chí còn thực hiện các
hoạt động kinh doanh ngoài báo chí như tổ chức các sự kiện.
Rõ ràng, không thể phủ nhận chức năng kinh doanh – dịch vụ của báo chí.
Tuy nhiên, phải điều chỉnh hoạt động này trên cơ sở phân định nó với chức năng cơ
bản, chức năng chủ đạo là thông tin. Thông tin là để phục vụ số đông, phục vụ cộng
đồng xã hội. Còn quảng cáo là phục vụ lợi ích nhà kinh doanh, lợi ích người bỏ tiền
ra làm quảng cáo. Báo chí không thể chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá mà bỏ quên
trách nhiệm thông tin, trách nhiệm phục vụ cộng đồng. Xét về hiệu quả kinh doanh,
cũng không có nhà sản xuất, nhà dịch vụ làm ăn chân chính, lâu dài nào lại bán đứng
uy tín, giá trị thương hiệu của mình chỉ vì những lợi ích cụ thể, trước mắt. Do đó,
báo chí phải có trách nhiệm với thông tin của mình, phải từ chối những quảng cáo,
dịch vụ sai luật, đi ngược lại lợi ích xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, vi phạm
các giá trị đạo đức hay chính trị,... Đó cũng là lợi ích tự nhiên của một loại hình hoạt
động có tác động sâu sắc và lâu dài tới đời sống xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích khái niệm chức năng và chức năng báo chí. Hệ thống các chức
năng báo chí.
2. Anh (chị) hãy chứng minh chức năng thông tin là chức năng có tính bản
chất của báo chí.
3. Phân tích chức năng tư tưởng của báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
4. Phân tích chức năng văn hoá, giáo dục và giải trí của báo chí. Cho ví dụ
chứng minh.
5. Phân tích chức năng giám sát, quản lý và phản biện xã hội của báo chí.
Cho ví dụ chứng minh
6. Phân tích chức năng kinh doanh – dịch vụ của báo chí. Vai trò của báo chí
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cho ví dụ chứng minh.
Chương 6

NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ

6.1. KHÁI NIỆM VỀ NGUYÊN TẮC


Nguyên tắc (tiếng Latinh: Principium – chỉ sự bắt đầu, nền tảng, cơ sở là điều
cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong mọi việc làm. Nguyên tắc là cơ sở đầu
tiên, tư tưởng chỉ đạo, quy tắc chủ yếu để hành động.
Nguyên tắc hoạt động của báo chí là sự thể hiện khuynh hướng, quan điểm,
chính kiến của một dảng, một giai cấp đồng thời nó còn xác định thái độ, trách nhiệm,
sự hiểu biết, cách đánh giá của nhà báo đối với hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc đòi
hỏi nhà báo đáp ứng chuẩn xác cách xử sự, ứng phó và hành động.
Khái niệm nguyên tắc được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động
khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học,...
Những tri thức về nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn. Đó là cơ sở để nghiên cứu các mối quan hệ giữa các vấn đề, sự
kiện, hiện tượng, quá trình đồng thời còn xác định thái độ, quan điểm, cách thức,
con đường, phương pháp hành động để đạt hiệu quả.
Ở nước ta, mỗi cơ quan báo chí là người đại diện phát ngôn của một tổ chức,
lực lượng nào đó, góp phần thực hiện các nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều kiện đó đặt ra những nhiệm vụ nặng nề dồng
thời tạo ra những tiền đề và khả năng to lớn cho báo chí phát triển. Các loại hình báo
chí ngày càng hiện đại hơn, tốc độ phát triển ngày một nhanh hơn.
Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ và khai thác hết khả năng của báo chí,
một vấn đề đặt ra cho người làm báo là phải nắm vững, sử dụng nhất quán và triệt
để những quy luật, quy tắc, chuẩn mực của hoạt động nghề nghiệp. Cũng như những
hoạt động khác của con người, hoạt động báo chí luôn mang tính mục đích và có ý
thức. Quá trình sáng tạo các tác phẩm báo chí không phải là quá trình sao chép hiện
thực khách quan một cách máy móc, mà là quá trình theo đó người làm báo vận dụng
mọi kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết để phân tích, bình luận và phản ánh
những sự vật, hiện tượng đang diễn ra. Mỗi công đoạn của quá trình sáng tạo tác
phẩm báo chí đều có những quy tắc, phương pháp và chuẩn mực riêng. Ví du, giai
đoạn lấy tài liệu rất cần đến quy tắc và phương pháp quan sát, xử lý tài liệu, khai
thác nhân chứng,... Bên cạnh đó còn có những quy tắc, chuẩn mực và phương pháp
chung để tiếp cận và đánh giá các sự vật, hiện tượng.
Từ những điều đã phân tích, có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc hoạt động
báo chí như sau:
Các quy tắc, chuẩn mực chung của hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được gọi là nguyên tắc báo chí. Nguyên tắc báo
chí chính là cơ sở phương pháp luận của hoạt động báo chí.
Đặc điểm chung chi phối hoạt động báo chí là sự tác động vào xã hội bằng
thông tin và khả năng thuyết phục công chúng bằng nội dung và tính chất của thông
tin. Xét về bản chất, hoạt động báo chí là hoạt động thông tin mang tính chính trị –
xã hội liên quan mật thiết đến tư tưởng, tình cảm của con người. Do đó, cho dù
“khách quan” đến mấy, người làm báo cũng bộc lộ cách nhìn, thái độ, phương pháp
tiếp cận và sự đánh giá, nhận xét của mình đối với những vấn đề, sự kiện, hiện tượng
đang diễn ra ngay trong đời sống xã hội. Cách nhìn nhận, bình giá của người làm
báo không phải thiếu căn cứ, thiếu cơ sở khoa học, mà khi nào cũng xuất phát từ
những căn cứ, nguyên tắc nhất định.
Nói nguyên tắc là cơ sở phương pháp luận của hoạt động báo chí có nghĩa đó
là cơ sở của sự thể hiện thái độ, quan điểm, chính kiến của nhà báo về sự kiện, hiện
tượng, đồng thời nó còn là phép tắc đòi hỏi nhà báo phải đáp ứng chuẩn xác trong
cách xử sự, ứng phó và hành động của mình.
Tính chất phương pháp luận của nguyên tắc hoạt động báo chí còn thể hiện ở
chỗ, nhà báo chẳng những cần hiểu biết, nắm vững các quy luật nói trên, mà còn
phải tích cực vận dụng chúng thành những quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp, thành
cách thức, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động của mình, thành nền tảng
của việc sáng tạo tác phẩm báo chí.
Nguyên tắc báo chí không phải là sự áp đặt chủ quan, mà xuất phát từ những
quy luật khách quan. V.I. Lênin coi khái niệm “nguyên tắc" ngang với khái niệm
“quy luật”, “từ những quy tắc đưa thành quy luật”. Lênin giải Nam hiện t thích: “Quy
luật là cái vững bền (cái được bảo tồn) trong hiện tượng”. Những nguyên tắc mang
tính chân lý được hình thành từ hoạt động thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm
thì luôn vững bền và chính xác. Vì thế, hoạt động thực tiễn là cơ sở khoa học cho
các chuẩn mực tồn tại của những nguyên tắc báo chí.
Ở khía cạnh khác, nội dung của các nguyên tắc được hình thành và dựa vào
quy luật phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội. C. Mác và Ph. Ăngghen từng
nhấn mạnh: “Những nguyên tắc có giá trị chỉ khi nào nó phù hợp với các quy luật tự
nhiên và xã hội”. Nếu như quy luật khách quan đòi hỏi báo chí cách mạng phải thể
hiện quyền lợi của quần chúng nhân dân, phản ánh quá trình phấn đấu của nhân dân
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh và dân chủ hoá đời sống xã hội thì tính nhân dân,
dân chủ chính là nguyên tắc của báo chí cách mạng. Nếu quy luật cuộc sống đòi hỏi
báo chí phải trực tiếp tham gia vào quá trình đó bằng cách thuyết phục, động viên
và tổ chức các phong trào cách mạng của nhân dân thì tính chân thực, khách quan
trở thành nguyên tắc của báo chí cách mạng. Phù hợp với quy luật khách quan hom
: là quy luật chi phối mọi hoạt động báo chí. Hệ thống các nguyên tắc báo chí gồm:
tính khuynh hướng, tính đảng, tính nhân dân, tính nhân văn, tính chân thực và khách
quan, ý thức dân tộc và tính quốc tế. Tất cả các nguyên tắc đó tồn tại trong mối quan
hệ hữu cơ của một hệ thống. Phù hợp với sự phát triển của bản thân nền báo chí và
những yêu cầu khách quan của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, hệ thống báo chí phát
triển không ngừng bằng việc bổ sung vào nó những quan niệm mới, cách nhìn mới
về từng nguyên tắc, vai trò, vị trí của báo chí. Dĩ nhiên trong xã hội còn phân chia
giai cấp, các quyền lợi vẫn còn cọ xát nhau gay gắt, báo chí không thể thoát ly hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Đối với nền báo chí mà ở đó báo chí là công cụ đấu
tranh vì quyền lợi của quần chúng lao động, vì tự do dân chủ và tiến bộ xã hội, thì
tính đảng vẫn giữ vị trí hàng đầu trong các nguyên tắc báo chí cách mạng. Nhưng
trong điều kiện mới, chính nguyên tắc này cũng đang được nhận thức lại một cách
đúng bản chất, phù hợp với tình hình và hoàn cảnh thực tế hiện nay hơn.

6.2. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ

6.2.1. Tính khuynh hướng của báo chí


Trong hoạt động thực tiễn, báo chí luôn bộc lộ rõ nét tính khuynh hướng.
Trong xã hội có giai cấp, báo chí là công cụ đấu tranh giai cấp. Không có một lực
lượng cách mạng nào không dùng báo chí làm phương tiện tuyên truyền cho mục
đích, tôn chỉ của mình cũng như làm phương tiện để tập hợp lực lượng quần chúng.
Không có một giai cấp thống trị nào không nắm lấy bộ máy thông tin, tuyên truyền,
báo chí để góp phần củng cố chế độ và điều hành xã hội.
Người đặt nền móng lý luận cho tính khuynh hướng của văn học và báo chí là C.
Mác và Ph. Ăngghen. Xuất phát từ việc nghiên cứu sự phân chia giai cấp trong xã
hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đi đến kết luận: Khi xã hội bị phân chia giai cấp
thành các nhóm xã hội có các quyền lợi rất khác nhau, thậm chí đối kháng nhau thì
con người bao giờ cũng đứng về một giai cấp, một quốc gia, một dân tộc, hoặc một
nhóm xã hội nhất định. Văn học và báo chí là những hoạt động có ý thức con người,
vì thế không thể không mang những khuynh hướng chính trị khác nhau.
Khi bàn về các tác giả thời Phục hưng, Ph. Ăngghen viết: “Điểm nổi bật ở
những con người ấy là họ đều quan tâm đến tất cả những vấn đề của thời đại họ,
người thì bằng lời nói và ngòi bút, người thì bằng kiếm, và có người thì bằng cả hai
thứ”.
Trong bức thư gửi cho M. Causky năm 1885, Ph. Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh
tính khuynh hướng trong các tác phẩm của nhiều tác giả nổi tiếng từ xưa đến nay,
coi đó như một đặc điểm xuyên suốt. Đồng thời Ph. Ăngghen đả kích sâu cay những
kẻ tự cho rằng mình luôn luôn viết một cách khách quan “hoàn toàn không theo bất
cứ một khuynh hướng nào”.
Ông nhấn mạnh đến khuynh hướng trong nhiều tác phẩm hiện đại như “Âm
mưu và ái tình” của Schiller, những tác giả như: Aeschylus – thuỷ tổ của bi kịch
Aristophane – thuỷ tổ của hài kịch, đều là những nhà thơ có khuynh hướng.
Báo chí của giai cấp, của nhóm xã hội nào đều phản ánh tư tưởng, tình cảm,
nguyện vọng của giai cấp, của nhóm xã hội đó. Nhưng không phải trong bất kỳ
trường hợp nào, báo chí cũng thể hiện trực tiếp tư tưởng, tình cảm của tác giả và mọi
người đều nhận biết rõ khuynh hướng của người viết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đã mang hết
tài năng, nghị lực, trí thông minh, sử dụng mọi vũ khí, huy động mọi “binh chủng
phối hợp” để phục vụ cho mục tiêu cách mạng đã xác định. Người sử dụng báo chí
như một công cụ, phương tiện, vũ khí trong sự nghiệp đấu tranh của mình. Chính
Người đã sáng lập ra nhiều tờ báo, dùng nhiều bút danh và viết hàng nghìn bài báo
để phục vụ cách mạng. Người luôn nhấn mạnh: “Tất cả những người làm báo phải
có lập trường vững chắc”, “chính trị phải làm chủ”, “cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ
cách mạng”.

Một trong những nguyên tắc hàng đầu mà Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở những
người viết sách báo là phải xác định thật rõ ràng vì ai mà viết, viết cho ai. Hay nói
cách khác, cần phải xác định cụ thể đối tượng phục vụ của mỗi cuốn sách, bài báo
khi viết. Trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, bài Chống thói ba hoa được viết tháng
10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải
tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy thì cũng như cố ý không
muốn cho người ta xem”.
Làm báo là một nghề và cũng là một nghiệp. Mỗi nhà báo cần phải sớm ý thức
về công việc, phải sớm xác định khuynh hướng, “Viết cho ai”, “Viết để làm gì” như
Bác Hồ đã dạy. Khuynh hướng chính trị, đạo đức, xã hội, dân tộc, thẩm mỹ,... tất cả
phải hoà nhập, liên kết trong một cách nhìn, cách thẩm định của nhà báo, trong thái
độ và tâm huyết, trong phân tích, lý giải, phản ánh và đều được bộc lộ qua trang viết.
Điều đó có nghĩa là nhà báo - người cầm bút – cần xác định: Phải hướng về cái gì?
Đấu tranh cho một cái gì? Bảo vệ cho một cái gì? GS. Hà Minh Đức nhận xét:
Khuynh hướng có thể bộc lộ dưới nhiều hình thức. Khuynh hướng thể hiện thái độ
không trung lập, trung hoà trước một hiện tượng. Khuynh hướng biểu thị sự nhiệt
tình ủng hộ hoặc phản đối của tác giả với một quan điểm chính trị, một vấn đề xã
hội, một nhân vật hoặc một sự kiện,... Khuynh hướng đã thể hiện trong nhiều tác
phẩm ở thời kỳ cô đại, trung đại và cũng biểu hiện tập trung trong thời kỳ hiện đại,
khi cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt. Người cầm bút đã bộc lộ rõ rệt qua
trang viết ý thức trách nhiệm và tâm huyết của mình. Tất cả các bài báo của Bác Hồ
đều tập trung vào một chủ đề: chống thực dân đế quốc, chống địa chủ phong kiến,
tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một ví dụ tiêu biểu.
Trong suốt 40 năm làm báo, khi thì ở Trung Quốc, Miama, Angola, khi thì ở
Việt Nam, Lào,... nhà báo nổi tiếng Wilfred Burchett đều bộc lộ khuynh hướng chính
trị của mình là ủng hộ các phong trào giải phóng dẫn tộc, chống lại các cuộc chiến
tranh xâm lược của các thế lực thực dân, đế quốc và bành trướng.
GS. Hà Minh Đức nhận định: “Có nhiều nhà báo trong suốt cuộc đời chỉ đấu
tranh cho một thứ quyền nào đó vốn bị xã hội phong kiến ngăn cấm như quyền dân
chủ, nữ quyền, quyền tự do sáng tạo”. Có những nhà báo mới bước vào nghề còn
chưa rõ khuynh hướng nhưng qua quá trình hoạt động đã bộc lộ rõ chính kiến quan
điểm của mình bằng thái độ trung thực, đấu tranh cho công bằng, lẽ phải. Như vậy,
khuynh hướng là cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng một cách khách quan,
nó phải biến thành mục đích, dũng khí, phương tiện phản ánh của người cầm bút.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà báo, với tư cách là chủ thể sáng tạo, phải chịu
trách nhiệm trước đảng, nhân dân và đồng nghiệp về bài viết của mình.
Khuynh hướng chính trị xã hội bộc lộ rõ ở một số nhà văn, nhà báo có tên tuổi
như: Nguyễn An Ninh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều, Vũ Trọng
Phụng, Sóng Hồng,... Khuynh hướng không chỉ bộc lộ ở cá nhân mà ở mỗi tờ báo,
mỗi cơ quan báo chí đều có một khuynh hướng chính trị nhất định.
Các báo có khuynh hướng chính trị khác nhau thì có thể có cách thể hiện khác
nhau, cách khai thác khác nhau, thậm chí đối với cùng một sự kiện, một vấn đề nào
đó. Ví dụ, trong cuộc chiến tranh Afghanistan, để ra sức tuyên truyền cho chiến dịch
chống khủng bố do Chính phủ Mỹ phát động, báo chí Mỹ liên tục đưa những thông
tin có lợi cho phía Mỹ và đồng minh về việc truy quét lực lượng Taliban và al-Qaeda
trong khi phớt lờ và không đưa tin về số thường dân Afghanistan bị thiệt mạng vì
bom đạn của Af họ. Gần đây nhất, trong khi phản ánh cuộc xung đột Trung Đông,
báo chí nhiều nước phương Tây thân Mỹ tích cực đưa tin về các lực lượng du kích
Hồi giáo tấn công Israel như một hành động khủng bố, và chỉ trích người đứng đầu
Nhà nước Palestine, ông Y. Arafat. Trong khi đó, báo chí tiến bộ của nhiều nước
trên thế giới đã lên tiếng phản đối cuộc xâm lược của Israel, phản đối chính sách
diều hậu của ông A. Sharon, đưa tin về thiệt hại của người dân Palestine, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em, đồng thời thể hiện rõ quan điểm ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa
vì độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Palestine.
Ở Việt Nam, thời kỳ 1930 – 1945, đã diễn ra những cuộc đấu tranh sôi nổi
giữa ý thức hệ phong kiến bảo thủ và quan điểm tư sản, giữa quan điểm tư sản và vô
sản. Có nhiều cuộc tranh luận về quan điểm triết học giữa duy vật và duy tâm (Phan
Khôi và Hải Triều), giữa quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh và quan điểm nghệ thuật
vị nghệ thuật (Hải Triều và Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều). Các tờ
báo tiêu biểu trong giai đoạn này như: Phong hoả, Ngày nay, Dân chúng, Tin tức,
Đông Dương, Thanh Nghị, ... đều có khuynh hướng riêng từ quan thẩm mỹ. điểm
chính trị đến điểm học thuật, thẩm mỹ.
Như vậy có nghĩa là, trong khi phản ánh các quyền lợi, tư tưởng và tình cảm
của giai cấp, của các nhóm xã hội khác nhau, báo chí, dù là tư nhân hay của nhà
nước, bao giờ cũng đứng về một giai cấp, một nhóm xã hội nhất định. Maxim Gorky
quan niệm: “Nhà văn là con mắt, là tiếng nói, là lỗ tai của giai cấp. Nhà văn có thể
không có ý thức, có thể phủ nhận điều đó, nhưng không bao giờ và không thể nào
thoát khỏi bộ máy cảm quan của một giai cấp”.
Do vậy, những quan niệm cho rằng, báo chí khách quan đứng ngoài chính trị,
không liên quan gì đến chính trị, đứng trên giai cấp và nhóm xã hội nếu không là sự
chối bỏ vô ý thức tính khuynh hướng của báo chí thì cũng là một thái độ mập mờ
nhằm che giấu việc dùng báo chí phục vụ cho lợi ích cá nhân vị kỉ và mờ ám.
Báo chí cách mạng công khai thừa nhận tính khuynh hướng trong hoạt động
của mình, tự giác tham gia cuộc đấu tranh xã hội nhằm giải phóng con người khỏi
áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh với mục tiêu tất cả vì con
người và cho con người. Hoạt động của báo chí cách mạng phù hợp với quy luật:
Trong xã hội có giai cấp, báo chí luôn thuộc về một giai cấp, một nhóm xã hội nào
đó, thể hiện tính khuynh hướng chính trị, lập trường tư tưởng, bảo vệ quyền lợi của
giai cấp, của nhóm xã hội đó.
Mỗi cơ quan báo chí, dù thuộc tổ chức nào, lực lượng nào, đều thể hiện một
khuynh hướng chính trị nhất định. Bất kỳ một nền báo chí nào cũng chứa đựng trong
đó ít nhất một khuynh hướng chính trị. Và nếu tồn tại đồng thời nhiều khuynh hướng
chính trị khác nhau thì sẽ có sự phân hoá thành dòng tư tưởng chủ lưu và dòng tư
tưởng phụ lưu, dòng tư tưởng chính thống và dòng tư tưởng không chính thống.
Thừa nhận tình trạng đó chính là thái độ khách quan, khoa học của lý luận báo chí
cách mạng. Lý luận báo chí cách mạng còn thể hiện bản chất cách mạng của mình
bằng cách khẳng định báo chí phải đứng hẳn về phía giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của họ, phản ánh ý chí và
nguyện vọng của họ là phải giải phóng triệt để, thực sự trở thành chủ thể sáng tạo
lịch sử.
Ph. Ăngghen yêu cầu khuynh hướng trong báo chí cách mạng phải vươn tới
tính Đảng, tới quan điểm công khai và để bảo vệ lợi ích của Đảng trước sự tiến công
của kẻ thù. Ông viết: “Phải tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và bảo vệ
những lợi ích của Đảng, bác bỏ và đánh bại các luận điệu huênh hoang của đảng đối
địch”.
Khi đề cập đến vấn đề liệu khuynh hướng có cản trở cảm hứng sáng tạo tác
phẩm hay không, GS. Hà Minh Đức viết: “Khuynh hướng trong báo chí là điểm xuất
phát để tạo nên động lực và cảm hứng người viết. Khuynh hướng góp phần tạo nên
sự nhiệt tình và dũng khí của ngòi bút. Nó tránh được xu hướng thực dụng, tầm
thường trong báo chí. Không có sự mâu thuẫn giữa tính khuynh hướng và sự hấp
dẫn trong báo chí”.
Ngược lại, nếu khuynh hướng đó được bộc lộ một cách sâu sắc dưới nhiều
hình thức sẽ tạo nên sự thu hút lạ thường. Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam và
thế giới đã chứng minh các cây bút báo chí có sức hấp dẫn chính là những nhà báo
có tâm huyết, kiên quyết đấu tranh cho một khuynh hướng chính trị nhất định với
vốn tri thức rộng lớn và tài năng sáng tạo độc đáo.
Như vậy, tính khuynh hướng là nguyên tắc phổ biến không the nhận của hoạt
động báo chí. Khuynh hướng có thể hình thành tự nhiên, tác động đến báo chí một
cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà báo. Khuynh hướng cũng có thể hình thành
một cách khách quan do nguồn gốc xã hội và tư tưởng của bản thân nền báo chí,
nhưng lại được phát triển và vận dụng một cách tự giác, có ý thức. Tính khuynh
hướng khi đã phát triển đến trình độ cao sẽ trở thành tính Đảng. phù

6.2.2. Nguyên tắc tính Đảng


a) Tính Đảng là biểu hiện đinh cao của tính khuynh hướng
Cơ sở đầu tiên trong nguyên tắc báo chí cách mạng là nguyên tắc tính Đảng.
V.I. Lênin là người khởi xướng và đặt vấn đề một cách có hệ thống các quan điểm
về tính Đảng. Trong tác phẩm Tổ chức của Đảng và Văn học của Đảng, ông viết:
“Văn học và báo chí phải trở thành những cơ quan của các tổ chức của Đảng. Các
nhà văn phải nhất thiết tham gia các tổ chức của Đảng. Các nhà xuất bản và các kho
sách, các hiệu sách và các phòng đọc sách, các thư viện và các nơi bán sách báo –
tất cả những cái đó đều phải là của Đảng, chịu trách nhiệm trước Đảng”. Cũng như
văn học, ông đòi hỏi báo chí cách mạng phải có một tính Đảng thẳng thắn, trung
thực, công khai và triệt để.
Tính Đảng của báo chí cách mạng có thể được hiểu như sau: Báo chí tự giác
và kiên quyết đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, trở thành tiếng nói thể
hiện quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân lao động, đồng thời chịu sự lãnh đạo và
tuyên truyền tổ chức, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tính
Đảng của báo chí cách mạng vừa là đồng hành, vừa là kết quả của cuộc đấu tranh
giai cấp. Chính cuộc đấu tranh đó đòi hỏi báo chí cách mạng phải có tính Đảng
nghiêm ngặt. Tính Đảng là một yêu cầu đặt ra, là quá trình trong đó khuynh hướng
giai cấp của báo chí chín muồi, phát triển đến trình độ tự giác. Nếu tính khuynh
hướng là nguyên tắc phổ biến cho mọi nền báo chí, cho mọi hoạt động báo chí thì
tính Đảng chỉ có thể đạt được khi tính khuynh hướng được nền báo chí, cơ quan báo
chí và nhà báo nào đó tự giác nhận thức và triệt để thấm nhuần trong hoạt động của
mình.
Cần phải nhân mạnh rằng, lâu nay đang tồn tại một cách hiểu thiên lệch tính
Đảng ở nước ta như một nguyên tắc chung, một trình độ đạt được của mọi nền báo
chí, mọi nhà báo. Cách hiểu đó làm cho một số nhà báo tiến bộ ở các nước mà nền
báo chí có nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau hiểu Đảng như một sự áp đặt,
quan niệm sai về bản chất dân chủ của nền báo chí cách mạng. Nhận thức mới về
Đảng của báo chí cách mạng cho phép chúng ta thừa nhận những trình độ khác nhau
có tính khuynh hướng báo chí để không ngừng phấn đấu hoàn thiện nguyên tắc tính
Đảng trong hoạt động của mình, đồng thời tranh thủ được các khuynh hướng báo chí
tiến bộ. Không đẩy họ sang trận tuyến “báo chí phi vô sản tư sản” một cách máy
móc. Mặt khác, nhận thức mới về tính Đảng xa lạ với chủ nghĩa đa nguyên, xa lạ với
những khuynh hướng báo chí tách rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Bởi vì lợi ích của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp
Đổi mới đất nước, sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh là những điều cao quý nhất chi phối mọi suy nghĩ và hoạt động nghề nghiệp
của mỗi người làm báo, của mỗi cơ quan báo chí đồng thời quy định hướng phát
triển của nền báo chí cách mạng nước ta.
Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đòi hỏi các nhà báo phải
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, phục vụ cách mạng, phục vụ sự
nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Tính Đảng được xem xét trên các khía cạnh sau:
* Về mặt xã hội
Tính Đảng quy định các mặt hoạt động của báo chí trong toàn bộ quá trình
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà báo nhìn nhận, đánh giá các sự
kiện theo quan điểm, đường lối của Đảng. Điều đó không hạn chế khả năng hoạt
động sáng tạo và phát triển chính kiến của người làm báo. Nói cách khác, đường lối,
quan điểm của Đảng là căn cứ xuất phát để nhà báo thấy rõ trách nhiệm của xã hội,
nghĩa vụ công dân to lớn của mình trong quá trình thông tin và lý giải những vấn đề
do cuộc sống đặt ra.
* Về mặt tổ chức
Báo chí là một trong nhiều hệ thống xã hội có hình thức hoạt động chính trị –
tư tưởng. Xã hội đó được quản lý bởi nhà nước pháp quyền, tất cả mọi người đều
phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Tính Đảng đòi hỏi báo chí phải hoạt động theo đúng luật pháp, trong khuôn
khổ pháp luật cho phép (tức là phải theo tôn chỉ, mục đích do Nhà nước quy định).
Quan niệm báo chí là “Quyền lực thứ tư” không có nghĩa là quyền lực của báo chí
làm cho báo chí đứng trên các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp, đứng trên và
đứng ngoài pháp luật. Quyền lực báo chí thể hiện ở chỗ: Báo chí là hạt nhân tạo ra
dư luận xã hội rộng rãi, giáo dục mọi người sống và làm việc theo hiến pháp, pháp
luật, kiên quyết đấu tranh để pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, góp phần hoàn
thiện hệ thống luật pháp và xây dựng hệ thống đó phục vụ mọi hoạt động của xã hội.

* Về mặt tư tưởng, tinh thần


Tính Đảng đòi hỏi báo chí phải tham gia tích cực vào việc tuyên truyền, phổ
biến và hình thành dòng tư tưởng chủ lưu tích cực, tiến bộ trong xã hội. Nền tảng
khoa học của dòng tư tưởng đó là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư cách là vũ khí sắc bén, bằng những lợi thế và những đặc trưng nghề nghiệp
của mình, báo chí là một kênh hết sức quan trọng trong toàn bộ các kênh của công
tác tư tưởng. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, công tác tư tưởng được tiến
hành một cách nhuần nhuyễn và có sức thuyết phục. Học thuyết Mác–Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm cách mạng, tiến bộ trở thành dòng tư tưởng
chủ lưu của xã hội Việt Nam. Thông qua việc thông tin, lý giải, báo chí đáp ứng
những vấn đề do bản thân đời sống đặt ra.
Do vậy, dù ở giai đoạn nào, báo chí vẫn là công cụ sắc bén, nhạy cảm trên mặt
trận văn hoá tư tưởng. Báo chí cách mạng coi việc nâng cao tính tưởng là một nguyên
tắc quan trọng hàng đầu. Bởi vì tính tư tưởng của báo chí đạt được cao hay thấp sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới việc lãnh đạo tư tưởng, hướng dẫn dư luận quần chúng, ảnh
hưởng tới việc tổ chức và chỉ đạo hành động cách mạng của quần chúng nhân dân,
đồng thời ảnh hưởng đến khả năng của báo chí trong việc đổi mới tư duy, định hướng
tư tưởng, bồi dưỡng những nhận thức đúng đắn cho cán bộ, đảng viên, quần chúng,
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng về đường lối, điểm của
quan Đảng. Chẳng hạn, nếu những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
chưa đúng thì sự phản ánh những ý kiến trung thực và có trách nhiệm của nhân dân
trên các phương tiện truyền thông đại chúng sẽ giúp Đảng và Nhà nước kịp thời nhận
ra những khiếm khuyết để sửa chữa, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn. Tính
Đảng cũng đòi hỏi các nhà báo và các cơ quan báo chí tiến hành công tác với lòng
nhiệt tình và trách nhiệm cao.
Tính Đảng còn đòi hỏi báo chí trực tiếp tham gia xây dựng một đời sống tinh
thần trong sáng, lành mạnh và phong phú cho xã hội. Góp phần hình thành và bảo
vệ hệ thống các giá trị xã hội, giá trị văn hoá, tiêu chuẩn đạo đức, niềm tin khoa học,
thị hiếu lành mạnh, văn hoá ứng xử, và nâng cao dân trí, giải trí,... đều là những
nhiệm vụ trọng đại của báo chí. Đây cũng chính là điều kiện để báo chí nâng cao uy
tín và sức hấp dẫn của mình.

b) Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí
Trong chế độ ta, việc Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đối với báo chỉ là
nguyên tắc. Sự lãnh đạo và quản lý đó là điều kiện để báo chí hoạt động có mục đích
và hiệu quả. Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước càng hoàn
thiện, có hiệu quả thì báo chí càng có điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển.
Vì thế việc khẳng định và không ngừng nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước vừa là yêu cầu khách quan, vừa là đòi hỏi của bản thân báo
chí.
Trước hết, Đảng lãnh đạo báo chí bằng định hướng chính trị, định hướng tư
tưởng, định hướng thông tin, bằng hệ thống quan điểm của báo chí, đồng thời kiểm
tra, uốn nắn việc thực hiện các định hướng đó thông qua các tổ chức Đảng và các
đảng viên của mình. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí phụ thuộc
vào việc vạch ra những định hướng và quan điểm đúng đắn, khoa học, vào trình độ,
năng lực, phẩm chất của các tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên.
Cùng với những bước phát triển của sự nghiệp Đổi mới và sự hoàn thiện dần
dần của đường lối chính trị, định hướng tư tưởng và quan điểm báo chí cũng được
đổi mới và phát triển không ngừng. Từ quan điểm “bảo chí là công cụ tư tưởng sắc
bén của Đảng” đến quan điểm “báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân” là một bước phát triển mới của lý luận báo
chí cách mạng. Quan điểm đó quy định phương thức thông tin đa dạng, nhiều chiều
nhưng có định hướng trong hoạt động báo chí. Hơn nữa, quan điểm này không đối
lập Đảng, Nhà nước với nhân dân; trái lại, nó phản ánh mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân, làm rõ quan điểm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
khác, nó lại đòi hỏi nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, hệ thống các quan
điểm pháp luật về quản lý của Nhà nước phải đổi mới và hoàn thiện không ngừng.
Khái niệm “lãnh đạo” ở đây không thể hiểu là kiểu lãnh đạo “cầm tay chỉ
việc”, bất chấp những đặc trưng quy luật về nghề nghiệp của báo chí, m phải là lãnh
đạo bằng định hướng đúng đắn, có cơ sở khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho báo
chí thực hiện tốt chức năng của mình nghĩa là lãnh đạo báo chí và Nhà nước quản lý
báo chí bằng pháp luật, đương nhiên đó là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, gần với
đời sống báo chí.
Để hoàn thành công việc nặng nề đó, Đảng cần phải được tổ chức vững mạnh,
có cơ cấu thật hợp lý, có đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, trí
tuệ trực tiếp làm báo cũng như năng lực, chỉ đạo và quản lý báo chí.
Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động bảo chí là
nguyên tắc phù hợp với tình hình, nhiệm vụ hiện nay để báo chí có thể phát huy được
sự chủ động, sáng tạo của mình. Đây chính là cơ sở để vươn tới sự tự do thực sự của
báo chí trong chế độ xã hội chủ nghĩa.

6.2.3. Tính chân thực, khách quan của báo chí


Khách quan, chân thực là bản chất của báo chí cách mạng. V.I. Lênin đã tổng
kết ngắn gọn về sự cần thiết của nguyên tắc này trong câu nói nổi tiếng “sự thật là
sức mạnh của báo chí chúng ta”. Trong thực tế, uy tín và hiệu quả của báo chí phụ
thuộc vào tính khách quan, chân thực của những thông tin mà nó đem đến cho công
chúng. Một tờ báo, đài phát thanh, đài truyền hình hay hãng thông tấn nếu đưa tin
sai, dù sau đó có đính chính, thì cũng tự hạ thấp vị trí của mình trong lòng công
chúng. Nhà báo viết sai sự thật chẳng những sẽ vi phạm đạo đức nghề nghiệp, uy
tín, danh dự của anh ta mà còn gây tổn hại rất lớn cho cơ quan báo chí, cho xã hội.
Mặt khác, khách quan và chân thực lại là những khái niệm tương không thể
định lượng, kiểm tra một cách hoàn toàn tuyệt đối. Trong nhiều đối, trường hợp cụ
thể, khách quan hay không khách quan phụ thuộc vào khuynh hướng chính trị của
nhà báo, của cơ quan báo chí.
Tính Đảng, với tư cách là khuynh hướng phát triển ở trình độ cao của báo chí
cách mạng, không hề đối lập và mâu thuẫn với tính khách quan, chân thực.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đảng ta đòi hỏi
báo chí phải phản ánh mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách chân thực, khách
quan, đúng bản chất.
Báo chí phát hiện và trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Đồng
thời báo chí cũng phát hiện và tích cực tuyên truyền, cổ động cho các nhân tố mới,
các mô hình và các điển hình tiên tiến. Báo chí không chỉ có nhiệm vụ truyền bá,
phổ biến những quan điểm, tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta mà còn có nhiệm vụ phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân, phản ánh những việc làm hay, nghĩa cử đẹp của nhân dân diễn ra hằng ngày
trên mọi miền đất nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp với chức năng của báo chí, phù
hợp với tính khách quan, chân thực của báo chí. Mặt khác, báo chí chân thực không
chỉ phản ánh đúng từng sự việc cụ thể, từng góc độ và thời điểm của cuộc đấu tranh
xã hội, mà nó còn vạch ra toàn bộ xu thế và bản chất của cuộc đấu tranh đó.
Trong quá trình thâm nhập và phản ánh cuộc sống, nhà báo bộc lộ thái độ của
mình, báo chí bộc lộ khuynh hướng của nó, mà đỉnh cao là nguyên tắc tính Đảng.
Điều đó có nghĩa là tính Đảng không hề cản trở, ngăn cấm sự sáng tạo của nhà báo,
trái lại tính Đảng còn giúp người làm báo, giúp các cơ quan báo chí truyền thông đại
chúng nhìn nhận, phát hiện vấn đề và bản chất vấn đề khách quan hơn. Trong hoạt
động thực tiễn, không phải nhà báo hay cơ quan báo chí nào cứ ca ngợi, tán dương
mới là tính Đảng; ngược lại, không phải hễ phê phán đấu tranh là thiếu tính Đảng.
Tính Đảng đòi hỏi nhà báo, cơ quan báo chí phản ánh trung thực, khách quan, chân
thật trong khi tiếp cận sự kiện, vấn đề với một thái độ xây dựng, cầu thị cùng với
toàn bộ xu thế phát triển của xã hội, với sự nghiệp đối mới đang diễn ra vừa khó
khăn, vừa thuận lợi, vừa có thành tựu, vừa có vập váp, sai lầm.
Khách quan, chân thực là đặc điểm, đặc trưng, là yêu cầu tồn tại của bản thân
báo chí. Nó đạt đến mức nào, trình độ nào, bị bóp méo, xuyên tạc hay bị lợi dụng,
cắt xén là tuỳ thuộc vào nhiều nguyên nhân khách quan và chù quan. Vươn tới tính
khách quan, chân thực ngày một cao hơn, đấu tranh chống lại các biểu hiện vi phạm
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp vì bất kỳ động cơ nào là đòi hỏi nghiêm khắc của
xã hội đối với báo chí và cần phải có sự kiên trì phấn đấu không ngừng của nhà báo.
Muốn khách quan, chân thực, người làm báo phải hết sức dũng cảm, phải chấp nhận
những thử thách, hy sinh. Bất cứ lúc nào, ở đâu, nhân dân ta cũng yêu cầu thông tin
phải chính xác và phẩm chất hàng đầu mà nhà báo phải có là lòng trung thực và thái
độ không khoan nhượng.
Không khoan nhượng với mọi kẻ thù, mọi trở lực ngăn cản và mọi biểu hiện
tiêu cực trong cuộc sống là một đòi hỏi khắt khe đối với người làm báo về trách
nhiệm với chính trang viết của mình. Tô hồng hoặc bôi đen đều là sai sự thật. Lòng
trung thực, thái độ không khoan nhượng đòi hỏi nhà báo phải nhìn vào bản chất sự
vật, hiện tượng để phản ánh khách quan, trung thực. Nhà báo phải thận trọng, cân
nhắc, tính đến hệ quả sẽ xảy ra khi đưa tin một sự việc, vấn đề lên báo với liều lượng
nào để đạt mục đích.
Nguyên tắc của báo chí cách mạng là nói lên sự thật với tất cả bản chất của
nó. Những sự việc càng lớn càng phải nói rõ, phân tích kỹ càng, đầy đủ (tất nhiên
không phải là bất cứ sự thật nào cũng đều phải nói rõ với thái độ tự nhiên chủ nghĩa).
V.I. Lênin đã từng căn dặn: “chúng ta cần thông tin đầy đủ và chân thật mà sự thật
không phụ thuộc vào việc nó phải phục vụ cho ai”. Đó là lương tâm nghề nghiệp của
người làm báo. Với tư cách là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hoá, nhà báo
phải thật sự chí công vô tư, trong tâm của mình phải sáng để nội dung bài viết của
mình được khách quan, chân thật. Nhà báo không thể nào được “yêu nên tốt, ghét
nên xấu”, khen ai hay chê ai, việc gì cũng phải xuất phát từ lợi ích của cách mạng,
nhân dân. Hoạt động báo chí, cũng như mọi hoạt động khác của con người, đều có
mục đích. Khi đã có mục đích thì không phải việc gì xảy ra đều đưa lên báo chí.
Tuy nhiên, không đưa tin về một sự kiện nào đó không có nghĩa là nhà báo
giấu sự thật. Vấn đề là ở chỗ nhà báo chọn sự kiện để đưa lên báo chí như thế nào
nhằm giúp quần chúng nhân dân hiểu được tình hình phát triển của xã hội, từ đó thấy
được ý nghĩa của việc họ làm. Mục đích của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ
sự nghiệp cách mạng, vì thế mỗi tin bài đưa lên báo đều phải chính xác mới có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc.
Viết báo mà không có động cơ trong sáng, không xuất phát từ những mục đích
trên thì dù “mắt có đeo mười cái kính hiển vi” đi chăng nữa vẫn không thấy sự thật.
Không nên viết báo theo kiểu “trả ơn”, hoặc viết để “trả thừ”, viết theo kiểu “đơn
đặt hàng”, mà ta có thể hiểu ngầm rằng nó không goài mục đích vụ lợi, vì như thế
người cầm bút không thể nào khác hơn là viết theo ý đồ của người đặt hàng theo
kiểu “cỗ đã bày sẵn”. Nhà báo cũng không nên viết theo mệnh lệnh, “gợi ý” nhưng
không phải nhằm quán triệt một chủ trương, đường lối đúng đắn mà chỉ nhằm thực
hiện một ý đồ định ro một quan ở sẵn hay minh hoạ cho một quan điểm, tư mạnhại
tư tưởng sai trái của một người nào đó. Rõ ràng, đằng sau những bài báo viết theo
kiểu nói trên, đã có vấn đề, có những động cơ vụ lợi không trong sáng, những thủ
đoạn lôi kéo, móc ngoặc, mua chuộc, phe cánh và cả gây sức ép.
Để đảm bảo tính khách quan, chân thật của báo chí, người làm báo nhiều khi
phải hy sinh, chịu đựng sự trả thù, trả giá đắt, hoặc phải chịu thiệt thòi trong cuộc
sống vật chất hoặc bị trù dập, bị thành kiến,... Nhưng lòng dũng cảm, đức hy sinh đó
sẽ giúp nhà báo vượt qua mọi khó khăn, cản trở, giữ vững phẩm chất trung thực của
người làm báo cách mạng để chiến đấu vì sự công bằng, lẽ phải, để bảo vệ chân lý.
Đúng như nhà báo bậc thầy W. Burchett đã tâm sự: “Trong bao nhiêu năm và ở nhiều
nước, tôi đã có một giới bạn đọc mua báo không phải vì tin về thị trường chứng
khoán hoặc 1412 vì những tranh biếm hoạ, mà vì những sự thật của các vấn đề thiết
yếu có ảnh hưởng đến đời sống và lương tâm của họ. Bằng việc luôn luôn giữ cho
cả đôi mắt và đôi tai được mở rộng. Trong 40 năm làm tin tức của tôi về những nơi
nóng bỏng nhất thế giới, tôi ngày càng ý thức hơn về trách nhiệm của mình với bạn
đọc, trên cơ sở lòng tin vĩ đại vào những con người bình thường, vào thái độ cư xử
lành mạnh và tao nhã của họ khi họ có được những sự thật của tình hình”. Tính chân
thực, khách quan không chỉ là sinh mệnh của nền báo chí cách mạng mà còn là nội
dung cơ bản, cốt lõi của tính công khai. Người cầm bút cần tôn trọng sự thật. Đó
cũng là thước đo và là lửa thử vàng đối với các nhà báo chân chính.
Để làm được điều đó, khi đưa tin bài hoặc bình luận, mỗi nhà báo, mỗi cơ
quan báo chí cần phản ánh đúng sự thật, tránh hư cấu, tránh điển hình hoá nhân vật,
khái quát hoá bối cảnh, tình hình cụ thê, tránh bịa đặt những chi tiết khi chưa kiểm
tra, xác minh. Ngay cả khi lấy tin, trích dẫn các nguồn tin của các báo, đài nước
ngoài cũng cần phải thận trọng chắt lọc kỹ, không nên đưa một cách vô thưởng, vô
phạt.

Giữ vững lòng trung thực với nhân dân, với Đảng trong mỗi bài viết, trên mỗi
tấm ảnh đăng cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, chân
thật của báo chí. Có như vậy, báo chí mới tạo được niềm tin và uy tín trong lòng
công chúng.

6.2.4. Tính nhân dân và dân chủ của báo chí


Dưới góc độ khoa học, thuật ngữ báo chí được hiểu là sự tổng hợp về hoạt
động của các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó bao gồm: báo in, phát
thanh, truyền hình, báo điện tử trên mạng Internet,...
Thuật ngữ “đại chúng” dù không đầy đủ nhưng đã phần nào nói lên tính nhân
dân và bản chất dân chủ của hoạt động báo chí.
Trước hết, từ “đại chúng” trong thuật ngữ “phương tiện truyền thông đại
chúng” bao hàm những nội dung sau:
– Đối tượng tác động của thông tin là xã hội rộng rãi bao gồm các tầng lớp,
các nhóm xã hội khác nhau.
- Những nhu cầu thông tin của nhân dân được ưu tiên đảm bảo và là thước đo
trình độ năng lực của hoạt động thông tin báo chí.
- Mục đích của thông tin là nhằm hình thành một đời sống tinh thần lành mạnh
cho xã hội, qua đó tác động vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
- Đảm bảo sự phổ biến rộng rãi, dễ hiểu, giúp cho đại đa số các thành viên của
xã hội có khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin.
- Có sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân vào công việc của các cơ
quan báo chí, tạo điều kiện cho các thành viên của xã hội có thể tham gia giải quyết
các nhiệm vụ chung, các công việc xã hội.
Khái niệm tính nhân dân của báo chí thể hiện mối quan hệ giữa báo chí với
đông đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động – người sáng tạo chân chính
của lịch sử.
Sự ra đời và mục đích hoạt động của báo chí bắt đầu từ nhu cầu thông tin, giao
tiếp của con người. Báo chí thông tin và phản ánh toàn diện đời sống xã hội. Không
một đề tài báo chí nào, không một nguồn thông tin nào lại không bắt nguồn từ hoạt
động của con người. Quần chúng đông đảo còn là người thưởng thức, tiêu thụ các
sản phẩm báo chí. Như vậy, tính đại chúng, tính nhân dân thể hiện từ khâu đầu tiên
đến khâu hoạt động cuối cùng của báo chí.
Biểu hiện thứ nhất được khẳng định băng sự thật khách quan có tính quy luật,
tính nhân dân của báo chí là sự phản ánh và đánh giá các hiện tượng và sự kiện của
đời sống từ lập trường của nhân dân, đại diện và bảo về cho quyền lợi của nhân dân,
đề cao và trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự tiến bộ xã hội.
Một nền báo chí, một tác phẩm báo chí có tính nhân dân khi đề cập, phản ánh
những sự kiện, hiện tượng có ý nghĩa đối với nhân dân và lý giải chúng theo quan
niệm tiến bộ của nhân dân, phù hợp với những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Báo chí
Việt Nam là công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, coi phong trào quần
chúng là cơ sở thực tiễn để phản ánh. Do vậy, tính nhân dân không hề mâu thuẫn với
tính Đảng.
Để báo chí đi sâu vào quần chúng một cách thiết thực, C. Mác nhận định:
“Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với nhân dân niềm hy vọng và
lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ.
Trong hy vọng và lo lắng, có điều gì đó báo chí nghe được ở cuộc sống, báo
chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi người đều biết, báo chỉ tuyên bố sự phán xét của
mình đối với những tin tức đó – một cách gay gắt, hăng say, phiến diện, như những
tình cảm và tư tưởng bị xúc động thầm bào nó vào lúc đó.
Điều sai lầm hôm nay năm trong các sự kiện mà nó đưa tin, hoặc trong những
lời nhận xét mà nó nêu lên, thì sẽ được bản thân nó bác bỏ. Báo chí thể hiện trong
bản thân nó cái chính sách “độc đáo”, với ý nghĩa chân chính của từ này, chính sách
mà trong những trường hợp khác kẻ thù của báo chí rất ưa thích...”.
Quan điểm “Báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức xã hội”
để từ đó “báo chí là diễn dàn của nhân dân”, “lấy dân làm gốc”, để “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hoàn toàn phù hợp với thực tế, với quan điểm lịch sử.
Trong thực tế, sự gặp nhau giữa “ý Đảng, lòng dân” đã tạo thành sức mạnh vượt mọi
khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ. Báo chí phân tích, lý giải các hiện tượng nóng
hổi, những vấn đề thiết thực đang đặt ra từ đời sống dưới ánh sáng đường lối, quan
điểm đúng đắn của Đảng và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Có
nhiều tác phẩm báo chí đã gây được ấn tượng sâu sắc, có sức sống lâu bền và sức lôi
cuốn mạnh mẽ với đông đảo quần chúng chính bởi chúng đã làm được điều đó.
Biểu hiện thứ hai là sự tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo quần
chúng nhân dân vào các hoạt động báo chí.
V.I. Lênin từng nói: “Cơ quan báo sẽ sinh động, đầy sinh lực khi nào cứ năm
nhà văn lãnh đạo và thường xuyên viết sách báo thì lại có năm trăm và năm nghìn
nhân viên cộng tác không phải là nhà văn”.
Chính sự tham gia của quần chúng nhân dân đã làm cho báo chí thực sự trở
thành diễn đàn dân chủ để nhân dân phát biểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
mình, trực tiếp tham gia thảo luận những vấn đề quốc kế dân sinh, thực hiện những
quyền dân chủ của nhân dân trong việc biểu dương những nhân tố tích cực, phê phán
các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội cũng như trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
các tổ chức kinh tế và đoàn thể xã hội.
Quần chúng có thể tham gia với tư cách là cộng tác viên cung cấp thông tin,
trực tiếp làm ra các sản phẩm bảo chí và với tư cách công chúng (độc giả, khán giả,
thính giả) đóng góp ý kiến, phê bình, kiến nghị về tất cả các mặt của đời sống xã hội
cũng như riêng với các hoạt động báo chí. Mặt khác, sự tham gia tích cực của quần
chúng làm cho thông tin báo chí trở nên sinh động hơn, nhanh chóng, kịp thời và sát
với cuộc sống hơn. Thu hút trí tuệ, tài năng sáng tạo của toàn xã hội là con đường
đúng đắn để nâng cao tính hấp dẫn, tính trí tuệ của báo chí.
Để tính nhân dân ngày càng được nâng cao và phát triển, báo chí cần dựa vào
lực lượng cộng tác viên gồm các nhà khoa học, các nhà hoạt động chính trị, xã hội,
học sinh, sinh viên và cả những người lao động bình thường. Mở rộng được lực
lượng này chính là báo chí đã thu hút được chất xám của toàn xã hội, tăng thêm sự
gắn bó và uy tín của báo chí trong nhân dân; việc mở rộng có thể thông qua các mục:
“Diễn đàn”, “Điều tra qua thư bạn đọc”, “Bạn đọc viết”, “Ý kiến bạn đọc”, “Hộp thư
truyền hình”, “Ý kiến bạn nghe đài”, “Trả lời bạn xem truyền hình”, “Chuyện quản
lý”, “Chợt nghe chợt nghĩ”, “Giữa đường thấy chuyện”,...
Sự giao lưu, gắn bó với công chúng có một tầm quan trọng đặc biệt. Do đó
công tác bạn đọc (đối với báo viết), thính giả (đối với báo nói), khán giả (đối với báo
hình) luôn luôn là mặt công tác trọng tâm đối với bất kỳ một cơ quan báo chí nào.
Và bất kỳ người làm báo nào cũng phải vững vàng, trung thực, tận tuỵ, có văn hoá,
phải có kinh nghiệm công tác dày dạn, biết sáng tạo và đổi mới phương thức giao
lưu với công chúng để làm cho tờ báo, đài của mình gắn bó mật thiết với xã hội,
cộng đồng.
Biểu hiện thứ ba là ở nghệ thuật biểu hiện trong các tác phẩm báo chí phải
phù hợp với trình độ nhận thức, năng lực tiếp thu và nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh
của công chúng.
Một tác phẩm báo chí khi đề cập đúng vấn đề mà xã hội đang quan tâm, nhưng
nghệ thuật biểu hiện kém, ngôn ngữ xa với cách nói, cách nghĩ của công chúng,
không thể đem lại hiệu quả cao. V.I. Lênin đặc biệt quan tâm đến cách viết, cách nói
sao cho thật giản dị, sáng suốt, dễ hiểu. Người chỉ ra rằng: “Sự đơn giản, dễ hiểu và
dễ phổ cập, nội dung sinh động của sự kiện đưa ra sẽ đảm bảo cho những tư tưởng
của báo chí đi sâu vào lòng người đọc thuộc mọi tầng lớp nhân dân.”.
Do vậy, cái quan trọng hàng đầu của người làm báo là phải biết nói đơn giản,
biết lược bỏ đi những khuôn sáo thuật ngữ cứng nhắc, những khẩu hiệu rỗng tuếch
và xa lạ, những từ ngữ nước ngoài khó hiểu với quần chúng.
Để đảm bảo tính nhân dân của nền báo chí cách mạng, Hồ Chủ tịch đã nhiều
lần nhắc nhở: “Báo chí ta không phải để cho số ít người xem, mà để phục vụ nhân
dân... cho nên phải có tính chất quần chúng”. Người còn khuyên các nhà báo viết
xong nên đọc cho người bình thường nghe, nếu họ không thích, không hiểu thì phải
viết lại.
Giản dị, dễ hiểu là yêu cầu đặt ra để nâng cao tính hiệu quả và hấp dẫn của
báo chí đối với nhân dân. Nhưng điều quan trọng hơn là phải giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao: Nâng cao trên cơ sở phổ cập, và phổ cập để
nâng cao. Sự thông thái, uyên thâm nếu không đi vào lòng người, không được quần
chúng hiểu và chấp nhận thì có thể đó là sự thông thái vô bổ. Ngược lại, nếu giản dị
đến mức “nôm na”, không có năng lực nâng cao tư duy thẩm mỹ thì cũng làm cho
quân chúng khó tiếp thu. Vì vậy, người làm báo phải thường xuyên rèn luyện, trau
dồi vốn sống, vốn hiểu biết văn hoá và phải luôn học hỏi thì mới hoàn thành được
nhiệm vụ của mình.
6.2.5. Tính nhân văn, nhân đạo của báo chí
Báo chí hoạt động vì tự do, dân chủ và đấu tranh vì công băng, lễ phải của xã
hội là dựa trên cơ sở tính nhân văn, nhân đạo.
Tính nhân văn, nhân đạo đòi hỏi người làm báo phải am hiểu con người và
xem con người như một giá trị hoàn thiện và cao quý nhất. Bản chất nhận tắc văn
của báo chí cách mạng được thể hiện ngay ở nguyên cao nhất nguyên tắc tính Đảng.
Bởi vì ngay từ khi chủ nghĩa xã hội được đặt nền móng, báo chí đã đứng trên lập
trường nhân đạo chủ nghĩa để thông tin, lý giải các hiện tượng của đời sống xã hội
nhằm giải phóng con người thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội công
bằng, bác ái vì con người và cho con người.
Nguyên tắc nhân văn của báo chí được thể hiện ở chỗ báo chí nhiệt tình phản
ánh và tham gia đấu tranh nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con người về
kinh tế – xã hội và văn hoá – tinh thần, cũng như tham gia đấu tranh bảo vệ con
người, quyền dân chủ của con người, bảo vệ những giá trị nhân bản.
Lý tưởng nhân văn cao cả là những giá trị vừa có tính đặc thù tương ứng với
lập trường xã hội và quyền lợi của từng giai cấp, với đặc điểm của từng chế độ xã
hội, vừa có tính phổ quát đối với toàn nhân loại. Quá nhấn mạnh tính chung (tính
phổ quát) toàn nhân loại của chủ nghĩa nhân văn mà không nhìn thấy bản sắc giai
cấp của nó, là cách nhìn phiến diện, không phù hợp với thực tế, với quy luật phát
triển khách quan của xã hội loài người. Nhưng nếu không thừa nhận tính phổ quát
của những giá trị nhân văn, toàn nhân loại sẽ rơi vào cực đoan.
Quan điểm của giai cấp tư sản cho rằng, tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm của con người, nếu đụng đến nó là “thiếu dân chử”, là “phi nhân đạo”.
Ngược lại, giai cấp vô sản cho rằng, tư hữu là nguồn gốc đẻ ra chế độ người bóc lột
người, là mất dân chủ, mất tính nhân văn. Rõ ràng, các giai cấp đại diện cho các chế
độ chính trị khác nhau thì sẽ có cách nhìn nhận khác nhau về các giá trị nhân văn.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, lòng từ thiện, tính thương người, đức hy sinh vì
nghĩa lớn, sự đau xót, tiếc thương trước những nỗi đau, mất mát của người khác,...
là những giá trị chung của con người.
Lý luận của tư sản thường tuyệt đối hoá những tiêu chuẩn nhân văn của các
nước phương Tây, coi đó là chuẩn mực đạo đức của hoạt động báo chí. Họ phủ nhận
toàn bộ những giá trị nhân văn mà nền báo chí cách mạng đang theo đuổi.
Lập trường của giai cấp vô sản trong cách nhìn nhận tính nhân văn là báo chí
đấu tranh cho những giá trị nhân văn vốn được tích luỹ và khẳng đinh trong lịch sử
loài người, phấn đấu bảo vệ và phát triển các giá trị cao quý đó. Báo chí thể hiện tính
nhân văn của mình ở chỗ chống lại các hành vi làm tổn hại đến quyền con người,
quyền dân chủ, quyền được sống trong độc lập tự do của con người. Báo chí tham
gia tích cực vào việc xây dựng một chế độ xã hội tất cả vì con người và cho con
người, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng cũng như mối quan hệ hài hoà
giữa cá nhân với h cộng đồng. Báo chí tôn trọng, xây dựng và bảo vệ cá nhân con
người, coi đó là những chuẩn mực chung của xã hội theo những đặc điểm riêng về
thể chất, cá tính, tâm lý, thị hiếu,...
Báo chí cách mạng phấn đấu cho mục tiêu cao cả cuối cùng là xây dựng một
xã hội mà trong đó, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi con người là điều kiện
cần thiết cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Báo chí chân chính không
chấp nhận lối tuyên truyền bạo lực, kích động, gây chia rẽ, hằn thù dân tộc, tôn giáo.
Điều này hoàn toàn phù hợp với những tiêu chuẩn nhân văn chung của con người,
đồng thời cũng là những tiêu chuẩn bắt buộc của đạo đức nghề nghiệp. Báo chí cách
mạng tích cực tham gia bảo vệ hoà bình, bảo vệ môi trường, phát động các phong
trào quần chúng rộng rãi nhằm nâng cao cảnh giác và đẩy lùi các hiểm hoạ đe doạ
con người và sức khoẻ con người. triển của con người ngày càng cao, con người
ngày càng can thiệp sâu vào Chúng ta đang sống trong thời đại có nhiều biến động,
trình độ phát tự nhiên và xã hội. Điều đó đang đặt chính loài người đứng trước hiểm
hoạ đe doạ tàn phá môi trường sống, huỷ hoại nhân tính con người, chà đạp các giá
trị văn hoá, tinh thần của xã hội. Xuất phát từ nguyên tắc nhân văn, báo chí không
thể không tham gia giữ gìn và bảo vệ môi trường. Đã từ lâu nhiều nhà báo lo lắng,
quan tâm và viết nhiều bài về chủ đề môi trường sống để cảnh tỉnh nhân loại về
những hiểm hoạ đó. Ngày nay, báo chí đang bước vào một cuộc chiến đấu mới bảo
vệ nền văn minh nhân loại, xứng đáng là đội quân xung kích, là tiếng nói của lương
tâm thời đại.

6.2.6. Ý thức dân tộc và tính quốc tế của báo chí


Ý thức dân tộc của báo chí là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
của báo chí. Nhưng để hiểu được điều đó, cần phân biệt khái niệm ý thức dân tộc và
chủ nghĩa yêu nước.
Ý thức dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, về bản chất, là hai khái niệm có chung
một phạm vi ý nghĩa. Đó là thái độ trân trọng, là tình cảm yêu quý của con người
đối với dân tộc, cội nguồn đã sinh ra mình, đối với quê hương, đất nước.
Tuy nhiên chủ nghĩa yêu nước là khái niệm hẹp hơn và là đỉnh cao, là sự kết
tinh của ý thức dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là nguồn gốc cho mọi cảm hứng sáng
tạo của người làm báo và cho hoạt động báo chí. Ý thức dân tộc là cơ sở nhận thức
tinh thần cho mọi hoạt động của báo chí, đó cũng là nguyên tắc tính dân tộc của báo
chí.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph. Ăngghen khẳng định: “Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Trong xã hội có giai cấp, con người không thể không đứng về một giai cấp
nào, một nhóm xã hội nào, một dân tộc nào. báo, với tư cách là "q. Nhà và thành
viên của một dân tộc, được nuôi dưỡng bằng văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần,
giao tiếp và tư duy bằng ngôn ngữ, bằng thói quen và phong tục, tập quán,... của dân
tộc đó, vì vậy trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, nhà báo huy động toàn bộ năng
lực và phẩm chất được tạo nên trong lòng dân tộc mình để sáng tạo tác phẩm báo
chí. Muốn có những tác phẩm báo chí có giá trị, phục vụ được sự nghiệp cách mạng
thì nhà báo phải luôn nuôi dưỡng được ý thức dân tộc. Ý thức dân tộc của nhà báo
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngôn ngữ, phong cách và đến cả khả năng lựa chọn các
loại hình, thể loại báo chí. Như vậy, ý thức dân tộc là một tiêu chuẩn đạo đức cao
một phẩm chất tinh thần thiêng liêng đối với mỗi thành viên của dân tộc.
Bất kỳ một nền báo chí tiến bộ nào, trong khi tiếp thu những kinh nghiệm và
tinh hoa báo chí nhân loại, muốn tồn tại và phát triển đều phải vươn tới một bản sắc
dân tộc đậm đà.
Nhiều nước trên thế giới đều lấy tờ báo đầu tiên xuất bản bằng ngôn ngữ dân
tộc để đánh dấu mốc son xuất hiện của báo chí nước đó. Ở Việt Nam, tờ Gia Định
báo số 1 ra ngày 15/4/1865 bằng chữ quốc ngữ được coi là tờ báo đầu tiên trong lịch
sử báo chí Việt Nam.
Tính dân tộc của báo chí không chỉ quyết định những vấn đề về nội dung, bản
sắc, phong tục tập quán mà nó còn để lại dấu ấn trực tiếp ngay trên hình thức và
phương thức báo chí.
Thể hiện bản sắc dân tộc qua cả nội dung, ngôn ngữ và phương thức trình bày
không chỉ là ý thức mà còn là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan báo chí và những
người làm báo. Một nền báo chí thấm nhuần ý thức ý dân tộc khi nó trực tiếp tham
gia phản ánh và giải quyết toàn bộ những vấn đề hệ trọng, bức xúc nhất của dân tộc.
Ra đời trong bão táp của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngót một thế kỷ qua,
chủ đề lớn xuyên suốt báo chí cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, vì độc lập
tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
chủ đề lớn và bao trùm nhất trong nội dung tin bài của báo chí Việt Nam là ủng hộ
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phấn đấu vì một Việt Nam tươi
sáng, giàu mạnh.
Báo chí thấm nhuần ý thức dân tộc là nền báo chí góp phần đắc lực vào việc
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá dân tộc và các giá trị cao quý khác của
dân tộc. Nhấn mạnh ý thức dân tộc, khẳng định nhiệm vụ của báo chí là phải tham
gia vào quá trình đó một cách tích cực và có ý thức không có nghĩa là chúng ta cổ
vũ cho một thứ báo chí sô vanh, dân tộc hẹp hòi, một thứ báo chí, một kiểu làm báo
quay lưng lại với những giá trị văn hoá tinh thần của nhân loại.
Mỗi dân tộc đều có truyền thống văn hoá dân tộc riêng, mỗi người làm báo,
mỗi cơ quan báo chí cần biết phát triển văn hoá dân tộc chính là góp phần làm cho
kho tàng văn hoá của dân tộc trong khu vực và trên thế giới thêm phong phú. Bảo
tồn văn hoá dân tộc, nhà báo phải biết tiếp thu tinh hoa văn hoá Á Đông và thế giới
để làm cho văn hoá dân tộc mình thêm phong phú, từ đó góp phần làm giàu thêm
văn hoá thế giới.
Gần đây, ở Việt Nam thực hiện phương châm: “Khoa học – Dân tộc – Đại
chúng”. Phương châm đó không chỉ phù hợp với hoạt động văn hoá nghệ thuật, mà
còn trực tiếp chỉ đạo sự hình thành và phát triển của báo chí cách mạng, tạo ra cho
nó một ý thức dân tộc thường trực và góp phần làm nên sức hấp dẫn của báo chí, tạo
ra cho nó những nét đặc sắc, một vị trí xứng đáng khi bắt đầu hoà nhập với nền báo
chí thế giới hiện đại. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, trong cơ chế thị trường
hiện nay, báo chí Việt Nam đang phấn đấu theo khuynh hướng: “Dân tộc – Khoa
học – Hiện đại – Nhân văn” nhằm tự đổi mới mình đồng thời tham gia tích cực bảo
vệ nền văn hoá dân tộc, chống lại những mặt trái của nền kinh tế thị trường và những
ảnh hưởng của nền văn hoá ngoại lai, thậm chí những sản phẩm phản văn hoá mà
nhiều nước văn minh đã loại trừ.
Ý thức dân tộc gắn liền với tính quốc tế của hoạt động báo chí. Ý thức dân tộc
và tính quốc tế là một nguyên tắc trong truyền thông đại chúng. Tính quốc tế chân
chính của báo chí cách mạng trước hết thể hiện trong nguyên tắc tính Đảng, nguyên
tắc của giai cấp công nhân – giai cấp có nhu cầu đoàn kết quốc tế và trên thực tế đã
đoàn kết chặt chẽ trong công cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình.
Tính quốc tế – vốn thể hiện ở sự đoàn kết và hợp tác quốc tế trong hoạt động
báo chí được quy định bởi nhu cầu hoạt động thông tin của đông đảo quần chúng,
bởi phạm vi và tính chất nghề nghiệp của nhà báo và đặc biệt là xu thế quốc tế hoá
mọi mặt hoạt động của đời sống nhân loại. Như vậy, sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực
thông tin báo chí, văn hoá giữa các quốc gia là cần thiết và có lợi cho mỗi dân tộc,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tính quốc tế của báo chí còn thể hiện ở
chỗ báo chí bày tỏ thái độ ủng hộ các phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội của các dân tộc trên thế giới, trực tiếp tham gia các phong trào
có quy mô toàn cầu về bảo vệ môi trường, đấu tranh vì một trật tự thế giới bình đẳng.
Tóm lại, trên cơ sở những nguyên tắc đó, hoạt động báo chí của nước trong
giai đoạn hiện nay và trong tương lai là hoàn toàn phù hợp với chính sách đối ngoại
rộng mở của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những người làm báo không chỉ có trách
nhiệm tuân thủ, góp phần thúc đẩy những chính sách đó, mà còn phải chủ động mở
rộng các môi quan hệ với đồng nghiệp các nước trên thế giới để tiếp nhận thông tin,
trao đổi kinh nghiệm, đổi mới trang thiết bị cho hoạt động nghề nghiệp hoà nhập với
nền báo chí hiện đại của nhân loại. Bản sắc của nền báo chí Việt Nam dựa trên những
nguyên tắc nêu trên, kết hợp một cách hài hoà giữa ý thức dân tộc và tinh thần quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân, không chỉ góp phần giữ gìn, bảo vệ nền văn
hoá dân tộc, bảo vệ thuần phong mỹ tục Việt Nam mà còn tiếp tục nền báo chí cách
mạng lên ngang tầm thời đại.
CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Nguyên tắc là gì? Nguyên tắc của hoạt động báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
2. Anh (chị) hãy chứng minh nguyên tắc là cơ sở phương pháp luận của hoạt
động báo chí.
3. Phân tích tính khuynh hướng của báo chí. Cho ví dụ chứng minh. 4. Tại sao
nói Đảng là biểu hiện đỉnh cao của tính khuynh hưởng? Phân tích những biểu hiện
tính Đảng trong hoạt động báo chí cách mạng Việt Nam.
5. Phân tích tính chân thực và khách quan của báo chí. Lấy ví dụ chứng minh.
6. Phân tích tính nhân dân và dân chủ của báo chí, tính công khai của thông
tin báo chí.
7. Phân tích tính nhân văn, nhân đạo và tính quốc tế trong hoạt động báo chí.
Chương 7

LUẬT PHÁP VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ

7.1. LUẬT PHÁP VÀ BÁO CHÍ


7.1.1. Mối quan hệ giữa báo chí và luật pháp
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội;
là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể, đồng thời
là diễn đàn của nhân dân. Báo chí không chỉ tuyên truyền, giáo dục pháp luật mà
còn giúp các cơ quan chức năng khám phá các vụ án, cung cấp tài liệu cho công tác
điều tra, xét xử, góp phần phòng ngừa tội phạm, giữ vững trật tự, kỷ cương và làm
lành mạnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, giữa báo chí và luật pháp có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó với nhau, hỗ trợ và phối hợp cùng nhau để hoàn thành trách nhiệm trước
xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt thì Luật pháp là những quy phạm hành vi do Nhà
nước ban hành và mọi người dân buộc phải tuân theo nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội.
Từ điển bách khoa luật học (Mátxcơva, 1984) định nghĩa: “Luật pháp là một
hệ thống những chuẩn mực xã hội có tinh bắt buộc được Nhà nước dùng sức mạnh
đảm bảo”.
Như vậy, Nhà nước quản lý và điều hành các mối quan hệ xã hội bằng luật
pháp, bao gồm những điều bắt buộc và những điều cho phép, các hình thức trừng
phạt, cấm đoán hoặc tha bổng nhằm đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật.
Hệ thống các văn bản pháp luật bao gồm: Hiến pháp; các bộ luật (Dân sự,
Hình sự, Hôn nhân và Gia đình, Đầu tư,... ); các pháp lệnh của Quốc hội, Nhà nước;
các nghị định, chỉ thị, thông tư của Chính phủ, các bộ, UBND tỉnh và các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền khác.
Ngoài những văn bản pháp luật nêu trên, báo chí cần phải tuân thủ những quy
ước xã hội như: phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống,... Người làm báo phải coi
những quy ước đó như là những đạo luật không thành văn, cần phải vận dụng trong
hoạt động nghề nghiệp.
Những quy định về hoạt động báo chí được xác định trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật khác. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 ghi rõ tại Điều 69. “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có
quyền được thông tin.” và Điều 33: “Nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông
tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của
người dân Việt Nam”.
Rõ ràng, Hiến pháp – bộ luật cao nhất của Nhà nước, đã thừa nhận hoạt động
của báo chí, đồng thời cũng xác định những ranh giới mà hoạt động này không được
vi phạm. Theo luật pháp quy định thì nhà báo cũng là một công dân. Vì thế, bản thân
nhà báo cũng phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của công dân theo pháp luật.
Tuy nhiên, với trách nhiệm nghề nghiệp, nhà báo còn phải tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, tổ chức và vận động công chúng tuân thủ và thực hiện theo pháp luật, góp
phần cùng các cơ quan chức năng giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội.
Đối với nhà báo, sự am hiểu và vận dụng pháp luật trong hoạt động nghề
nghiệp là hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi vì trong khi làm nhiệm vụ, nhà báo
phải va chạm nhiều với các tổ chức xã hội, các tập thể và cá nhân khác nhau. Hơn
nữa, khi các mối quan hệ xã hội (như hoạt động của các tổ chức, các công dân và cá
nhân có thẩm quyền) còn bị ràng buộc bởi những tiêu chuẩn luật pháp, thì nhà báo
càng phải nắm rõ hệ thống và nội dung của các văn bản mang tính pháp lý đó để vận
dụng và xử lý trong từng tình huống cụ thể.
Nhà báo phải nắm chắc nội dung và dựa vào các văn bản pháp luật để xem
xét, phản ánh, đánh giá và kiến nghị về những hiện tượng, quá trình, sự kiện của đời
sống xã hội trong từng thời điểm cụ thể. Có như vậy các tác phẩm báo chí của họ
mới có sức thuyết phục và độ tin cậy cao.
Am hiểu pháp luật cho phép nhà báo hoạt động tự tin, chủ động xử lý các hiện
tượng, sự kiện mà nhà báo va chạm, đồng thời có cách xét đoán công bằng và đưa
ra những kết luận có cơ sở chắc chắn.
Hiểu biết pháp luật còn giúp nhà báo sử dụng các quyền của mình trong hoạt
động nghề nghiệp như: quyền không bị kiểm duyệt tác phẩm, giữ bản quyền tác giả,
quyền được hưởng nhuận bút, quyền sử dụng tên của mình và các bút danh, quyền
được hưởng một số chế độ ưu tiên trong hoạt động nghề nghiệp theo quy định của
Chính phủ,... Đồng thời còn giúp quần chúng sử dụng quyền hạn và trách nhiệm của
mình trong cuộc sống pháp luật.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, nhà báo không phải là quan toà có trong tay cả
một cơ quan chức năng, cũng không như một thanh tra có đội ngũ chuyên viên giúp
việc. Song nhà báo có thể dựa vào kết luận của thanh tra và kiểm tra để định hướng
cho bản thân trong khi tiến hành công việc. Đó là cơ sở pháp lý để tạo ra một bài
báo có sức thuyết phục. Về khía cạnh này, báo chí đã tạo ra một sức mạnh to lớn –
sức mạnh của công luận. Theo đó, những thông tin mà báo chí đưa ra có thể tạo ra
sự ủng hộ hoặc sức ép về dư luận xã hội buộc các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân sai
phạm phải điều chỉnh hành vi của mình. Chính vì vậy, nhiều lý luận gia đã xem báo
chí như một thứ quyền lực – quyền lực thứ tư sau quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Đặc biệt hiện nay, nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
để quản lý, tổ chức và điều hành xã hội bằng luật pháp thì việc nhà báo phải hiểu
biết pháp luật càng trở nên quan trọng và cần thiết. Kiến thức về luật pháp, hiểu biết
xã hội và kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho nhà báo làm tốt công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, động viên và tổ chức nhân dân “sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật”.

7.1.2. Cơ sở pháp luật của báo chí Việt Nam


a) Luật về chế độ báo chí năm 1957
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã
chăm lo xây dựng hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động báo chí của chế độ dân
chủ nhân dân. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh về việc duy
trì tạm thời các luật lệ hiện hành, nhưng nêu rõ “những điều khoản trong các luật cũ
tạm thời giữ lại do sắc lệnh này, chỉ thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc
lập của nước Việt Nam và Chính phủ Dân chủ Cộng hoà”.
Trong tình hình chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, lại phải đối
phó với những khó khăn, phức tạp ở trong và ngoài nước, Chính phủ đã phải thi hành
chế độ kiểm duyệt báo chí theo Sắc lệnh 41 ngày 29/3/1946. Sắc lệnh này quy định
thành lập Hội đồng kiểm duyệt gồm 5 người, trong đó có một đại biểu báo chí để
xem xét việc khiếu nại những bài bị kiểm duyệt.
Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), Nhà nước ta tuyên bố xoá hỏ chế
độ kiểm duyệt đối với báo chí – xuất bản, song yêu cầu phải tuân thủ kỷ luật tuyên
truyền. Như vậy, thực tế chế độ kiểm duyệt báo chí đã được bãi bỏ từ đó.
Có thể nói, từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho tới năm 1956,
ở nước ta có 29 tờ báo hằng ngày và hằng tuần (trong đó có 9 tờ báo tư nhân) và 22
tạp chí, đặc san. Trước tình hình mới, Chủ tịch nước đã ký Sắc lệnh số 282 ngày
14/12/1956 về chế độ báo chí. Sau khi được Quốc hội thông qua, sắc lệnh này đã trở
thành Luật số 100/SL–L002 ngày 20/5/1957 quy định về chế độ báo chí.
* Nội dung chủ yếu của Luật về chế độ báo chí năm 1957
– Bảo đảm quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí, bao gồm:
+ Quyền tự do ngôn luận báo chí dành cho mọi người dân, không phân biệt
thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc, giới tính;
+ Báo chí không phải chịu sự kiểm duyệt trước khi in (trừ trường hợp đặc biệt,
việc kiểm duyệt tạm thời sẽ do Hội đồng Chính phủ quyết định);
+ Báo chí được các cơ quan nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng để
hoạt động nghiệp vụ;
+ Nhân dân có quyền được trả lời, đính chính những điều nói sai có liên quan
đến mình.

– Báo chí không được tuyên truyền:

+ Chống lại đường lối, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước, chống phá
pháp luật;
+ Phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ;
+ Chia rẽ dân tộc, làm tổn hại tình hữu nghị với nhân dân các nước, tuyên
truyền cho chủ nghĩa đế quốc, cho chiến tranh;
+ Tiết lộ bí mật quốc gia;
+ Dâm ô, trụy lạc, đồi bại.
- Xác định những quy định cụ thể về điều kiện hoạt động của báo chí và thủ
tục cấp giấy phép, thể lệ, lưu chiểu.
- Quy định về hình thức kỷ luật, tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch
thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, phạt tiền hoặc bị truy tố trước
pháp luật.
Đây là đạo luật đầu tiên về báo chí của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, là cơ sở pháp lý quan trọng để báo chí nước ta hoạt động trong điều kiện mới,
đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế trong lĩnh vực báo chí.
Sau đạo luật báo chí năm 1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 297/TTg ngày 9/7/1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo chuyên
nghiệp và Nghị định số 298/TTg ngày 9/7/1957 quy định chi tiết thi hành Luật về
chế độ báo chí năm 1957.
* Luật Báo chí 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí năm 1990
Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí mới. Ngày 2/1/1990, Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước ký Lệnh công bố Luật Bảo chí nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thay thế Luật về chế độ báo chí năm 1957.
Luật Báo chí năm 1990 vừa kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của Luật về
chế độ báo chí năm 1957, vừa bổ sung và hoàn thiện một bước luật pháp của Nhà
nước Việt Nam về báo chí.
Luật Báo chí năm 1990 cũng phản ánh những thay đổi to lớn trong đời sống
kinh tế – xã hội của Việt Nam trong sự nghiệp Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo. Luật Báo chí mới cũng tạo một hành lang pháp lý rộng rãi
để báo chí nước ta vừa phát huy nội lực mới, vừa hoà nhập với báo chí thế giới trong
bối cảnh và điều kiện mới.
Luật Báo chí năm 1990 gồm có 7 chương và 31 điều; so với Luật về chế độ
báo chí năm 1957, nó có những điểm mới cơ bản sau:
- Xác định rõ báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã
hội, không có báo chí tư nhân (Điều 1); thể hiện rõ và đầy đủ hơn quyền tự do dân
chủ của nhân dân qua báo chí (Điều 2); và vai trò, trách nhiệm của báo chí theo
đường lối của Đảng (Điều 3).
- Nêu rõ và đầy đủ hơn về quyền thông tin và được thông tin của công dân
(Điều 4); quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin (Điều 7); quyền và nghĩa vụ trả lời
và cải chính (Điều 5, 8, 9).
− Quy định đầy đủ và chi tiết hơn về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan
báo chí và nhà báo; của cơ quan chủ quản báo chí (Điều 12); của Nhà nước đối với
báo chí (Điều 17).
- Quy định trách nhiệm của các cơ sở in và tổ chức phát hành (Điều 12 và
Điều 21).
- Quy định về quảng cáo trên báo chí (Điều 25).
− Quy định về khen thưởng và kỷ luật (Điều 27).
Tiếp tục hoàn chỉnh và thực hiện Luật Báo chí, ngày 20/4/1992, Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 133/HĐBT quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí về các mặt. Nghị định cũng phản ánh những yêu cầu mới đặt ra
cho công tác quản lý của Nhà nước từ sau khi ban hành Luật Báo chí năm 1990 và
cụ thể hoá những quan điểm trong các Chỉ thị mới của Ban Bí thư và Chính phủ về
báo chí (Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
báo chí – xuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về công tác tăng cường quản lý báo chí
– xuất bản; Chỉ thị 08-CT/TW của Ban Bí thư (Khoá VII) ngày 31/3/1992; Chỉ thị
số 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khoá VIII) ngày 17/10/1997 về Tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí − xuất bản,...)
Bộ Văn hoá – Thông tin cũng ra Thông tư số 131/TT–VP ngày 20/11/1990
hướng dẫn thi hành Nghị định 133/HĐBT và có điều chỉnh, bổ sung một số tiêu
chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí.
Từ năm 1990 đến năm 1998, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thông tin
và các bộ, ban ngành khác đã ban hành trên 43 văn bản có tính pháp lý về hoạt động
báo chí nước ta trong Thời kỳ Đối mới và tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Trong hơn 9 năm thực hiện, Luật Báo chí năm 1990 đã phát huy tác tri, dụng
tích cực, tạo điều kiện cho báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ và loại hình, về số
lượng và chất lượng thông tin, góp phần ổn định chính phát triển kinh tế xã hội, phục
vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm tính hiệu lực trong
quản lý, điều hành các hoạt động báo chí của Nhà nước. Luật Báo chí năm 1990
cũng tạo được hành lang pháp lý cho các hoạt động báo chí nước ta trong xu thế hợp
tác, hoà nhập với báo chí khu vực và thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, báo chí Việt Nam thời gian qua cũng còn
nhiều hạn chế trong hoạt động nghiệp vụ và thực hiện Luật Báo chí. Đó là sự lạm
quyền và cửa quyền của một số nhà báo và cơ quan báo chí; là việc vượt quá xa mục
đích, tôn chỉ và đối tượng phục vụ. Hơn nữa, việc khai thác, cung cấp, xử lý thông
tin và trường hợp đưa thông tin sai, không chính xác, không khách quan, vô tư về tổ
chức, cá nhân cụ thể dẫn đến thông tin đưa lên báo chí sai sự thật, xúc phạm đến
danh dự, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân nhưng việc cải chính của cơ quan báo
chí không nghiêm khiến dư luận xã hội bất bình. Các vấn đề như mở rộng quan hệ
quốc tế trong hoạt động báo chí, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, áp dụng những
thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao chất lượng của báo chí cũng như
tạo thêm nguồn tài chính cho báo chí cần phải hoạt động tốt hơn. Các vấn đề mới
như: thuế báo chí, kinh doanh báo chí, kinh tế báo chí đang là những vấn đề cần quan
tâm giải quyết. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí vì vậy đã trở
thành yêu cầu bức thiết để báo chí Việt Nam có được môi trường phát triển đúng
hướng với chất lượng cao hơn, nhân dân tin cậy hơn, đủ sức đảm nhận vai trò của
mình trước những thời cơ và thách thức mới của các phương tiện thông tin trong và
ngoài nước.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Quốc hội khoá X đã xem xét và thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1990. Tiếp đó, Chủ tịch
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh số 05-L/CTN ngày 26/6/1999
về việc công bố Luật sửa đổi, bổ điều của Luật Báo chí năm 1990 và Luật này chính
thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/1999.
Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí lần này là
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển đúng hướng, đúng pháp luật, đảm
bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; tăng cường công
tác quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí; đề cao trách nhiệm xã hội và
nghĩa vụ của cơ quan báo chí, nhà báo trong việc phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Xuất phát từ mục đích nói trên, luật sửa đổi giữ nguyên cơ cấu các chương,
điều của Luật Báo chí năm 1990, chỉ sửa đổi Lời nói đầu và 11 điều trong các
chương, bổ sung 4 điều mới. Riêng Điều 30 trong Chương VII được chuyển lên
Chương V làm thành Điều 17b “Quan hệ quốc tế về hoạt động báo chí”.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung mới là: Lời nói đầu, các loại hình báo chỉ
(Điều 1), cơ quan chủ quản báo chí (Điều 12), quyền hạn và nhiệm vụ của nhà báo
(Điều 15), cải chính trên báo chí (Điều 9), nội dung quản lý Nhà nước về báo chí,
tài chính của cơ quan báo chí (Điều 19), xử lý vi phạm (Điều 28).
Như vậy, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, báo chí Việt Nam đã
hoạt động trong khuôn khổ Luật về chế độ báo chí năm 1957, Luật Báo chí năm
1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1990. Mỗi đạo luật
đều được ra đời trong những điều kiện cụ thể của đất nước và thế giới, thể hiện sự
bổ sung, kế thừa và phát triển lên một bước mới, phù hợp hơn với từng giai đoạn
mới của lịch sử và hoàn hiện hơn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới của dân tộc và thời
đại.
* Cơ sở pháp lý của hoạt động báo chí của phóng viên nước ngoài tại Việt
Nam và phóng viên Việt Nam tại nước ngoài
Một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản pháp luật về báo chí của Việt
Nam là những quy định báo chí có tính liên hệ giữa nhân dân ta với các cá nhân và
cơ quan nước ngoài và các Sắc lệnh, Chỉ thị, Thông tư về việc giữ gìn bí mật Nhà
nước. “Cơi tổ chức, cổng dân Việt Nam tiếp xúc với tổ chức hoặc người nước ngoài
phải tuân thủ các quy định của Pháp lệnh về bảo vệ bí mật Nhà nước” (Trích: “Pháp
lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước” ngày 28/10/1991).
Luật Báo chí năm 1990 giao Chính phủ ban hành “Quy chế hoạt động. của
báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài” (Điều 30). Tại Điều 17b, Chương V
của Luật sửa đổi, bổ sung, ghi rõ thêm “Nhà nước mở rộng quan hệ quốc tế trong
hoạt động báo chí theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng
và các bên cùng có lợi. Chính phủ quy định cụ thể về quan hệ quốc tế trong hoạt
động báo chí”. Ngày 03/12/1991, Bộ Văn hoá – Thông tin đã ra quy định tạm thời
một số điểm về hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài, trong đó
nêu rõ: “Nhà báo Việt Nam quan hệ với cơ quan báo chí nước ngoài viết tin, bài phải
được tổng biên tập đồng ý, các hoạt động này phải do Tổng biên tập và cơ quan chủ
quản đề nghị và phải được phép của Bộ Văn hoá – Thông tin cùng các cơ quan hữu
quan”.
Đối với các nhà báo nước ngoài công tác tại Việt Nam, phải được phép của
Nhà nước Việt Nam (do Bộ Công an và Bộ Ngoại giao quản lý). Họ được cấp giấy
phép đi lại và được sử dụng những phương tiện, máy móc cần thiết cho hoạt động
nghiệp vụ, được dự các cuộc họp báo, tiến hành các cuộc tiếp xúc, trao đổi,... Trong
trường hợp bị phát hiện làm gián điệp, tình bảo, thông qua hoạt động báo chí làm
tổn hại đến lợi ích và an ninh quốc gia của Việt Nam sẽ bị truy tố trước pháp luật
hoặc trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tính đến năm 2002, đã có hơn 38 cơ quan
thường trú của các hãng thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình của nhiều nước
trên thế giới đóng tại Hà Nội để hoạt động báo chí.
Các nhà báo Việt Nam công tác ở nước ngoài cũng phải tuân thủ luật pháp
của nước sở tại, phải nắm vững và thực hiện luật quốc tế, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước. Ngoài ra còn phải hiểu rõ
và tôn trọng phong tục tập quán, lịch sử, văn hoá của nước đó để vừa hoàn thành
nhiệm vụ nghề nghiệp, vừa góp phần củng cố và phát triển tình hữu nghị và hợp tác
giữa các dân tộc trên thế giới.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa
phương hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam, những năm gần đây, báo chí nước ta
đã có những bước phát triển mới về hợp tác quốc tế. Nhiều cơ quan báo chí đã lập
văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú đến hoạt động báo chí tại nhiều nước
trên thế giới.
Như vậy, phóng viên Việt Nam hoạt động ở nước ngoài hay phóng viên nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam đều phải theo sự thoả thuận của hai Nhà nước, phải
tuân thủ pháp luật, tôn trọng phong tục, tập quán của từng dân tộc, phục vụ cho lợi
ích của từng quốc gia và sự tiến bộ chung của nhân loại.

7.1.3. Luật quốc tế và hoạt động báo chí


Luật quốc tế là tổng hợp những quy định luật pháp giữa các quốc gia trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,... và trao đổi thông tin.
Đó là những quyền và những cam kết trong việc trao đổi, giao lưu về nội dung và
phương tiện thông tin giữa hai bên hoặc nhiều bên, giữa các khu vực và trên phạm
vi quốc tế được thể hiện trong các hiệp định, hiệp ước giữa các Nhà nước, các tổ
chức và các cơ quan thông tin đại chúng.
Thi hành luật quốc tế là các quốc gia, các dân tộc, các tổ chức thuộc chính phủ
hoặc các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.

Một trong những tài liệu đầu tiên là Công ước Điện tín Quốc tế 1865. Công
ước xác định quyền các quốc gia được đưa tin chuyển bằng điện tín và cấm chuyển
tin qua điện báo khi những tin tức này gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc
gia, chống lại luật pháp và tín ngưỡng của các quốc gia đó.
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 cũng ghi rõ: “Mỗi
người đều có quyền tự do ngôn luận và quyền tìm, nhận và truyền đạt thông tin”.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật điện tử, hàng loạt các hiệp định được ký
kết, tiêu biểu như “Công ước quốc tế về việc sử dụng hệ thống phát thanh, truyền
hình vì mục đích hoà bình” (1938), trong đó có một phần ghi rõ cấm các chương
trình phát thanh “kích động các hành vi bạo loạn của công dân trên bất cứ vùng lãnh
thổ nào”.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai (1945), ngoài những đài và trạm thu – phát
sóng công suất lớn trong nội địa các quốc gia, đã xuất hiện thêm một hình thức truyền
thông tin mới – trạm truyền tin quốc tế đặt ở biên giới các nước (một số thế lực phản
động đã lợi dụng cơ hội này để lập đài chống phá các nước đang phát triển hoặc theo
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa như trong thời gian Chiến tranh Lạnh và chiến tranh
tâm lý. Mỹ và phương Tây lập đài “Tự do”, “Châu Âu tự do”, “Làn sóng Đức”,... để
chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu năm 1991. Hoặc Mỹ
lập đài phát thanh José Martí chống Cuba, lập 60 đài phát thanh tiếng Việt, trong đó
có 34 dài chống Việt Nam).
Tuyên bố Liên Hợp Quốc năm 1970 cấm dùng vũ lực và đe doạ bằng vũ trang
đối với quyền tự quyết của các dân tộc; giải quyết mâu thuẫn bằng giải pháp hoà
bình, đối thoại, tôn trọng chủ quyền, không xâm phạm vào công việc nội bộ của
nhau; bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền con người; cấm tuyên truyền cho chiến
tranh; tiến tới xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các dân tộc, thiết lập một trật tự
thông tin mới. Nhờ đó hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng càng mở
rộng, hoạt động của các nhà báo đi vào quỹ đạo pháp luật quốc tế là không tuyên
truyền những tư tưởng phản động và chỉ được phép sử dụng những phương tiện cho
phép trên cơ sở nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Cùng với Hiệp ước quốc tế về việc
sử dụng khoảng không vũ trụ (1967), Liên Xô đưa ra sáng kiến dùng vệ tinh nhân
tạo để truyền tin, theo đó các đài truyền tin mặt đất trực tiếp nhận thông tin qua vệ
tinh truyền thông làm tăng khả năng trao đổi, giao lưu văn hoá giữa các nước. Vệ
tinh truyền thông được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực: thông tin, truyền ảnh,
truyền số liệu, điện thoại, phát thanh, truyền hình,... đáp ứng nhu cầu thông tin ngày
càng tăng của con người.
Năm 1976, UNESCO thông qua “Tuyên bố về quyền hạn cơ bản sử dụng
những PTTTĐC nhằm phục vụ mục đích hoà bình và an ninh quốc tế, chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phục thù chiến tranh”.
Năm 1982, Liên Hợp Quốc thông qua dự thảo “Nguyên tắc sử dụng vệ tinh
nhân tạo cho việc tuyên truyền thông tin trực tiếp”. Phục vụ cho mục đích đó có các
tổ chức lớn như: Tổ chức Điện báo Quốc tế (MSO), Tổ chức Phát thanh và Truyền
hình Quốc tế (OIRT), Vệ tinh nhân tạo và truyền hình VIDEOTEX qua vệ tinh; các
tổ chức truyền hình khác như: INTERSPUTNIC (gồm 13 nước châu Âu, châu Á và
Trung Cận Đông). Tổ chức này có 4 vệ tinh đặt trên quỹ đạo địa tĩnh: STATIONAR
4, STATIONAR 5, STATIONAR 13, STATIONAR 14. Ngoài ra, còn có hệ thống
thu và phát lại đầu tiên của Liên Xô qua vệ tinh hoạt động phục vụ các vùng Tây
Seberia, Uran, Trung Á và Nam Á. Tổ chức INTELSAT thành lập năm 1964 (Liên
hiệp Vệ tinh viễn thông quốc tế), hiện nay có trên 100 nước tham gia, có hơn 10 vệ
tinh trên quỹ đạo, nối liền 214 trạm mặt đất được phân bố ở trên 146 nước trên thế
giới.
Ngoài ra còn có hệ thống các vệ tinh khác của ASIASAT, CHINASAT,
INSAT,... cũng được phóng lên trong những năm gần đây, phục vụ cho các lĩnh vực
thông tin, điện báo, điện thoại, phát thanh, truyền hình,... của nhiều nước và khu vực.
Nói chung, các quốc gia đều sử dụng các quyền chủ quyền của mình để đảm
bảo an ninh đất nước và an ninh thông tin. Luật pháp của các nước cho phép nhập
các loại ấn phẩm báo chí, phim ảnh, băng ghi âm, ghi hình và các dữ liệu thông tin
khác, miễn là không chống lại lợi ích của các quốc gia đó; đồng thời xuất đi hoặc
trao đổi hai chiều những thông tin mà các nước thoả thuận, cam kết với nhau.
Như vậy, hoạt động báo chí luôn gắn liền với những quy định của pháp luật.
Hiểu biết và nắm chắc luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà báo hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao.

7.2. ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ1

7.2.1. Quan niệm chung về đạo đức


a) Khái niệm đạo đức
Theo quan niệm cổ truyền phương Đông, đạo đức có nghĩa là “đạo làm
người”, bao gồm nhiều chuẩn mực về các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ,
bạn bè, anh em, làng xóm,... Ở phương Tây, khái niệm “đạo đức” bắt nguồn từ chữ
“mos” trong tiếng Latinh, có nghĩa là “lề thói”, “moralis” có nghĩa là “thói quen”.
Như vậy, khi nói đến đạo đức là nói đến các lề thói và tập tục biểu hiện trong mối
quan hệ giao tiếp hằng ngày giữa người với người. Thuật ngữ quốc tế của đạo đức
là “moral”.
Theo C. Mác, đạo đức là một “hình thái ý thức xã hội” chịu sự tác động qua
lại của các hình thái ý thức xã hội khác, và cùng với các hình thái ý thức xã hội ấy,
đạo đức chịu sự quy định của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Do đó, đạo đức có “bản
chất xã hội”.
1
Nguồn: Nguyễn Thị Trường Giang, Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo
chí – xuất bản, 2011, NXB Thông tin và Truyền thông, tr. 5–18.
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa là “một hình thái ý thức xã hội, tập hợp
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.
Như vậy, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại
xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Thích ứng với mỗi một xã hội
thì có một đạo đức xã hội tương ứng. Suy cho cùng, sự phát sinh, phát triển của đạo
đức phụ thuộc vào sự phát triển của phương thức sản xuất.
Cùng với nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người, đạo đức đánh giá
hành vi con người theo các chuẩn mực và các giá trị như thiện và ác, chính nghĩa và
phi nghĩa, đúng và sai, cái phải làm và cái không được làm, cái nên làm và cái không
nên làm,... Việc yêu nước, thương dân, kính trên nhường dưới, hiếu thuận với cha
mẹ, đối xử chan hoà với anh em, bạn bè, hàng xóm,... đều do các chuẩn mực đạo
đức của xã hội chi phối các hành vi cá nhân. Chuẩn mực đạo đức là phương thức
điều chỉnh ưu việt và đặc thù của xã hội loài người, giúp con người có khả năng tự
hoàn thiện mình và phát triển ngày một văn minh, tiến bộ.
Về mặt xã hội, đạo đức được biểu hiện bằng thái độ cụ thể của dư luận xã hội.
Đó là những ý kiến, trạng thái tinh thần tán thưởng, khẳng định (tích cực) hoặc phê
phán, phủ định (tiêu cực) của một số đông người đối với một hành vi, ý tưởng của
cá nhân hay một nhóm người nào đó. Về mặt cá nhân, đạo đức được coi là “toà án
lương tâm” có khả năng tự phê phán, đánh giá và suy xét từng hành vi, thái độ và ý
nghĩ trong bản thân mỗi cá nhân.
Xét về bản chất, sự điều chỉnh của đạo dức mang tính tự giác, là sự tự lựa
chọn của mỗi người. Đạo đức được bảo đảm bằng lương tâm và sự phê phán của dư
luận xã hội, nó chỉ khuyên giải, can ngăn để con người tự lựa chọn. Từ những chuẩn
mực và quy tắc chung, mỗi cá nhân tự chọn lựa và có nghĩa vụ, trách nhiệm chuyển
những yêu cầu đạo đức xã hội đó thành nhu cầu, mục đích và sự hứng thú của bản
thân. Biểu hiện của sự chuyển hoá này là sự tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn
mực mà xã hội đã đề ra. Vì vậy, ngoài biểu hiện trong các quan hệ xã hội, đạo đức
còn thể hiện trong thái độ, hành vi và việc tự ứng xử của bản thân mỗi con người.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, do
đó đạo đức cổ bản chất xã hội. Bản chất xã hội của đạo đức biểu hiện ở tính thời đại,
tính dân tộc và tính giai cấp.
Tính thời đại: Mặc dù có tính độc lập nhất định nhưng các điều kiện kinh tế –
xã hội của mỗi thời đại vẫn có sự tác động và quy định nội dung, vai trò của đạo đức
trong thời đại đó. Nghĩa là, tương ứng với mỗi thời đại lịch sử là một hình thái đạo
đức nhất định đặc trưng cho thời đại đó.
Tính dân tộc: Sự khác nhau về điều kiện kinh tế, về những yếu tố tự nhiên
(như: địa lý, khí hậu, khu vực cư trú,...), về bản sắc văn hoá giữa các vùng miền, dân
tộc cũng dẫn đến những sự khác nhau trong các chuẩn mực đạo đức.
Tính giai cấp: Sự khác nhau về lợi ích giữa các giai cấp dẫn đến các chuẩn
mực đạo đức khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, đạo thống là đạo đức của giai cấp
thống trị. , đức chính
Đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã
hội được hình thành từ thực tiễn đạo đức của cá nhân. Trong quá trình sinh sống của
mỗi cộng đồng người, những nguyên tắc, chuẩn mực, quan niệm và lý tưởng đạo
đức được hình thành như là hệ thống giá trị chung được mọi thành viên tin tưởng và
noi theo. Đến lượt mình, hệ thống giá trị chung này tác động tới đạo đức cá nhân,
điều chỉnh hành vi cá nhân theo yêu cầu của đạo đức xã hội.
Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã hội trong những cá nhân riêng
biệt, cụ thể. Do vậy, có thể coi sự hình thành đạo đức cá nhân là quá trình xã hội hoá
cá nhân về mặt đạo đức. Mức độ xã hội hoá đánh dấu trình độ phát triển của đạo đức
cá nhân.
Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau. Phương thức chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân là
thông qua hệ thống giáo dục đạo đức (bao gồm cả tự giáo dục).

b) Chức năng của đạo đức


* Chức năng nhận thức
Mục đích của nhận thức đạo đức là đánh giá các sự kiện, hiện tượng xã hội,
hành vi, hành động, tình cảm con người,... theo các thang giá trị (thiện và ác, đúng
và sai, nên và không nên, ...).
Phải có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức thì mới có kết quả nhận
thức. Kết quả nhận thức phụ thuộc phần nhiều vào sự đánh giá, trình độ, quan điểm,
quan hệ lợi ích,... của chủ thể nhận thức. Do đó, trước một hiện tượng đạo đức nhất
định, các chủ thể nhận thức sẽ có những đánh giá, nhân định khác nhau, không thống
nhất. Tuy nhiên, trong trường hợp chủ thể nhận thức bị phân chia, không thể thống
nhất được thì vẫn có những tiêu chí khách quan để đánh giá nhận thức đạo đức và
kết quả của nhận thức đạo đức. Tiến bộ xã hội và tự do của con người là hai tiêu chí
do quan điểm Mácxít đưa ra để đánh giá nhận thức đạo đức và kết quả của nhận thức
đạo đức.
* Chức năng điều chỉnh
Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh thái độ và hành vi của
con người trong xã hội. Đặc trưng của điều chỉnh đạo đức là tính tự giác và tự nguyện
của từng cá nhân con người. Với khả năng, trình độ nhận thức của mình, họ tự lĩnh
hội các giá trị, chuẩn mực đạo đức, sau đó biến chúng thành động cơ, mục đích hành
động của mình. Như vậy, điều chỉnh đạo đức được thực hiện thông qua tác động của
ý thức đạo đức đối với hành vi con người. thông lần
Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào nhân tố chủ do nhân
tố chủ quan và nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan chính là trình độ phát triển
của ý thức đạo đức. Nhân tố khách quan là các quan hệ kinh tế – xã hội.

* Chức năng giáo dục


Tác động của hệ thống đạo đức xã hội tới sự hình thành đạo đức cá nhân chính
là sự thể hiện và thực hiện chức năng giáo dục của đạo đức.
Sự hình thành đạo đức cá nhân của mỗi người được thực hiện thông qua hai
phương thức.
Một là, nhận thức đạo đức của cá nhân. Đây là quá trình chuyển đạo đức xã
hội thành đạo đức cá nhân. Theo con đường này, những kinh nghiệm, quan niệm,
chuẩn mực của đạo đức xã hội sẽ được cá nhân nhận thức và chuyển hoá thành đạo
đức cá nhân. Cùng với giáo dục đạo đức, tự giáo dục đạo đức cũng là phương thức
chuyển đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân.
Hai là, hoạt động thực tiễn đạo đức của cá nhân. Thông qua việc lĩnh hội các
chuẩn mực, giá trị đạo đức, các cá nhân tự giác định hướng, điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Nghĩa là, trong khi hoạt động thực
tiễn, con người vừa khẳng định những giá trị, chuẩn mực đạo đức mà mình lĩnh hội
được, vừa khẳng định sự phát triển ý thức đạo đức của bản thân.

7.2.2. Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo


a) Khái niệm
* Đạo đức nghề nghiệp
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong một
lĩnh vực cụ thể trong hệ thống đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp bao
gồm những yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc và chuẩn tiến bộ mực trong lĩnh
vực nghề nghiệp nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong nghề
nghiệp đó sao cho phù hợp với lợi ích và sự của xã hội.
Xã hội đòi hỏi người hành nghề trong bất cứ lĩnh vực nào cũng phải tuân thủ
những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cơ bản. Mặc dù phẩm chất đạo đức cá nhân
trong xã hội có nét chung, nhưng phẩm chất đạo đức trong từng nghề nghiệp lại có
những nét đặc thù và yêu cầu riêng biệt. Tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực trong
đạo đức nghề nghiệp vừa góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện nâng
cao chất lượng lao động, hoàn thiện người lao động trong nghề nghiệp đó.
Nghề nào cũng cần có đạo đức nghề nghiệp, song đối với một số nghề có vị
trí quan trọng đặc biệt và có quan hệ rộng rãi tới nhiều người trong xã hội như nghề
giáo, nghề báo, nghề y, nghề luật, an ninh, toà án,... thì đạo đức nghề nghiệp được
đặc biệt coi trọng. Với những nghề này, bên cạnh những chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp chung cho tất cả các quốc gia như đạo đức người thầy giáo, đạo đức nghề
thầy thuốc, đạo đức quan toà, đạo đức nghề báo,... thì mỗi nước, trong mỗi thời kỳ
lịch sử, lại đề ra những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp riêng cho người hành nghề
ở nước mình. Ví dụ, bên cạnh lời thề Hippocrate có tính phổ quát cho những người
làm trong ngành y trên toàn thế giới thì còn có những chuẩn mực đạo đức của người
thầy thuốc Việt Nam dựa theo lời dạy của các danh y người Việt và của Bác Hồ đối
với cán bộ, nhân viên ngành y.
* Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Tác giả E.P. Prokhorop trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí cho rằng, đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo là “những quy định đạo đức không được ghi trong đạo luật,
nhưng được chấp nhận trong giới báo chí và được duy trì bởi sức mạnh của dư luận
xã hội, bởi các tổ chức sáng tạo nghề nghiệp, đó là những nguyên tắc, những quy
định và những quy tắc về hành vi đạo đức của nhà báo”.
Trong cuốn Thuật ngữ Bảo chí – Truyền thông, tác giả cho rằng, đây là “khái
niệm chỉ tư cách, lương tâm nghề nghiệp trong hoạt động báo chí, biểu hiện qua
hành vi, nguyên tắc ứng xử của người làm báo”.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy
định thái độ và hành vi ứng xử của nhà bảo trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
Trên thực tế, hiện nay, đạo đức nghề nghiệp của nhà báo còn được gọi bằng
nhiều tên khác nhau với ý nghĩa đồng nhất, đó là: đạo đức nghề báo, đạo đức báo
chí, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo, đạo đức nhà báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức của một ngành, một lĩnh vực - báo chí. Đạo đức
nhà báo bao gồm đạo đức con người và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Đây tuy
là hai khía cạnh nhưng lại tồn tại chung trong một con người nhà báo. Vì vậy, chúng
có quan hệ mật thiết với nhau, khó tách rời.
Theo tác giả G.V. Ladutina, gắn liền với khái niệm đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo còn có các khái niệm bổn phận nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp và
lương tâm nghề nghiệp. Đây là những khái niệm phản ánh các khía cạnh của các
quan hệ đạo đức nghề báo, bắt nguồn từ bản chất công việc của nhà báo và thể hiện
dưới dạng thúc giục các hành động cần thiết cho việc hoàn thành các nhiệm vụ nghề
nghiệp. Bổn phận nghề nghiệp của nhà báo là “quan niệm do cộng đồng các nhà báo
thảo ra về các trách nhiệm trước xã hội mà nhà báo tự nguyện gánh vác, trên cơ sở
phù hợp với vị trí và vai trò của mình trong đời sống xã hội”.
Trách nhiệm nghề nghiệp của nhà báo là sự phụ thuộc trong thực tế giữa kết
quả hoạt động nghề nghiệp của nhà báo và những hậu quả mà nó có thể gây ra cho
xã hội, cho những con người cụ thể. Bản thân những nhà báo có trách nhiệm nghề
nghiệp là những người nhận thức được sự liên quan của mình tới các hậu quả của
hoạt động nghề nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp của nhà báo là sự định hướng đặc biệt của cá nhân
nhà báo về các hoạt động nghề nghiệp, có khả năng tạo ra trạng thái thanh thản về
tâm hồn, một sự thoải mái bên trong. Lương tâm nghề nghiệp giống như cái máy chỉ
báo đầy nhạy cảm về sự tương ứng giữa cách xử sự của nhà báo với các quy tắc,
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Nó ngăn chặn hoặc xui khiến, thúc đẩy nhà báo
tiến hành những bước đi nghề nghiệp theo hướng tốt nhất.
Cũng giống như đạo đức, bên cạnh những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo
đức nghề báo chung cho tất cả nhà báo ở tất cả các quốc gia thì còn có những nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức nghề báo riêng của từng quốc gia, từng cơ quan báo chí, tuỳ
thuộc vào từng thời kỳ phát triển lịch sử của từng quốc gia, cơ quan báo chí đó.
Đương nhiên, những nguyên tắc, chuẩn mực này vừa bảo đảm cho những hoạt động
của nhà báo hoà đồng với xã hội, vừa không vượt quá giới hạn của những nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức chung, dạo đức nghề báo. Chính vì thế, những phẩm chất
đạo đức nghề báo như trung thực, khách quan, trung thành,... có nội dung giống nhau
nhưng lại có những yêu cầu cụ thể riêng của mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo chí trong
từng thời kỳ lịch sử.

b) Lịch sử về đạo đức nghề nghiệp nhà báo


Thế kỷ XIX, sự tác động của khoa học kỹ thuật cùng sự biến đổi về điều kiện
kinh tế, xã hội đã tạo ra thế kỷ hoàng kim của báo in. Nhưng cũng từ đây, vấn đề
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo được đặt ra, những biểu hiện tiêu cực trong đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo ngày càng trở nên nghiêm trọng, nổi cộm.
Cuối thế kỷ XIX, các nền báo chí chuyên nghiệp, hiện đại trên thế giới như
Mỹ, Anh, Pháp, Đức,... đều bắt đầu xây dựng cho riêng mình những quy tắc về đạo
đức nghề nghiệp. Đến nay, hầu hết các nền báo chí trên thế giới đều đã có quy ước
bằng văn bản được thông qua bởi đại hội nghề nghiệp và mặc nhiên thừa nhận khi
nhà báo hành nghề. Thậm chí, có những cơ quan báo chí còn xây dựng riêng bộ quy
tắc nhằm định hướng đạo đức nghề nghiệp cho nhà báo trong toà soạn của mình như
Bộ quy tắc đạo đức dành cho Phòng Biên tập và Thời sự của tờ Thời báo New York
(The New York Times – Mỹ), ban hành tháng 01/2003. Được biết đến nhiều nhất là
bản Những nguyên tắc quốc tế và đạo đức nghề nghiệp báo chí do Tổ chức quốc tế
các nhà báo (OIJ) khởi thảo và được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên
Hợp Quốc (UNESCO) công nhận. Văn kiện này được nhiều tổ chức báo chí quốc tế
đại diện cho hơn 40 vạn nhà báo đang hành nghề trên khắp các châu lục thông qua.
Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được xác lập trên cơ sở
thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động báo chí Việt
Nam. Ở Việt Nam, những người làm báo Việt Nam đều là công dân của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cho nên đạo đức nghề báo không thể tách rời những
chuẩn mực đạo đức của mỗi con người Việt Nam trong thời kỳ này. Chính vì thế,
những phẩm chất như yêu nước, thương dân, trung thành với chủ nghĩa xã hội, lòng
nhân đạo xã hội chủ nghĩa,... phải trở thành nền tảng của đạo đức nhà báo Việt Nam.
Năm 1995, Đại hội VI Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua Bản quy ước về
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam. Đến Đại hội VIII (2007), Hội
Nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý và sửa đổi thành Quy định về đạo đức nghề nghiệp
của người làm bảo Việt Nam.
So với các bản quy ước về đạo đức nghề nghiệp của các quốc gia và tổ chức
báo chí quốc tế, Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam có
những điểm tương đồng và một số nét mang tính đặc thù.
– Một là, hầu hết các quy ước đạo đức trên thế giới và quy định đạo đức nghề
báo của Việt Nam đều xác định rõ mục tiêu phấn đấu của người làm báo và nghề
báo. Tuy nhiên, nhiều quy ước xác định mục tiêu này một cách chung chung như: tự
do, dân chủ, công bằng, chính nghĩa, quyền con người,...
Quy tắc đạo đức của Hội đồng báo chí Australia xác định mục tiêu của mình
là vì “sự tự do của các phương tiện truyền thông trong một xã hội dân chủ”.
Nguyên tắc đạo đức báo chí của Ấn Độ là vì “một nền báo chí tự do triển lành
mạnh và tốt đẹp trong một xã hội tự do”.
Nguyên tắc đạo đức báo chí ASEAN là “nỗ lực củng cố mối đoàn kết, thân ái
giữa các thành viên ASEAN”. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào quan hệ mỗi nền báo chí mà
nguyên tắc này được xếp ở vị trí nào trong bản quy ước.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam xác định rõ người
làm báo Việt Nam phải: “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”
và coi đây là nguyên tắc đầu tiên, cơ bản nhất.
– Hai là, hầu hết các quy tắc đạo đức báo chí trên thế giới không đề cập đến
nhân dân mà chỉ quan tâm đến công chúng. Riêng quy định đạo đức của Việt Nam
coi đây là một trong những điều cơ bản nhất, “luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng
phục vụ nhân dân” là Điều 2 trong Quy định.
Ba là, nhiều quy ước cho khách quan, chân thực trong thông tin là tiêu chuẩn
đạo đức cao nhất của nhà báo.
Tuyên ngôn về những nguyên tắc đạo đức người làm báo do Liên đoàn Báo
chí Quốc tế (FIJ) thông qua năm 1957 được mở đầu bằng khẳng định: “Tôn trọng sự
thật và quyền của công chúng được biết sự thật là nghĩa vụ đầu tiên của nhà báo”.
Nguyên tắc đạo đức báo chí ASEAN xác định điều đầu tiên của người làm
báo trong ASEAN là: “Phải giữ vững nguyên tắc công khai, dân chủ, chính xác và
trung thực trong quá trình khai thác tin tức, tư liệu, chụp ảnh...”.
Nguyên tắc của Hội đồng báo chí Đức xem: “Tôn trọng sự thật và đưa thông
tin chính xác cho công chúng là nguyên tắc quan trọng nhất của báo chí...”
Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam cũng đề cao “tính trung
thực, khách quan, tôn trọng sự thật” nhưng cho đây là nguyên tắc thứ ba. – Bốn là,
nhiều quy ước đề cao sự liêm khiết trong nghề nghiệp.
Những nguyên tắc quốc tế về đạo đức nghề nghiệp báo chí của FIJ nhấn mạnh:
“Sự liêm khiết nghề nghiệp cấm nhà báo nhận trực tiếp hay gián tiếp bất cứ một
khoản thù lao bất hợp pháp nào vì những lợi ích riêng tư mà đi ngược lại phúc lợi
công cộng”.
Tuyên ngôn về những nguyên tắc đạo đức nhà báo của FIJ cho rằng: “Bị coi
là một sự xúc phạm nghề nghiệp nghiêm trọng nếu nhà báo nhận đút lót dưới bất cứ
hình thức nào rồi công bố hoặc bỏ qua không công bố (một thông tin nào đó)”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng coi “sống
lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật”
là một nguyên tắc cơ bản và xếp ở vị trí thứ tư. Năm là, trách nhiệm xã hội của nhà
báo cũng là một nguyên tắc được rất nhiều bản quy ước đạo đức trên thế giới đề cập.
Không thể có được sự chân thực, khách quan nếu nhà báo không có trách nhiệm xã
hội.
Những nguyên tắc quốc tế về đạo đức nghề nghiệp báo chí của OIJ: “Trong
nghề báo, thông tin được hiểu như là một của cải xã hội chứ không phải là một sản
phẩm thông thường. Điều đó có nghĩa là nhà báo chia sẻ trách nhiệm về thông tin
được loan. Do đó, nhà báo không chỉ chịu trách nhiệm trước những người khống chế
báo chí, mà xét đến cùng, trước toàn bộ công chúng với những lợi ích xã hội đa
dạng”.
Hiệp hội các nhà báo chuyên nghiệp Mỹ cho rằng: “Các nhà báo có trách
nhiệm đối với công chúng của mình và những người khác”.
Nguyên tắc đạo đức của các nhà báo Ba Lan thì quy định: “Quyền tự do ngôn
luận của báo chí đòi hỏi các nhà báo, biên tập viên, các nhà sản xuất và phát sóng
cũng phải có trách nhiệm với hình thức và nội dung của thông tin cũng như những
hậu quả, kết quả của nó”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng đề cao trách
nhiệm xã hội của nhà báo, nhưng đi liền với trách nhiệm xã hội, nhà báo Việt Nam
còn có nghĩa vụ công dân. Danh hiệu công dân được tô đậm và cụ thể hoá trong từng
lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, “gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công
dân, làm tốt trách nhiệm xã hội” là nguyên tắc thứ năm.
– Sáu là, bảo vệ nguồn tin, tôn trọng đời tư cá nhân và giữ bí mật nghề nghiệp
là những chuẩn mực nhằm bảo vệ niềm tin của công chúng, của nhân dân đối với
báo chí. Đây là nguyên tắc được hầu hết các quy ước trên thế giới đề cập.
Nguyên tắc của Hội đồng Báo chí Thổ Nhĩ Kỳ ghi: “Các nhà báo phải bảo vệ
bí mật cho các nguồn tin của họ”... “Không đưa thông tin xúc phạm, nhạo báng, làm
tổn hại danh dự của cá nhân”.
Quy tắc của Hiệp hội Báo chí Anh: “Sự can thiệp và điều tra của báo chí vào
cuộc sống riêng tư cá nhân mà không có sự chấp thuận của người đó, bao gồm cả
việc sử dụng máy ảnh ghi lại từ xa những hình ảnh riêng tư cũng không được chấp
nhận”, “Các nhà báo cần có một tinh thần trách nhiệm để bảo vệ bí mật nguồn thông
tin”.
Việt Nam cũng rất coi trọng nguyên tắc này và cho đây là nguyên tắc thứ sáu.
Tuy nhiên, cùng với giữ bí mật nguồn tin, nhà báo Việt Nam còn phải “bảo vệ bí
mật quốc gia”, và đây cũng là nội dung quan trọng trong nguyên tắc thứ sáu của bản
quy định đạo đức.
– Bảy là, trung thực, hợp tác và thân ái với đồng nghiệp vừa là chuẩn mực đạo
đức, vừa là nghĩa vụ bắt buộc khi nhà báo hoạt động trong môi trường báo chí.
Quy tắc đạo đức Liên đoàn các nhà báo Nga khẳng định: “Nhà báo tôn trọng
và bênh vực cho quyền của các đồng nghiệp cũng như thực hiện việc cạnh tranh
công bằng”.
Hiến chương nghĩa vụ nghề nghiệp của các nhà báo Pháp ghi rõ: “Nhà báo
không gợi ý đổi chỗ của đồng nghiệp cũng như không khêu gợi để đồng i dean nghiệp
bị thải hồi bằng cách nhận lao động, làm việc với những điều kiện kém hơn đồng
nghiệp”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng đưa: “Tôn
trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp” làm
nguyên tắc thứ bảy.
– Tám là, luôn có tinh thần cầu thị, ham học hỏi, yêu nghề, dám đấu tranh cho
sự thật,... là tiêu chuẩn cũng được một số nước đề cập.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam cho đây là một
nghĩa vụ của nhà báo cho nên xem việc “thường xuyên học tập, nâng cao trình độ
chính trị, văn hoá, nghiệp vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ” là nguyên tắc thứ tám.
– Chín là, hầu hết các bản quy ước đạo đức trên thế giới đều thừa nhận những
giá trị nhân đạo vốn có được tích luỹ và khẳng định trong lịch sử loài người, đồng
thời đấu tranh bảo vệ và phát triển những giá trị cao quý đó, ví dụ: đấu tranh bảo vệ
hoà bình, bảo vệ môi trường, hợp tác lẫn nhau giữa các dân tộc, chống bạo lực, dâm
ô, kỳ thị,... “Các nhà báo cần nhận thức được sự nguy hiểm của phân biệt đối xử trên
các phương tiện truyền thông, tránh tạo điều kiện cho những sự phân biệt đối xử như
vậy, bao gồm phân biệt về chủng tộc, giới tính, khuynh hướng tình dục, ngôn ngữ,
tôn giáo, chính trị hoặc những định kiến khác, quốc gia hay nguồn gốc xã hội” (FIJ).
Tiêu chuẩn đạo đức của nhà báo Hồng Kông ghi rõ: “Phóng viên không tạo
ra những sản phẩm khuyến khích sự phân biệt đối với chủng tộc, màu da, nguồn gốc,
giới tính hay xu hướng tình dục”.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam không đưa điều
này thành một nguyên tắc, song nội dung của nguyên tắc thứ chín là “giữ gìn và phát
huy văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị, tinh hoa từ các
nền văn hoá khác” phần nào cũng có ý nghĩa đó. Và đây cũng là nét đặc thù của quy
định đạo đức Việt Nam khi đề cao nghĩa vụ của nhà báo trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thế giới hội nhập.

c) Vị trí, vai trò của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Mặc dù ra đời muộn hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác, song báo chí
đã nhanh chóng vượt lên trong việc phản ánh sinh động, đa dạng hiện thực cuộc
sống. Thông tin báo chí có tính xã hội rất cao, đáp ứng đa dạng sự quan tâm, sở
thích, nhu cầu của công chúng và tác động cùng lúc tới nhiều tầng lớp nhân dân. Vì
vậy, sức ảnh hưởng của nó tới toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội,
kinh tế, văn hoá, giáo dục, phong tục tập quán,... là rất lớn. Thêm nữa, nhờ khả năng
tác động nhanh chóng và mạnh mẽ vào ý thức xã hội và đôi khi biến ý thức đó thành
hành động cụ thể, báo chí giống như một thứ quyền lực có tác động mạnh mẽ đến
suy nghĩ và hành động của con người trong xã hội.
Ngày nay, vị trí và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được
nâng lên. Báo chí trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của con người. Ở một khía cạnh nào đó, nó tham gia vào tiến trình lịch sử
của thời đại.
Xét một cách tổng thể, xã hội càng phát triển thì vai trò xã hội của báo chí
càng phát triển và thể hiện càng phong phú, đa dạng. Bởi suy cho cùng, báo chí là
yếu tố kích thích, thúc đây xã hội phát triển, và đến lượt nó, xã hội lại đặt ra cho báo
chí những yêu cầu, nhiệm vụ tương ứng với thời kỳ mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao tầm quan trọng của báo chí. Người luôn coi báo chí là một vũ
khí sắc bén, một bộ phận không thể thiếu của công tác cách mạng, có sức “ảnh hưởng
trong dân chúng rất mạnh” và có “một địa vị quan trọng trong dư luận”. Người nói:
“Tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Nhưng với giấy trắng mực đen ấy, người
ta có thể viết những bức tối hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu đương”.
Đối với Người, báo chí là phương tiện vận động, tập hợp lực lượng cách mang và tổ
chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu quả nhất.
Chính vì báo chí có vị trí và vai trò to lớn, cùng lúc có thể tác động đến nhiều
người, nhiều tầng lớp trong xã hội, nhiều lĩnh vực của cuộc sống nên những người
làm nghề này trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng
việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối
với xã hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm
ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả. Cùng đưa tin về một sự việc, nhưng nhà
báo có đạo đức nghề nghiệp sẽ đặt lợi ích của số đông, của công chúng, nhân dân
lên trên, còn nhà báo thiếu đạo đức nghề nghiệp đầu tiên sẽ nghĩ đến lợi ích của bản
thân mình hoặc cơ quan báo chí của mình mà bất chấp hậu quả xảy ra với xã hội. Ví
dụ như những thông tin về giá lương thực, về bưởi gây ung thư, về sầu riêng có hoá
chất Carbendazin,..
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo phải luôn tự giác nhận thức đầy đủ tính
chất và vai trò của các hành vi sáng tạo mà mình thực hiện, phải học tập và tu dưỡng
đạo đức. Còn theo nhà báo Hữu Thọ thì “nghề nào cũng cần có đạo đức nhưng nghề
báo là nghề có quan hệ tới nhiều người, nhiều tầng lớp, đóng vai trò quan trọng
trong tạo dựng và định hướng dư luận xã hội nên đạo đức nghề báo cần được coi
trọng và chú ý rất nhiều”.
“Sở đĩ đạo đức nghề bảo được nhiều người quan tâm, dễ dàng Ian toà trong
dư luận xã hội, vì đây là nghệ mang tính xã hội cao, có sức ảnh hưởng lớn nên những
vấn đề thuộc bảo chi đều được dư luận xã hội quan t Thêm nữa, sức ảnh hưởng của
nghề báo đối với xã hội rất lớn nên hậu quả của việc nhà báo thiếu đạo đức cũng
không nhỏ”.
Xét một cách toàn diện, ngành nghề nào cũng cần có đạo đức. Nhưng với một
nhà bảo – những người luôn được coi là đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thì
đạo đức nghề nghiệp lại càng cần phải được đề cao. Lương tâm nghề nghiệp, trách
nhiệm với sự thật là điều đầu tiên phải nghĩ đến khi đứng trước muôn ngàn sự kiện,
con chữ. Điều khiến xã hội sợ hãi là một nhà báo tài năng nhưng lạnh lùng và vô
cảm. Biết rung cảm trước những đớn đau của xã hội, đồng cảm với tiếng nói của
những người dân nghèo khổ thì nhà báo sẽ nghiêm khắc hơn trước những sai lầm
của mình và của đồng nghiệp. Với nhà báo, danh tiếng là điều mà xã hội công nhận
cho những cống hiến của họ. Những cống hiến ấy không tính bằng một vài bài báo
hay bằng vài tháng, vài năm mà phải bằng cả cuộc đời phấn đấu lao động không mệt
mỏi.
Trước đây, nhà báo Tam Lang cũng đã từng nhấn mạnh đến thiên chức của
nhà báo; nhưng nếu không đảm bảo một cách “ngay thẳng và trung thực” thì tờ báo
sẽ trở thành “con dao nhọn” quay ngược lại chính mình: “Người làm báo muốn đạt
được thiên chức của mình trước hết phải biết nói lên sự thật, dám nói sự thật để thực
hiện cái quyền thứ tư của dân chúng đã trao cho và tín nhiệm... Tờ báo, nếu người
làm báo biết sử dụng nó đúng mức, thì đó là một lợi khí cải tạo xã hội có sức mạnh
vạn năng. Người không biết dùng nó phải đường thì đó là con dao nhọn đâm ngay
chính mình nhất”.
Nhà báo Trần Hữu Quang (Thời báo Kinh tế Sài Gòn) đã rất đúng khi cho
rằng: Làm báo không chỉ là một nghề, mà còn là một sứ mệnh. Bởi nghề báo không
tồn tại tự nó và cho nó, mà tồn tại vì xã hội và bởi xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, để trở thành một nhà báo có đạo đức nghề nghiệp
không đơn giản chút nào. Không phải cử tuân theo đầy đủ các quy định của luật pháp
là đã trở thành nhà báo có đạo đức. Thực tiễn cuộc sống đa dạng và muôn hình muôn
vẻ. Vì thế, nhà báo phải trau dồi đạo đức suốt đời thì mới đáp ứng được yêu cầu của
Đảng, của nhân dân, của xã hội. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường phức tạp như hiện
nay, báo chí nói chung, nhà báo nói riêng luôn phải chịu sự tác động theo hai chiều:
tích cực và tiêu cực; cơ chế thị trường vừa đặt ra nhiều cám dỗ nhưng cũng là nơi
“lửa thử vàng”.
7.3. CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ NGHỀ
NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO
7.3.1. Các mối quan hệ nền tảng
a) Nhà báo với Tổ quốc
Khái niệm “trung” có nguồn gốc từ Nho giáo, trong đó “trung” được hiểu là
“trung quân”, tức là trung với vua chúa. Trung quân là “ái quốc”. Song, khái niệm
này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dân tộc hoá, làm cho nó trở nên gần gũi và ăn
sâu vào tâm hồn, tình cảm của con người Việt Nam. Theo Người, trung được hiểu
là trung với nước, với Tổ quốc, có lòng yêu nước sâu sắc. Như vậy, quan niệm về
trung của Chủ tịch Hồ Chí Minh cao và rộng hơn quan niệm về trung trước đây.
Với tư cách là thành viên của một đất nước, được nuôi dưỡng bằng văn hoá
vật chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó không chỉ là thái độ mà còn là trách
nhiệm của nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước.
Nhà báo trung thành vô hạn với sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước tức là phải luôn có ý thức làm cho đất nước sánh vai với các cường quốc năm
châu. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà báo trung với nước là trung với Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, có tinh thần đoàn kết với giai cấp công nhân và nhân dân thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh các nhà báo – chiến sĩ của chúng
ta đã lăn lộn, gắn bó như thế nào với cuộc chiến tranh giữ nước. Họ đã gắn bó đến
hơi thở cuối cùng với Tổ quốc, với nhân dân, không tiếc bẩn cứ thứ gì, kể cả mạng
sống của mình. Con số hơn 220 nhà báo – liệt sĩ đã ngã xuống trên khắp các chiến
trường Việt Nam đã nói lên tất cả.
Hiện nay, đa số nhà báo Việt Nam đều có lòng trung thành với đất nước. Họ
không những góp phần làm lành mạnh hoá đời sống xã hội mà còn tham gia vào việc
tìm tòi, phát hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm
vụ thực tiễn của đất nước, mà còn góp phần củng cố và xây dựng niềm tin trong xã
hội. Chất lượng và hiệu quả của mỗi bài báo góp phần đắc lực vào việc giải quyết
các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù cho
nhà báo ca ngợi hay phê phán, đấu tranh thì cũng luôn hướng đến điều này.
Nhà báo trung với nước cũng có nghĩa là không được làm gì tổn hại đến lợi
ích chung của đất nước. Đồng thời, nhà báo phải đấu tranh không khoan nhượng,
chống lại mọi hành vi làm tổn hại lợi ích đất nước. Thời gian qua, đa số nhà báo Việt
Nam luôn là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, vừa góp phần hun đúc tinh thần
yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, vừa đấu tranh không khoan
nhượng với kẻ thù, với các thế lực thù địch đang ngày đêm chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Có thể vui mừng khẳng định: Cho đến nay, báo chí ta chưa từng vì thiếu
trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền năng mà gây nên bê bối lớn, làm thiệt hại đến lợi
ích đất nước”. Họ “luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại những
bất cập, yếu kém và tiêu cực của xã hội. Một thực tế hết sức sống động là trong mười
năm qua, hầu hết các vụ tiêu cực, tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý đến nơi
đến chốn đều có công đầu của các nhà báo”.
Tuy nhiên, sự phản ứng của dư luận trong thời gian qua đối với một bộ phận
nhà báo là có thật. Vẫn có những bài báo phủ nhận quá khứ tốt đẹp của dân tộc, coi
nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, phủ nhận bản sắc văn hoá, hạ thấp nhân phẩm
của một số cá nhân, chạy theo bạo lực, dâm ô, tiết lộ bí mật, thông tin không có lợi
cho sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị – xã hội đất nước,...
Trước những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước như: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tỉnh thần đoàn kết, ý
thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống, nhà báo phải có thái độ trân trọng và bảo vệ.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam có 9 điều thì điều đầu
tiên, cũng là điều cơ bản nhất là: “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh các nhà báo – chiến sĩ của chúng
ta đã lăn lộn, gắn bỏ như thế nào với cuộc chiến tranh giữ nước. Họ đã gắn bó đến
hơi thở cuối cùng với Tổ quốc, với nhân dân, không tiếc bất cứ thứ gì, kể cả mạng
sống của mình. Con số hơn 220 nhà báo – liệt sĩ đã ngã xuống trên khắp các chiến
trường Việt Nam đã nói lên tất cả.
Hiện nay, đa số nhà báo Việt Nam đều có lòng trung thành với đất nước. Họ
không những góp phần làm lành mạnh hoá đời sống xã hội mà còn tham gia vào việc
tìm tòi, phát hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm
vụ thực tiễn của đất nước, mà còn góp phần củng cố và xây dựng niềm tin trong xã
hội. Chất lượng và hiệu quả của mỗi bài báo góp phần đắc lực vào việc giải quyết
các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù cho
nhà báo ca ngợi hay phê phán, đấu tranh thì cũng luôn hướng đến điều này.
Nhà báo trung với nước cũng có nghĩa là không được làm gì tổn hại đến lợi
ích chung của đất nước. Đồng thời, nhà báo phải đấu tranh không khoan nhượng,
chống lại mọi hành vi làm tổn hại lợi ích đất nước. Thời gian qua, đa số nhà báo Việt
Nam luôn là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, vừa góp phần hun đúc tinh thần
yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, vừa đấu tranh không khoan
nhượng với kẻ thù, với các thế lực thù địch đang ngày đêm chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Có thể vui mừng khẳng định: Cho đến nay, báo chí ta chưa từng vì thiếu
trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền năng mà gây nên bê bối lớn, làm thiệt hại đến lợi
ích đất nước”. Họ “luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại những
bất cập, yếu kém và tiêu cực của xã hội. Một thực tế hết sức sống động là trong mười
năm qua, hầu hết các vụ tiêu cực, tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý đến nơi
đến chốn đều có công đầu của các nhà báo”.
Tuy nhiên, sự phản ứng của dư luận trong thời gian qua đối với một bộ phận
nhà báo là có thật. Vẫn có những bài báo phủ nhận quá khứ tốt đẹp của dân tộc, coi
nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, phủ nhận bản sắc văn hoá, hạ thấp nhân phẩm
của một số cá nhân, chạy theo bạo lực, dâm ô, tiết lộ bí mật, thông tin không có lợi
cho sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị - xã hội đất nước,..
b) Nhà báo với nhân dân
Nước là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Trung với nước thực chất là
trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, bởi trong một nước “bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” và “từ nhân dân mà ra”.
Báo chí cách mạng Việt Nam do Hồ Chủ tịch sáng lập luôn là nền báo chí của
dân và vì lợi ích nhân dân mà phục vụ. Đạo đức nghề báo, về thực chất, là sự đòi hỏi
mọi hành vi và hoạt động tác nghiệp của nhà báo đều phải tuân theo mấy điều tâm
niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy bảo: Báo chí của ai? Làm báo cho ai? Viết
báo nhằm mục đích gì?.
Quyền lực mà báo chí có được là do nhân dân giao phó, uỷ thác. Phản ánh ý
chí và nguyện vọng của nhân dân là truyền thống lâu đời, là một tính chất cơ bản
của báo chí cách mạng Việt Nam. Bảo chí luôn chịu sự giám sát của nhân dân và
nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân sẽ bị nhân dân gạt bỏ.
Điều 2 trong Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm bảo Việt Nam
là “luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân”. Nhà báo là “đầy tớ trung
thành của dân”, có quan hệ máu thịt với nhân dân, dựa , vào dân, phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu
rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, của người làm chủ đất nước, đấu tranh cho tự do,
hạnh phúc của nhân dân.
Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, báo chí phải
là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông
tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và ngoài
nước, làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, nhà báo tham
gia vào việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học,
thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự
đồng thuận cao trong xã hội.
Phụng sự nhân dân – đó là tâm nguyện, cũng là trách nhiệm của mỗi nhà báo
chân chính. Đây được coi là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Thiếu
phẩm chất này, nhà báo trở thành kẻ tự kiêu, tự đại, quan liệu, xa dân, coi thường
quân chúng, tự đánh mất nguồn cảm hứng vô tận trong hoạt động sáng tạo của mình.
Sứ mệnh đó buộc nhà báo phải luôn khách quan, trung thực và tôn trọng sự
thật. Nhà báo phải đảm bảo rằng mọi thông tin mình phản ánh là đúng bản chất sự
thật, không bị xuyên tạc hoặc cường điệu. Đây là yêu cầu, là nguyên tắc hoạt động,
đồng thời cũng là một trong những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp quan trọng nhất
mà mỗi nhà báo cần có.

c) Nhà báo với Đảng Cộng sản


Xét về bản chất, mối quan hệ giữa nhà báo và Đảng Cộng sản là mối quan hệ
chính trị chứ không phải quan hệ đạo đức. Nhưng gắn với đặc thù của Việt Nam,
đây không đơn thuần là quan hệ chính trị.
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì hạnh phúc của nhân dân. Đây
không chỉ là nhiệm vụ chính trị mà còn là ý thức và tình cảm đạo đức của mỗi người
cộng sản. Đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đồng thời là sự
thể hiện lý tưởng đạo đức cộng sản chủ nghĩa cao cả. Đúng như Lênin nói: Cái gì
phục vụ cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, cái ấy là đạo đức.
Bản chất của nền báo chí Việt Nam là nền báo chí tiến bộ, phấn đấu vì sự phồn
vinh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản là một bảo đảm chắc chắn cho nền báo chí đó phát triển và thực hiện sứ mệnh
cao cả của mình.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, từ năm 1930 đến nay, nhờ
có Đảng, nhờ có Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Việt Nam mới có độc lập, báo chí Việt
Nam mới có tự do. Hơn 80 năm qua, báo chí Việt Nam hạnh phúc đã được song
hành cùng tiến trình cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự tin cậy,
giao phó của Đảng đối với báo chí là một nghĩa cử to lớn.
Khu Vì vậy, khi nói đến quan hệ giữa nhà báo với Đảng thì không chỉ dừng
lại ở khía cạnh chính trị mà đó còn là đạo đức, một truyền thống đạo đức lâu đời của
người Việt – truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong Quy định đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo Việt Nam cũng ghi rõ nhà báo phải “Tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Mối quan hệ với Đảng Cộng sản yêu cầu nhà báo phải luôn luôn gắn bó và là
người hướng dẫn tin cậy của đồng bào cả nước, cổ vũ nhân dân đi theo con đường
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã chọn. Nhà báo Việt Nam không chỉ phục tùng sự
lãnh đạo của Đảng, tích cực trong việc truyền bá mà còn góp phần làm cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng luôn giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội. Đồng thời, nhà báo cần đứng trên lập trường của
chủ nghĩa Mác–Lênin mà tìm ra những mặt hạn chế của một số tư tưởng Mác,
Ăngghen, Lênin trình bày trong các tác phẩm kinh điển; những hạn chế, khuyết điểm
trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; sai lầm, thất bại và nguyên nhân
của những sai lầm, thất bại đó, từ đó rút ra bài học cho thế hệ sau.
Mối quan hệ này cũng yêu cầu nhà báo tích cực tham gia vào việc đấu tranh
làm trong sạch hàng ngũ của Đảng; đấu tranh chống các biểu hiện tham ô, quan liêu,
nhũng nhiễu,… trong Đảng; phê phán, uốn nắn các nhận thức lệch lạc, tiêu cực trong
nội bộ Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo, vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ. , nang ng lực lãnh đạo, vực
Bên cạnh đó, nhà báo phải tích cực tham gia đấu tranh chống các luận điệu
xuyên tạc, âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch bên ngoài và các phần tử chống
đối bên trong Đảng.

7.3.2. Các mối quan hệ trong môi trường xã hội


a) Nhà báo với công chúng
Mối quan hệ giữa nhà báo và công chúng là mối quan hệ mang tính liên kết
trong các hành vi đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Một tờ báo, nhà báo nếu không
được công chúng đón nhận, không được công chúng hoan nghênh, tin tưởng thì đó
là một thất bại lớn nhất.
Một người không thể coi là nhà báo chuyên nghiệp nếu người đó không tự
thấy mình phải chịu trách nhiệm trước việc thoả mãn nhu cầu thông tin của công
chúng, không tự nhìn ra bổn phận phải làm việc, phục vụ công chúng.
Khi tiếp xúc, xuất hiện trước công chúng, nhà báo phải thể hiện thái độ lịch
sự, chủ động, kiên trì và thận trọng trong thoả mãn nhu cầu thông tin nhằm tạo ra
mối quan hệ thân thiết.
Trong khi làm nhiệm vụ cung cấp thông tin nhằm thoả mãn đầy đủ nguyện
vọng, nhu cầu và lợi ích của công chúng, nhà báo phải đối mặt với một loạt các câu
hỏi mang tính đạo đức. Đó là: Thông tin này có ích cho công chúng không? Nó đã
xác định chưa? Phản ánh có khách quan, trung thực không? Liệu công chúng có thực
sự cần đến tác phẩm này? Tác phẩm đã thực sự đáp ứng được nhu cầu và mong muốn
của họ hay chưa? Công chúng có bị mất thời gian cho thông tin này không? Liệu họ
có đọc kỹ, xem qua, hay không để ý đến những gì có trong tác phẩm?,...
Không chỉ thế, việc cân nhắc, tính đến mức độ hiệu quả thông tin cũng là trách
nhiệm đạo đức của nhà báo đối với công chúng. Khi viết bài, nh báo phải trả lời một
loạt các câu hỏi kiểu như: Liệu công chúng có hiểu đúng bản chất sự việc và những
điều tác phẩm đề cập hay không? Sau khi tiếp nhận thông tin, công chúng sẽ có sự
thay đổi như thế nào về nhận thức, thái độ và hành vi? Họ sẽ tức giận, vui mừng hay
buồn khổ?... Vì vậy, nhả báo phải xem xét, phân tích đầy đủ các khía cạnh, suy xét
nghiêm túc, tron vẹn mọi mặt để cung cấp thông tin tốt nhất cho công chúng.
Như vậy, nghĩa vụ đạo đức của nhà báo đối với công chúng không chỉ dừng
ở nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác mà còn ở việc phải lường trước được hậu
quả của những thông tin đó. Điều này, đối với bản thân mỗi nhà báo có hai cấp độ.
Cấp độ thứ nhất, trước khi tác phẩm được công bố, nhà báo phải ý thức được nghĩa
vụ cung cấp thông tin chính xác và cân nhắc đến hậu quả của thông tin đó. Cấp độ
thứ hai, sau khi tác phẩm đã công bố, nhà báo phải sẵn sàng chịu trách nhiệm về tính
chính xác của tác phẩm cũng như hậu quả mà nó đã mang tới cho công chúng.
Mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và công chúng trên thực tế diễn ra rất đa
dạng, có khi gắn kết, đan xen với các mối quan hệ khác. Vì vậy, trong từng trường
hợp, nhà báo cần có cách ứng xử mềm mỏng, cần cân nhắc, lựa chọn lợi hại, thiệt
hơn khi đưa tin.
Nhận thức về đối tượng công chúng của mỗi nhà báo, tờ báo cũng khác nhau.
Có người cho rằng công chúng của họ là một thực thể rộng lớn, ngành nghề, nhiều
lứa tuổi,... Nhiều người khác lại nghiêng về cho rằng, đối tượng công chúng là những
người thích xem, thích nghe quan nhiều những chuyện ngược đời, giật gân, kinh rợn,
thích bới lông tìm vết, tô đậm mặt trái của xã hội,...
Theo nhà báo Phan Quang, đấy cũng là một loại thông tin mà nhà báo cần đáp
ứng nhưng “nếu cứ viết mãi, gãi mãi thì không khéo lại trầy da, chảy máu, thậm chí
là nhiễm trùng, gây biên chúng phức tạp”, hậu quả là 'làm giảm đi thiên chức của
nhà báo. “Không phải điều gì công chúng muốn cũng có thể đáp ứng nhưng cũng
đừng “đầu độc”, “tra tấn” họ bằng những thông tin giật gân, câu khách. Nhà báo phải
có tầm nhìn cao, nhìn xa hơn 'công chúng, tức là tầm nhìn của một nhà văn hoá”.

b) Nhà báo với nguồn tin


Khi tin tức xuất hiện, nhà báo cần phải phản ứng, thu thập chứng cứ | hoặc
giải thích thông tin thật nhanh cho độc giả. Điều nhà báo phải làm ngay là tìm ra ai
sẽ cung cấp thông tin tin cậy và chính xác cho mình. Lúc này, nhà báo phải đối mặt
với các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp liên quan đến nguồn tin. Đây được coi là
mối quan hệ “máu thịt”, bởi xét ở một khía c cạnh nào đó, nếu không có nguồn tin
thì nhà báo sẽ chẳng có gì để cung cấp thông tin cho công chúng.
Có ba kiểu nguồn tin: thứ nhất là tài liệu, thứ hai là môi trường (hoặc hiện
trường) và thứ ba là con người. Khi nói đến mối quan hệ đạo đức nghề nghiệp giữa
nhà báo và nguồn tin là nói đến mối quan hệ giữa nhà báo và kiểu nguồn tin thứ ba
– con người. Để điều tiết mối quan hệ này, ngoài các quy định của luật pháp còn dựa
vào quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định những
chuẩn mực khi nhà báo tiếp xúc, thu thập, sử dụng thông tin và tài liệu do nguồn tin
cung cấp.
Có nhiều cách khác nhau để nhà báo tiếp xúc với nguồn tin. Thứ nhất, có thể
công khai giới thiệu về mình, về mục đích của mình với tư cách là người đại diện
cho cơ quan báo chí để thu thập thông tin. Thứ hai, phải giấu mình, ẩn mình dưới
một “vỏ bọc” khác như đóng vai là người bán hàng, người đi tàu, đi xe, người lái
xe,... để kín đáo quan sát, thu thập thông tin, chứng cứ. Nhưng dù bằng cách nào thì
nhà báo cũng phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khi tiếp xúc với
nguồn tin.
Trường hợp thứ nhất, nhà báo phải có thái độ lịch sự, nhã nhặn khi giới thiệu
bản thân, mục đích của mình và của toà soạn nhằm tranh thủ được sự ủng hộ của
nguồn tin. Tuy trong Điều 7, Luật Báo chí có quy định nguồn tin phải có “nghĩa vụ
cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin”, nhưng điều này không có
nghĩa là bắt buộc họ phải cung cấp. Nhà báo không được dùng các biện pháp, thủ
đoạn để đe doạ, gây áp lực buộc nguồn tin phải cung cấp thông tin cho mình hay có
thái độ xem thường nguyện vọng, lợi ích và quan điểm của họ. Nhà báo cần phải
thuyết phục để nguồn tin tình nguyện nói chuyện, cung cấp thông tin.
Trường hợp thứ hai, nhà báo phải ẩn mình, kín đáo quan sát sự việc. Có hai
tình huống xảy ra trong trường hợp này. Tình huống đầu tiên là, nhà báo muốn nhìn
nhận, đánh giá sự việc từ bên trong. Sự xuất hiện công khai của nhà báo có thể làm
đảo lộn trật tự, hoặc sẽ làm khuấy động sự thật vốn có, làm thay đổi thái độ, hành vi
của mọi người xung quanh. Tình huống nữa là khi nhà báo cần thu thập những thông
tin, số liệu bị cố tình che giấu và nó chỉ được sử dụng trong hoàn cảnh nhà báo có
bằng chứng rõ ràng về mối đe doạ của việc che giấu thông tin đối với sự yên ổn của
xã hội. Trong tình huống này, nhà báo không thể sử dụng máy quay, máy ghi âm
một cách công khai mà phải bí mật. Đương nhiên, đây là công việc rất khó khăn và
nguy hiểm.
Tuy nhiên, khi đặt mình vào tình huống này, nhà báo phải cân nhắc đến tính
hợp pháp và chuẩn mực đạo đức. Không phải vì muốn có được thông tin mà nhà báo
không cần tôn trọng các quyền và những lợi ích hợp pháp của những người trở thành
đối tượng bị quan sát, thu thập thông tin. Bởi vì suy cho cùng, trước pháp luật, những
người đó vẫn chưa bị kết tội.
Khi sử dụng những thông tin thu thập được từ nguồn tin, nhà báo cũng phải
đối mặt với một loạt các nguyên tắc đạo đức. Không ít trường hợp nguồn tin đưa ra
các yêu cầu, điều kiện trước khi cung cấp thông tin cho nhà báo. Ví dụ như không
được công bố thông tin họ cung cấp, không nêu xuất xứ, không nêu tên nguồn tin,
không công bố một phần nào đó của câu chuyện hoặc công bố dưới hình thức này
hay hình thức khác,...

c) Nhà báo với nhân vật trong tác phẩm


Khi viết và chuẩn bị cho đăng một bài báo, nhà báo phải chú ý đến mối quan
hệ đạo đức với nhân vật trong tác phẩm của mình. Nhân vật trong tác phẩm báo chí
là nhân vật có thật, vì vậy nhà báo cần phải cân nhắc kỹ lưỡng xem nên đưa thông
tin gì và không nên đưa thông tin gì.
Trong mối quan hệ này, ngoài sự nhạy cảm, lòng nhân hậu, vị tha, nhà báo
còn cần có thái độ thông cảm, biết đặt mình vào vị trí của người đối thoại, của nhân
vật để xem xét mọi khía cạnh, cho dù đó là nhân vật chính diện hay phản diện. Khi
tiếp xúc với nhân vật, nhà báo phải tỏ rõ sự dễ gần, dễ giao tiếp, bày tỏ sự mong
muốn hiểu về nhân vật, phải có kỹ năng lắng nghe, tập trung chú ý.
Khi sáng tạo tác phẩm, nhà báo phải tự đặt ra những câu hỏi như: Viết như
thế này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống, lợi ích, nhân phẩm của nhân vật không? Đưa
bức ảnh này, chi tiết này, tính cách này có gây hại gì cho nhân vật không? Nếu công
bố mối quan hệ này có làm phức tạp cuộc sống hằng ngày của nhân vật không? Công
chúng liệu có hiểu đúng về nhân vật của mình không?..
Đối với một nhà báo, nhân vật dù là người trưởng thành, đã nhận thức tầm
quan trọng của việc đăng tin và cho phép đăng nhưng với ý thức được cao về nghề
nghiệp, anh ta vẫn luôn phải cân nhắc mức độ lợi hại, thiệt hơn có thể xảy ra với
nhân vật của mình. Bởi trong nhiều trường hợp, chỉ có nhà báo mới nhận biết hết
được những nguy hại đó.
Điều này lại càng quan trọng hơn đối với nhân vật là trẻ em hoặc đối tượng
không có đủ khả năng nhận biết hết sự phức tạp của vấn đề. Ví dụ: Đạo đức nghề
nghiệp không cho phép nhà báo đặng rõ ảnh và địa chỉ của bé gái 8 tháng tuổi ở Bắc
Giang năm 2000 bị xâm hại tình dục như một số tờ báo đã làm. Tuy nhiên có một số
tờ báo lại đăng chi tiết, tỉ mỉ ảnh cháu bé, địa chỉ gia đình, địa chỉ tên tội phạm. Hành
động trên thật nhẫn tâm và vô cảm khi bắt em và gia đình phải chịu nỗi đau này suốt
cuộc đời.
Đối với những nhân vật lịch sử, những nhân vật đã chết, nhà báo cũng phải
thận trọng, bởi rất có thể những thông tin đó sẽ làm thay đổi nhận thức của công
chúng đối với nhân vật, thậm chí là cả một giai đoạn lịch sử. Ngay cả đối với những
nhân vật mang tính phản diện, đạo đức nghề nghiệp cũng không cho phép nhà báo
có thái độ xúc phạm hay hạ thấp nhận phẩm khi viết về họ.
Trong nhiều trường hợp, nhà báo thấy cần phải đưa một số chi tiết, tình tiết
vào tác phẩm nhưng lại gặp sự khó khăn về phương diện đạo đức, khi đó việc thay
đổi một phần hay toàn bộ tên tuổi, địa chỉ, ngày tháng,... rất cần được tính đến.
Nhà báo có quyền đưa lên mặt báo tất cả những gì anh ta muốn về nhân vật
của mình hay không? Có những điều nhà báo được nói nhưng cũng có rất nhiều điều
nhà báo cần phải cân nhắc rất kỹ càng. Nếu nhân vật của anh ta là một quan chức
tham nhũng, thì đời tư của quan chức đó ắt hắn sẽ thu hút được công chúng. Song,
những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp buộc nhà báo phải xem xét đến nội hàm của
hai khái niệm là “lợi ích xã hội” và "mối 1 tâm của công chúng”. Những điều mà
công chúng quan tâm chưa quan chắc đã mang lại lợi ích cho xã hội. Ví như thói hư
tật xấu, bới móc đời tư của một con người chắc hẳn chẳng phục vụ cho lợi ích chung
của xã hội. Thêm nữa, nếu đưa những thông tin này là nhà báo đã vi phạm vào Điều
7 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự và nhân phẩm”, “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của công dân”.
Ngoài ra, nhà báo hoàn toàn không được phép vì bất cứ lý do gì mà có thái độ
giễu cợt, khinh bỉ tên tuổi, nguồn gốc, dáng vẻ bề ngoài, những khuyết điểm về thể
chất,...
Thái độ thờ ơ, lạnh nhạt, vô cảm, tự cao, xem thường người khác là điều không
thể chấp nhận trong hoạt động báo chí. Trên thực tế, hiện nay, có không ít nhà báo
vì mối quan hệ thân tình hoặc tư thù cá nhân với nhân vật trong tác phẩm mà đã
không giữ được tính khách quan, làm cán cân công bằng bị thiên lệch. Họ đã lợi
dụng diễn đàn báo chí để tâng bốc, ca ngợi hoặc hạ bệ, chà đạp nhân phẩm danh dự
của nhân vật.

7.3.3. Các mối quan hệ trong môi trường nghề nghiệp


a) Nhà báo với ban biên tập
Sản phẩm báo chí là sản phẩm mang tính tập thể. Vì vậy, khi nhà báo tham
gia vào một cơ quan báo chí tức là anh ta đã trở thành một bộ phận của tập thể và
lãnh một trách nhiệm nhất định trong tập thể đó. Điều này đòi hỏi nhà báo phải tuân
theo những quy định, chấp hành những đường lối, chủ trương của ban biên tập, đi
đúng tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Đấy chính là quan hệ đạo đức giữa cá nhân nhà
báo với ban biên tập của mình. Nền tảng của mối quan hệ này là sự thống nhất quan
điểm tư tưởng. Năm 1979, khi sử dụng bài của nhà báo W. Burchett viết về cuộc
Chiến tranh biên giới ở Việt Nam, tờ báo Người bảo vệ (Guardian – Anh) đã tuỳ tiện
cắt xén bài báo theo quan 1 điểm của mình. W. Burchett đã cắt đứt hợp đồng, chấm
dứt 22 năm cộng tác với tờ báo đó.
Là thành viên của toà soạn, trước hết nhà báo phải trung thành với toà 1 của
mình. Tuy nhiên, sự chấp hành này không đồng nghĩa với sự chấp hành mù quáng
mà là sự nhất trí trên nguyên tắc của sự sáng tạo. Trong trường soan hợp phát hiện
ban biên tập có những biểu hiện sai trái, đi ngược lại đường lôi và chính sách phát
triển của tờ báo, lúc đó buộc nhà báo phải lựa chọn.
Nhà báo chỉ làm việc hiệu quả và có trách nhiệm khi xung quanh anh ta là
những người cùng chí hướng, không nảy sinh xung đột giữa niềm tin, sự lựa chọn
của anh ta với hướng đi, sự lựa chọn của ban biên tập, của tờ báo. sẽ không thể có
những tác phẩm hay, mang tính trách nhiệm xã hội cao nếu bản thân nhà báo không
đồng ý với đường lối, cách giải quyết trong tác ý phẩm đó.
Mỗi nhà báo đều phải cố gắng hoà mình vào tập thể nhưng cũng phải nhìn
thấy bản thân mình trong tập thể. Nghĩa là bằng cách nào đó, phẩm chất và khả năng
của anh ta phải thích ứng với tính chất và nhu cầu của ban biên tập. Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa là triệt tiêu sự sáng tạo, sự phát triển những phẩm chất độc nhất
vô nhị của bản thân mỗi nhà báo. Trong quá trình đi tìm chân lý, thái độ, tinh thần
dung nạp, chấp nhận những ý kiến, chính kiến trái ngược của ban biên tập cũng
không được loại trừ sự đấu tranh, thái độ kiên quyết bảo vệ lập trường của mình.
Sự nhất trí giữa nhà báo với tập thể ban biên tập trên những vấn đề mang tính
nguyên tắc sẽ giúp cho nhà báo độc lập trong sáng tạo, trở thành người kiên định
bảo vệ đường lối chung đã được chấp nhận.
Mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và ban biên tập yêu cầu nhà báo phải có
bổn phận giữ bí mật của toà soạn. Nhiều cơ quan báo chí còn quy định nhà báo không
được viết bài cho các báo khác nếu không được sự đồng Ý của tập thể ban biên tập.
Việc một nhà báo được cơ quan báo chí cử đi công tác nhưng lại đăng tác phẩm tâm
đắc nhất, hay nhất của mình trên một báo khác là vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đặc
biệt, đối với những thông tin mang tỉnh cạnh tranh, độc quyền, nếu muốn viết hoặc
đăng lại trên báo khác, nhà báo cũng phải được sự uỷ quyền, cho phép của ban biên
tập.
Ngoài những điều ghi trong hợp đồng với ban biên tập, đôi khi trách nhiệm
đạo đức buộc nhà báo phải cố gắng làm hơn như thế vì mục đích chung.

b) Nhà báo với đồng nghiệp (trong và ngoài toà soạn)


Vì báo chí là sản phẩm mang tính tập thể nên nhà báo phải hợp tác chặt chẽ
với đồng nghiệp của mình. Trong một cơ quan báo chí, mỗi người có một vị trí, một
sự phân công công việc rõ ràng và phải tuân thủ sự phân công đó. Tuy nhiên, nhiều
trường hợp, để hoàn thành tốt phần việc của mình, nhà báo phải trông cậy vào sự
giúp đỡ, hậu thuẫn, thậm chí là thay thế của đồng nghiệp. Vì vậy, trong mối quan hệ
này, đòi hỏi nhà báo phải có nghĩa vụ thực hiện tình đồng chí, đồng nghiệp, giúp đỡ
lẫn nhau.
Mỗi nhà báo đều có chính kiến, thái độ, cá tính, kinh nghiệm hay những điểm
mạnh, điểm yếu khác nhau. Để hợp tác tốt, đòi hỏi nhà báo phải có ý thức dung nạp
và độ lượng với những chính kiến, bất đồng của đồng nghiệp. Đương nhiên, những
bất đồng đó không thuộc về nguyên tắc.
Mối quan hệ đạo đức giữa nhà báo và đồng nghiệp không chỉ bó hẹp trong
từng cơ quan báo chí mà ý thức cố kết, tình đoàn kết, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
còn phải được thể hiện trong toàn thể cộng đồng nhà báo. Đó là sự tương trợ về mặt
kỹ thuật hoặc trao đổi những thông tin nội bộ báo chí, hoặc cùng nhau tìm kiếm
thông tin, tiếp cận nguồn tin.
Đương nhiên, trong hoạt động báo chí có sự cạnh tranh thông tin, nhà báo nào
cũng mong muốn mình là người giới thiệu, công bố thông tin đầu tiên. Tuy nhiên,
sự cạnh tranh này phải dựa trên nguyên tắc nghề nghiệp, không được làm tổn hại
cho các đồng nghiệp và sự nghiệp chung của báo chí.
Ai cũng hiểu, trong nghề báo, công việc quan trọng là phải lấy được tư liệu và
bằng mọi cách truyền về toà soạn càng sớm càng tốt để có thể công bố đầu tiên. Sự
cố gắng vươn lên vị trí hàng đầu là mong ước chân chính của những người làm nghề
báo. Chính điều đó khiến nhà báo luôn phải tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật thông
tin. Song nếu đó không phải là những bí mật của toà soạn, không phải là những phát
hiện riêng của nhà báo, lại chưa được công bố và không tổn hại gì đến lợi ích của
toà soạn thì việc chia sẻ tài liệu thể hiện tinh thần đồng chí trong tập thể của những
người làm báo.
Tình đồng nghiệp trong nghề báo không loại trừ sự thi đua trong sáng tạo để
vươn lên là người đầu tiên tìm ra sự kiện. Tuy nhiên, nó cũng xa lạ với việc tranh
giành để đạt được mục đích bằng mọi cách, bỏ qua những quy tắc về đạo đức. Trong
rất nhiều trường hợp, mối quan hệ đạo đức với đồng nghiệp đòi hỏi nhà báo phải có
kinh nghiệm ứng xử. Và tuỳ vào trường hợp cụ thể mà “toà án danh dự” phán xét.

c) Nhà báo với cộng tác viên, thông tin viên


Ngoài một bộ phận không nhỏ công chúng có nhu cầu đăng tải ý kiến, nguyện
vọng, chính kiến của mình trên báo chí, còn có rất đông nhà báo thường xuyên viết
bài, cộng tác với nhiều tờ báo. Những nhà báo có ý thức và trách nhiệm nghề nghiệp
đều hiểu rằng, khi làm việc với các tư liệu, bài vở gửi đến toà soạn tức là họ đã bắt
đầu thiết lập mối quan hệ với tác giả của chúng. Đó là những con người có mong
đợi, nguyện vọng cụ thể, cần được đối xử lịch sự và chu đáo. Trách nhiệm đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo là phải có thái độ trân trọng và không được cố tình im lặng,
tảng lờ trước những mong đợi đó.
Nhiều toà rất tâm đến đội ngũ cộng tác viên. Hằng năm họ soạn quan thường
tổ chức họp cộng tác viên để thăm hỏi, cảm ơn, tặng quà kỷ niệm làm cho cộng tác
viên gắn bó và có trách nhiệm hơn với toà soạn. Ví như báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh có cách quan tâm rất đặc biệt đối với cộng tác viên. Mỗi năm vào dịp Tết
hoặc kỷ niệm thành lập báo, toà soạn đều gửi thiệp chúc mừng đến từng cộng tác
viên mà báo có lưu giữ địa chỉ cụ thể. Điều này có ý nghĩa rất đáng trân trọng.
Đối với những bài viết chỉ cần biên tập là có thể sử dụng được, nhà báo cũng
phải tuân theo các nguyên tắc ứng xử đạo đức. Đó là thái độ tôn trọng suy nghĩ, lập
luận, bố cục, văn phong của tác giả. Nhà báo không được dựa vào đặc quyền của
mình mà buộc tác giả phải chỉnh sửa theo yêu cầu của mình. Nhà báo phải có sự bàn
bạc, trao đổi, thảo luận với tác giả khi có sự thay đổi (dù là nhỏ) trong bài viết.
Đương nhiên, nhà báo cũng có chính kiến, không thể đồng ý với tất cả những gì mà
tác giả đề xuất. Có những trường hợp tác giả là người cố chấp, nhất quyết khăng
khăng giữ ý kiến của mình thì đòi hỏi nhà báo phải kiên trì thuyết phục.
Đối với những tác phẩm chưa hoặc không thể sử dụng được thì nhà báo phải
có trách nhiệm kịp thời trả lời với thái độ cầu thị, tế nhị, giải thích lý do bài viết đó
không sử dụng được và đưa ra những lời khuyên cho tác giả nhằm hoàn thiện hoặc
viết lại tác phẩm. Công việc đó của nhà báo vừa giúp cho tác giả tự tin để có những
bước đi tiếp theo nhằm tiếp tục cộng tác với tờ báo, vừa tăng cường lòng tin, sự mên
mộ của cộng tác viên, thông tin viên đối với cơ quan báo chí. Đó là sự biểu hiện sinh
động môi quan hệ đạo đức nghề nghiệp giữa nhà báo và tác giả.
Để làm tròn trách nhiệm đạo đức trong tình huống này quả thật không dễ dàng
chút nào, bởi số lượng bài vở gửi về toà soạn hăng ngày quá nhiều. Thường thì mỗi
toà soạn đều có người chuyên trách đảm nhận công tác bạn đọc, nhưng không thể
giải quyết được tất cả thư từ. Tuy nhiên, trong điều kiện có thể, toà soạn, nhà báo cố
gắng xử lý được càng nhiều tư liệu, bài vở càng tốt. Ngoài quan hệ đạo đức buộc
nhà báo phải có ứng xử văn hoá với tác giả, đây còn là cơ hội tốt để nâng cao uy tín
và sự yêu mến của họ đố với tờ báo. Công việc này còn giúp tờ báo phát triển nguồn
nhân lực vô tận. Bởi dù một tờ báo có nhiều người đến đâu cũng không thể có mặt
ở khắp mọi nơi và biết được mọi điều. Công chúng, cụ thể hơn là cộng tác viên thông
tin viên, sẽ giúp họ làm điều đó. Tờ Miền Tây nước Pháp (Ouest France có một quy
định đối với phóng viên, biên tập viên của mình đó là: Ba ngày là thời hạn tối đa
phải trả lời thư của độc giả gửi đến toà soạn. Và chính vì điều đó, mạng lưới cộng
tác viên của tờ báo rất hùng hậu.
Sẽ là sự vi phạm thô bạo nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp khi nhà báo nhận
được bài viết của cộng tác viên nhưng lại tự viết lại và ký tên mình. Việc một nhà
báo sử dụng nguồn tư liệu ban đầu trong bài viết của tác giả khác để viết thành tác
phẩm và ký tên mình là vi phạm bản quyền tác giả, là ăn cắp ý tưởng. Điều này hoàn
toàn khác với việc nhà báo sử dụng các tư liệu rời rạc từ các bài viết đã công bố để
viết thành bài mang tính tổng hợp.
Nếu nhà báo không liên hệ được với tác giả do địa chỉ trong bài viết không rõ
ràng hoặc nếu rõ ràng thì sẽ lâu, mất tính thời sự thì khi sử dụng Ý tưởng, thông tin,
tư liệu của họ, nhà báo cần phải ghi rõ xuất xứ và phải trả một phần nhuận bút nếu
họ liên hệ lại. Còn nếu có thể liên hệ được thì nhà báo phải trao đổi, bàn bạc với tác
giả. Trong trường hợp tác giả không t hoàn thành được bài viết theo yêu cầu, thì với
sự đồng ý của tác giả, nhà báo có thể tự viết lại nhưng phải ghi đồng tác giả hoặc ghi
rõ xuất xứ ý tưởng, tư liệu và đương nhiên phải trả cho họ một phần nhuận bút. Sẽ
là sự vi phạm trắng trợn đạo đức nghề nghiệp nếu nhà báo sử người khác để viết bài
và hưởng toàn bộ nhuận bút.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa báo chí và luật p luật pháp của
nhà báo trong hoạt động báo chí.
2. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích pháp luật báo chí Việt Nam qua các
thời kỳ.
3. Anh (chị) hãy trình bày cơ sở pháp lý của hoạt động báo chí của phóng viên
nước ngoài tại Việt Nam và phóng viên Việt Nam tại nước ngoài.
4. Đạo đức là gì? Đạo đức báo chí và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
5. Phân tích những chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ nghề nghiệp
của nhà báo.
6. Phân tích mối quan hệ trong môi trường xã hội của nhà báo. Lấy ví dụ
chứng minh.
7. Phân tích mối quan hệ trong môi trường làm việc của nhà báo. Lấy ví dụ
chứng minh.
Chương 8

HIỆU QUẢ BÁO CHÍ

8.1. KHÁI NIỆM HIỆU QUẢ VÀ HIỆU QUẢ BÁO CHÍ


Thuật ngữ “hiệu quả” tiếng Latinh là effectus (chỉ hành động, hoạt động, kết
quả của hành động) và efftuvus (chỉ năng suất, công suất, hiệu quả, tác dụng).
Theo Từ điển Oxford, effect có nghĩa là kết quả, hiệu lực, hiệu quả.
Hiệu quả là năng suất hay kết quả cuối cùng của hoạt động nào đó trong đời
sống xã hội. Đây là một phạm trù khoa học đồng thời cũng là mục đích mà con người
phải tính đến trong bất cứ hoạt động nào đó của mình. Đặc trưng khác biệt chủ yếu
giữa lao động của con người và các loài vật khác chính là ở tính mục đích của hoạt
động. C. Mác chỉ rõ “Con nhện làm những động tác giống như động tác của người
thợ dệt và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm cho
một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc
tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp,
nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi”. Như vậy, chỉ có hoạt
động của con người mới làm cho vật thể tự nhiên thành đối tượng lao động và tư liệu
lao động. Con người hoạt động có mục đích, tất nhiên phải tính đến hiệu quả và tác
dụng của công việc mình làm. Ph. Ăngghen đã khẳng định “Trong lịch sử xã hội,
nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động và có suy
nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy
ra lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn” muốn”1.
1
C. Mác, Ph. Ăngghen: Sđd, tập 21, tr. 435.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con người, bởi vậy
cũng phải tính đến hiệu quả của nó. Như đã biết, hoạt động báo chí là hoạt động
mang tính chính trị xã hội và dù ở bất cứ chế độ xã hội nào thì báo chí vẫn là công
cụ của một giai cấp nhất định trong cuộc đấu tranh xác định hình thái kinh tế – xã
hội. Hiểu theo nghĩa hẹp, hoạt động báo chí nhằm mục đích góp phần làm cho hệ tư
tưởng của giai cấp đang đóng vai am hầu trò quyết định chiều hướng phát triển của
lịch sử trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội.
Từ đó có thể hiểu hiệu quả của báo chí như sau: Việc vận dụng các quy luật,
nguyên tắc, hình thức, phương thức hoạt động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình nhằm đạt mục đích được gọi là hiệu quả báo chí,
Trong thời đại phát triển khoa học và công nghệ, trình độ dân trí không ngừng
được nâng cao, tính tự giác và chủ động của công chúng trong việc tiếp nhận thông
tin khiến cho báo chí với tư cách là một vũ khí sắc bén càng có thêm vai trò và trách
nhiệm. Yêu cầu về hiệu quả báo chí càng được đặt lên hàng đầu.
Với hiệu quả của lao động sản xuất, có thể đánh giá lượng hàng hoá bằng cách
cân, đo, đong, đếm,... qua số lượng và chất lượng sản phẩm, qua chi phí sản xuất.
Hiệu quả của lao động báo chí – một hoạt động mang tính sáng tạo – ít khi thể hiện
dưới hình thức cụ thể, rất khó đo lường và không phải lúc nào cũng tác động trực
tiếp. Có những bài báo, chương trình phát thanh, truyền hình có tác động tức thời tới
công chúng, nhưng thông thường hiệu quả báo chí phải đi theo đường vòng, qua
nhiều khâu trung gian, vừa đa dạng (cùng một lúc nhằm vào nhiều mục tiêu), vừa
tổng hợp (cuối cùng quy về mục đích cơ bản). Nhìn tổng thể, lao động báo chí cũng
có những hiệu quả nhất định như: khả năng tác động vào nhận thức cũng như hành
vi ứng xử của con người, tác động vào tâm lý xã hội, tác động vào hành động thực
tiễn. C. Mác nhận định: “Đến một lúc nào đó, sức mạnh tinh thần sẽ biến thành sức
mạnh vật chất”. Hiệu quả của lao động báo chí khi được phát huy sẽ trở thành một
sức mạnh to lớn, góp phần hình thành dư luận xã hội, xây dựng hệ tư tưởng chủ đạo
của xã hội, biến nhận thức thành hành động theo chiều hướng tích cực để góp phần
cải tạo và xây dựng một xã hội tốt đẹp.

8.2. YÊU CẦU VỀ HIỆU QUẢ BÁO CHÍ


Báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, báo trực tuyến,...) là một lĩnh vực
hoạt động của truyền thông đại chúng và là lĩnh vực chủ yếu nhất. Theo quan điểm
báo chí cách mạng, hoạt động báo chí là hình thức hoạt động mang tính đặc thù.
Hiệu quả của hoạt động báo chí được đánh giá dựa trên mức độ báo chí thực hiện
các nhiệm vụ, chức năng của mình như thế nào. Mỗi loại hình báo chí lại có đặc
trưng riêng, những đối tượng hoạt động khác nhau. Nhưng xét về tổng thể, những
yêu cầu về nội dung và hình thức để báo chí Việt Nam hoạt động có hiệu quả trong
giai đoạn hiện nay là:
8.2.1. Về mặt nội dung
– Góp phần thực hiện công tác tư tưởng và các lĩnh vực khác theo tư tưởng
của Đảng, Nhà nước. Nội dung thông tin phải theo hai chiều từ Đảng, Nhà nước, các
tổ chức xã hội đến nhân dân và ngược lại từ nhân dân tới các cấp lãnh đạo.
Các sự kiện, hiện tượng, quá trình, nhân vật,... mà báo chí thông tin đến công
chúng phải thật sự là thông tin cần thiết, có chọn lọc số lượng và chất lượng thoả
đáng, qua đó hướng dẫn dư luận, thúc đẩy hành động cách mạng của quần chúng,
đáp ứng những nhu cầu theo từng giai đoạn của công tác tư tưởng của Đảng.
Góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi đối tượng tiếp nhận
nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ xây dựng và phát
triển đất nước.
– Giáo dục ý thức xã hội, quan điểm cách mạng theo tinh thần đổi mới của
Đảng, nâng cao tính tự giác, tích cực trong việc xây dựng và cải tạo xã hội, tôn trọng
pháp luật và lối sống lành mạnh. – Đẩy lùi, hạn chế, tiêu cực, tệ nạn xã hội,... đấu
tranh chống các thể lực thù địch trong và ngoài nước.
- Làm cho nhân dân thế giới hiểu về Việt Nam và ngược lại, thúc đẩy quá trình
hợp tác quốc tế theo xu hướng độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình ổn định, hợp tác
cùng có lợi và tiến bộ xã hội.
8.2.2. Về hình thức
Các tờ báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình, phải hấp dẫn, đảm
bảo nhu cầu thẩm mỹ, tác động sâu sắc đến tình cảm và suy nghĩ của đối tượng. Tác
phẩm báo chí phải được trình bày với sức thuyết phục cao, không chỉ làm cho quần
chúng hứng thú mà còn khơi gợi sự suy nghĩ đúng đắn và thúc đẩy hành động tích
cực của họ. Truyền thông đại chúng vừa tác động vào tình cảm, vừa tác động vào lý
trí của đối tượng; vừa có tác dụng trước mắt, vừa để lại ấn tượng lâu dài trong tư duy
và ý thức của công chúng. Hình thức của truyền thông đại chúng phải đáp ứng được
các yêu cầu sau:
- Khuôn khổ của tờ báo, tạp chí (đối với báo in) thời lượng phát (với phát
thanh, truyền hình) phải có tính ổn định tương đối. Báo ra khuôn khổ nào, số trang
bao nhiêu, thời lượng chương trình phát thanh, truyền hình dài hay ngắn là tuỳ thuộc
vào điều kiện phát hành, ấn loát, phát sóng, và thị hiếu của công chúng tiếp nhận.
Nhưng mỗi cơ quan truyền thông đại chúng cần tạo ra cho mình một phong cách
riêng, một bản sắc khu biệt với các cơ quan báo chí khác.
- Yếu tố hình thức bên ngoài như trình bày báo, kết cấu và cách sử dụng ngôn
ngữ, âm thanh trong chương trình phát thanh, sử dụng hình ảnh, âm thanh, màu sắc
trong chương trình truyền hình chính là yếu tố điều kiện cần để tạo bản sắc và tính
hấp dẫn cho tờ báo hay chương trình phát thanh, truyền hình. Yếu tố hình thức này
phải được vận dụng trên cơ sở phù hợp với nội dung thông tin.
– Việc sử dụng các yếu tố đồ hoạ: tranh, ảnh, màu sắc, bảng, biểu đồ,... trong
báo in; cách phối cảnh, dựng băng, lồng tiếng động, âm nhạc trong chương trình phát
thanh hay truyền hình phải tạo được sự hấp dẫn cho báo chí.
- Sử dụng nhiều chuyên mục, thể loại khác nhau để tạo sự phong phú. Các
chuyên mục phải được duy trì đều đặn, nội dung phong phú, thiết thực.
- Kỹ thuật in ấn và phát sóng: Trang thiết bị cần hiện đại và đồng bộ. Khâu
phát hành phải đảm bảo nhanh, kịp thời và đúng đối tượng phục vụ.

8.3. CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BÁO CHÍ


Cơ sở đánh giá hiệu quả báo chí được biểu hiện ở nhiều mức độ, tính chất
khác nhau, tuỳ theo sự ảnh hưởng và tác dụng của nó đến đời sống xã hội.
Để đánh giá hiệu quả báo chí cần phải: Dựa vào chức năng, nhiệm vụ của báo
chí.
- Dựa vào tác dụng và kết quả của hoạt động báo chí.
– Dựa vào mục đích đạt được của hoạt động báo chí. Hiệu quả của báo chí
được biểu hiện trên hai mặt:
- Về mặt tinh thần, bao gồm: tri thức, kiến thức, niềm tin, trạng thái tâm lý,...
tức là sự thay đổi trong nhận thức, cách ứng xử của mỗi người trong môi trường lao
động, trong đời sống xã hội, trong sinh hoạt, trong thời gian nhàn rỗi,... Những thay
đổi này là do ảnh hưởng của thông tin mà họ nhận được. Kết quả đó xuất hiện như
một yếu tố mới trong nhận thức và ứng xử; như một điều chỉnh, bổ sung cho sự phát
triển của những cái đã có; như sự loại trừ, loại bỏ, đánh giá lại những vấn đề, những
ý kiến mà trước đó đã nhận được; hoặc từ bỏ những điều mà trước đây đã công nhận.
Kết quả này có thể viết dưới dạng:
K = Mk - Md

b. Trong đó: K là kết quả;


Mk là mức độ nhận thức kết thúc;
Mđ là mức độ nhận thức ban đầu.
Nhà báo không thể thờ ơ với kết quả ban đầu mà họ đạt được.Vì vậy, khi nói
về hiệu quả, cần phải đánh giá kết quả trong mối quan hệ giữa kết quả đạt được với
mục đích mà nhà báo đặt ra. Ở đây, tất nhiên không nói tới mục đích trung gian có
liên quan đến xây dựng một bài báo, một số báo hay một chương trình phát thanh
hay truyền hình, hay mục đích cụ thể đạt được khi xây dựng và đăng tải những tác
phẩm của mình, mà chỉ đề cập đến mục đích được đưa ra ở phương diện khác (tinh
thần và thực tiễn). Một trong những khâu quan trọng đó là báo chí thực hiện những
chức năng của mình trong việc hình thành nhận thức và hướng dẫn hành động của
công chúng.
- Về mặt thực tiễn: Báo ch mặt thực tiễn: Báo chí làm thay đổi tính cách, quan
niệm, lối sống, nhân sinh quan, thế giới quan, phong tục tập quán của công chúng.
Để đạt được mục đích này, báo chí không thể một sớm một chiều có thể thay đổi cá
tính, nếp sống, nhận thức, phong tục tập quán của nhân dân được, mà đòi hỏi phải
lâu dài, kiên trì và bền bỉ. Ví dụ: Muốn thay đổi phong tục tập quán của đồng bào
H’Mông từ lối sống du canh du cư, bỏ tệ nghiện thuốc phiện, thách cưới bằng bạc
trắng,... báo chí không thể cùng một lúc đạt hiệu quả ngay được. Hoặc các tệ nạn
như cờ bạc, nghiện hút, tảo hôn,... và nhiều vấn đề nổi cộm khác ở các địa phương
hiện nay cũng cần được giải quyết. Báo chí, bằng nhiều hình thức, thể tài khác nhau,
tác động lên dư luận, từ đó góp phần giúp công chúng có cách nhìn nhận đúng thông
qua những thông tin mà họ nhận được, nghe được, xem được.
Từ mối quan hệ mục đích và kết quả đạt được cho ta khái niệm về cách đánh
giá hiệu quả báo chí như sau:
H = K/M
Mà: K = Mk - Mđ
Do vậy:
H =(Mk-Mđ)/M
Trong đó: H là hiệu quả của báo chí;
K là kết quả của báo chí;
M là mục đích của báo chí;
Mđ là mức độ nhận thức ban đầu; Mk là mức độ nhận thức kết thúc.
Nếu lấy kết quả của hoạt động báo chí để đánh giá hiệu quả của nó thì phải
xem xét trên mục đích mà báo chí luôn theo đuổi. Từ đó, vấn đề đích và cách đặt
vấn đề mục đích cũng cần được xem xét kỹ lưỡng.
Chẳng hạn, nhu cầu về giải trí của quần chúng có thể đáp ứng bằng những
buổi chiếu phim, ca nhạc, tạp kỹ, tường thuật bóng đá,... Nhưng còn những mục đích
lâu dài về chính trị, kinh tế, văn hoá,... thì khó khăn và phức tạp hơn nhiều vì nó liên
quan đến nhiều khâu, nhiều vấn đề. Vì thế cách đánh giá hiệu quả báo chí tuỳ thuộc
vào kết quả cuối cùng của nó.

8.4. NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN HIỆU QUẢ BÁO CHÍ


Các yếu tố cơ bản tạo nên hiệu quả của báo chí trước hết tuỳ thuộc vào nội
dung, hình thức và các phương thức hoạt động của cơ quan báo chí. Nhưng để báo
chí hoạt động có hiệu quả thì đòi hỏi phải có tiền đề là đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước phải đúng. Báo chí không phải đáp ứng một chiều vì làm như
vậy nhiều khi không có hiệu quả, thậm chí có tác dụng ngược trở lại. Báo chí thông
qua hoạt động thực tiễn của mình phát hiện những chỗ chưa đúng trong chính sách
và kiến nghị những điều bổ sung. Ví dụ: Thành công của báo chí trong việc tuyên
truyền “Khoản sản phẩm”, “Giao đất giao rừng”, “Xoá đói giảm nghèo”, “Chống
tiêu cực”,... đã gây được tác dụng lớn và tạo được niềm tin cho công chúng.
Muốn sáng tạo một tác phẩm báo chí có nội dung và hình thức hấp dẫn, ngoài
việc có đường lối đúng đắn, cần phải có yếu tố con người, đối tượng và phương tiện
thích hợp.
8.4.1. Yếu tố chiến lược thông tin
Để hoạt động báo chí có hiệu quả, trước hết phải có một đường lối quan điểm,
cơ chế đúng đắn, khoa học và tiến bộ của Đảng và Nhà nước. Nền tảng chính trị ổn
định cùng với hệ tư tưởng chính thống và kinh tế, văn hoá xã hội phát triển sẽ tạo
điều kiện cho báo chí phát huy được thế mạnh của mình.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII)
về xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nêu
rõ: “Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng νὰ quy mô, về nội dung và
hình thức, về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong
đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc
tế được thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục
vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng
thành về nghiệp vụ”.
Nghị quyết cũng đề ra phương hướng phát triển văn hoá nói chung và thông
tin đại chúng nói riêng, đó là “Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống truyền thông
đại chúng. Sắp xếp và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, tránh lãng
phí, phối hợp hoạt động của các loại hình thông tin báo chí, giữa thông tin báo chí
với các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật.
Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp
đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin của thế giới... đẩy mạnh thông tin
đối ngoại. Tận dụng thành tựu của mạng Internet để giới thiệu công cuộc Đối mới
và văn hoá Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn
chế tác động tiêu cực qua mạng Internet cũng như qua các phương tiện thông tin
khác.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng
văn hoá của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hoả
trong hoạt động báo chí xuất bản.
Chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng văn hoá cũng như về kỹ
thuật hiện đại đối với truyền hình, là loại bảo chị có ưu thế lớn, có sức thu hút công
chúng đông đảo”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
nêu rõ: “Công tác văn hoá thông tin có nhiều đóng góp tích cực trong việc vận động
toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội. Các cơ quan và phương
tiện thông tin đại chúng đã tích cực tuyên truyền đường lối Đổi mới của Đảng, động
viên và cổ vũ những nhân tố tích cực, đấu tranh chống các mặt tiêu cực và các tệ
nạn xã hội, khơi dậy và phát huy truyền thống nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau những khi
hoạn nạn thiên tại ...
Văn kiện cũng đề ra phương hướng: “Phát triển và hiện đại hoá mạng lưới
thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình,
báo chí, xuất bản. Đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện
phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình, ... Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của
dân tộc có chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân
tộc”.
Một trong những biểu hiện của truyền thông đại chúng đạt hiệu quả cao trong
hoạt động chính là việc truyền thông đại chúng đi đúng hoạt động của mình. Để đạt
được kết quả đó, vấn đề đặt ra là cần phải có hành lang pháp lý chặt chẽ hơn nữa cho
hoạt động báo chí cùng với một kế hoạch tổng thể và đồng bộ trong công tác lãnh
đạo và quản lý báo chí, góp phần xây dựng nền báo chí cách mạng thực sự là tiếng
nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức hội, đồng thời là diễn đàn tin cậy của nhân
dân.
8.4.2. Yếu tố con người
Về yếu tố con người (đội ngũ những người làm báo, bao gồm: phóng viên,
cán bộ biên tập, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhân viên kỹ thuật, công nhân lành nghề):
Phải có phẩm chất chính trị tốt, được đào tạo bài bản, có trình độ lý luận, nghiệp vụ
chuyên môn, có kiến thức văn hoá, khoa học – kỹ thuật, có kỹ năng, kỹ xảo, có năng
khiếu, yêu nghề, nhiệt tình, năng động, đồng thời phải luôn trung thành với lợi ích
của Đảng và dân tộc,... Muốn vậy phải xây dựng một tổ chức và cơ chế chỉ đạo thoát
khỏi ảnh hưởng của đường lối quản lý hành chính, quan liêu nhằm khuyến khích
những tài năng sáng tạo báo chí.
8.4.3. Đối tượng phục vụ của báo chí
Đối tượng của báo chí rất đặc biệt, bao gồm các giai tầng, các thành phần
trong xã hội. Họ là những người có trình độ chính trị, có học vấn, đã từng trải, được
thử thách qua đấu tranh cách mạng hoặc có kinh nghiệm trong lao động sản xuất và
cuộc sống. Vì vậy họ không dễ dàng tin cậy bất cứ điều gì mà ai đó muốn làm họ
tin. Và ít có nơi nào mà công chúng lại không tác động trực tiếp vào truyền thông
đại chúng bằng sự phê bình, bằng những nhận xét xác đáng các nguồn tin nhận được.
Họ sẵn sàng phân biệt và bác bỏ những nguồn tin bịa đặt, không chính xác. Do vậy,
những người làm báo cần nắm vững nghiệp vụ, đưa tin chính xác, đúng định hướng
để tăng cường và phát huy hiệu quả báo chí.
Xem xét hiệu quả báo chí, ngoài những yêu cầu nói trên, còn phải chú ý đến
bối cảnh xã hội trong nước và quan hệ quốc tế. Vì bối cảnh xã hội biến đổi sẽ kéo
theo sự biến đổi về tâm lý, nhận thức và hiểu biết của quần chúng về các lĩnh vực.
Bối cảnh xã hội thay đổi sẽ hình thành những quan hệ mới, tạo ra những bước chuyển
đổi từ lượng đến chất theo trình tự logic khoa ‘ học. Trong sự chuyển biến lớn đó,
công chúng mới của báo chí cũng gia tăng theo một định hướng rõ rệt.
Ở Việt Nam, cùng với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc
Mỹ, và quá trình xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, hoàn cảnh lịch sử đã tạo điều
kiện cho sự ra đời của những loại công chúng mới. Nhờ chú trọng phát triển giáo
dục, nhân dân ta được học hành, trình độ dân trí ngày một nâng cao. Do vậy, nhu
cầu cần được đáp ứng thông tin cũng ngày một lớn.
Hiện nay, sinh hoạt văn hoá và tinh thần của nhân dân ngày một phong phú
và đa dạng. Tâm lý xã hội đang có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng phù hợp
với quan hệ sản xuất, với nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho báo chí ngày càng
có thêm công chúng mới.
Trong khi đó, trên thế giới, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật
và công nghệ, trình độ làm báo của các nước phát triển đã đạt đến mức độ cao, nghiệp
vụ báo chí của các nước tư bản lớn rất tinh xảo, chưa kể đến phương tiện kỹ thuật
làm báo rất hiện đại. Người viết các bài báo, bài bình luận quan trọng bao giờ cũng
là những chuyên gia giỏi về chính trị và giỏi về chuyên môn. Trước tình hình đó,
một yêu cầu đặt ra đối với báo chí vị thế giới. Việt Nam là phải hướng vào phục vụ
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đồng thời lại phải phấn đấu nâng
cao trình độ của cán bộ và trang thiết bị kỹ thuật để khỏi lạc hậu quá xa với
Mặt khác, trong thời đại ngày nay, sự giao lưu giữa các dân tộc ngày càng mở
rộng và càng đi vào chiều sâu. Các nền văn minh, các dạng văn hoá xen kẽ lẫn nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau. Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những biến đổi phức
tạp, tác động trực tiếp tới nhiều dân tộc trên thế giới, báo chí trước hết phải biết
thuyết phục công chúng, đồng thời còn phải đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch, hơn nữa còn phải chủ động tiến công chúng.
Trong bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, nếu báo chí Việt Nam không
đáp ứng được yêu cầu thông tin cho công chúng thì tự nhiên họ sẽ tìm đến nguồn
thông tin khác. Nếu chỗ nào ta lơ là, mất cảnh giác hoặc bỏ trống trận địa, lập tức
những thông tin khác sẽ tràn tới và lấp vào khoảng trống ấy. Bởi vậy nếu biết kết
hợp một cách tổng hợp các yếu tố trên sẽ tạo được hiệu quả cao trong hoạt động báo
chí.
8.4.4. Yếu tố phương tiện vật chất kỹ thuật
Để đảm bảo tính hiệu quả của báo chí, phải có phương tiện vật chất kỹ thuật
cần cho hoạt động báo chí như máy móc, trang thiết bị in ấn, điều kiện làm việc,...
đạt yêu cầu và mức độ nhất định nhằm phục vụ việc sáng tạo nội dung tốt. Nếu cơ
sở vật chất kỹ thuật không tốt sẽ dẫn tới tình trạng kém chất lượng, thậm chí không
có hiệu quả. Chẳng hạn, bài báo quan trọng nhưng in ấn kém khiến không ai muốn
đọc, một tấm ảnh in trên báo mà không rõ hình ảnh, cẩu thả đưa lên mặt báo thì hại
nhiều hơn lợi. Chương trình phát thanh hay những âm thanh tồi thì không thể hấp
dẫn được thính nội giả. Một chương trình truyền hình sang trọng nhưng hình méo
mó, thuyết minh không khớp với hình thì chỉ gây ra tác dụng tiêu cực. Trên thực tế,
dung tốt không tách rời kỹ thuật biểu hiện trên các phương tiện truyền dẫn thông tin.
Kỹ thuật biểu hiện tốt sẽ giúp cho nội dung bộc lộ hết thế mạnh của nó. Ngược lại,
kỹ thuật tồi sẽ làm hại đến nội dung, thậm chí có khi gây tác hại tiêu cực. Thực tiễn
hoạt động báo chí đã chứng minh rất rõ điều đó.

8.5. CÔNG CHÚNG VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ


Muốn hoạt động báo chí có hiệu quả thì nhất thiết người làm báo phải biết đến
công chúng của mình, coi họ như đối tượng phục vụ đặc biệt, đồng thời qua họ để
biết những nhu cầu thông tin họ cần, từ đó có biện pháp đáp ứng mối quan tâm đó
của công chúng.
Công chúng (người đọc, nghe, xem) của báo chí thuộc tất cả các thành phần
cư dân trong xã hội có liên quan đến báo chí (trong đó có cả người làm báo). Điều
mà chúng ta quan tâm trước hết là con người. Trong xã hội, mỗi người đều có sinh
hoạt, sở thích, trình độ văn hoá, sự hiểu biết, kinh nghiệm cũng khác nhau. Những
cái riêng, cái khác nhau đó đều có ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận dù là cùng một
thông tin. Vì thế ta có thể nói, ý đồ đưa ra một thông tin với hiệu quả của nó đối với
người đọc thường là không nhất trí với nhau. Song muốn hoạt động báo chí đạt hiệu
quả cao, khoảng cách giữa ý đồ và hiệu quả giảm tới mức thấp nhất, chúng ta cần
biết đến đối tượng và mối quan tâm của họ về thông tin do báo chí cung cấp.
Trước hết, người làm báo phải coi thực tiễn xã hội đang diễn ra hằng ngày là
cơ sở cho hoạt động nghề nghiệp của mình, phải biết mình đang viết cho lớp người
nào đọc, và lợi ích kinh tế, văn hoá chi phối đời sống của lớp người đó là gì. Từ vị
trí xã hội và nhận thức, học vấn của đối tượng báo chí có thể xác định thái độ của họ
với thông tin và cũng chính từ đó mà xuất hiện mối quan tâm của họ với các kênh
thông tin. Nếu không biết những điều ấy thì bài viết sẽ không thuyết phục nổi quần
chúng đứng về phía những tư tưởng tiến bộ để chống lại thói hư tật xấu, nạn bóc lột,
nạn đói nghèo, tệ kỷ thị dân tộc,... và như thế chúng ta sẽ không làm cho các tư tưởng
tiến bộ biến thành hành động được. Vì vậy người làm báo không được quên rằng,
phần lớn người đọc, nghe, xem ngày nay chỉ quan tâm những tin bài mà họ thấy có
thể làm cho cuộc sống của họ tốt hơn. Hơn nữa, mối quan hệ giữa báo chí với công
chúng tuy thầm lặng nhưng chi phối cả chủ thể (người làm báo) lẫn đối tượng (người
đọc, nghe, xem). Mối quan hệ đó được coi là mối quan hệ cộng cảm, như một động
lực thúc đẩy cả hai cùng phát triển đến mục tiêu chân, thiện, mỹ của cuộc sống.
Không có một cơ quan báo chí nào lại không mong muốn mình có công chúng
bạn đọc đông đảo, và ngược lại cũng không có người đọc nào lại không mong muốn
có trong tay tờ báo, tạp chí hay, được nghe, xem một chương trình phát thanh, truyền
hình đẹp về hình thức, phong phú về nội dung, đúng mực về giá cả. Báo chí, ngoài
việc trang bị kiến thức cho công chúng, còn mang đến cho họ những rung cảm thẩm
mỹ. Người đọc không thể hài lòng với những tờ báo đậm đặc câu chữ, song cũng
không phấn khởi gì với những tờ màu sắc tranh ảnh quá loè loẹt, nhiều khi lấn át cả
câu chữ. Cái quan tâm lớn nhất của bạn đọc là những kiến thức mới, bổ ích, lý thú,...
mà báo chí đem lại cho họ. Hoạt động báo chí không chỉ cung cấp thông tin đa dạng,
nhiều chiều mà còn là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với nhận dân. Nếu làm
được như thế, báo chí cách mạng sẽ thực hiện tốt chức năng động viên, cổ vũ và tổ
chức quần chúng hành động. Báo chí có mục đích của mình và người đọc có nhu cầu
phong phú của họ. Đáp ứng được nhu cầu ấy là báo chí đã gặp được người đọc. Bạn
đọc là đối tượng sống còn của báo chí. Người làm báo phải luôn bám sát đối tượng,
bám sát thực tế để nắm bắt được nhu cầu và những vấn đề mà công chúng quan tâm,
phải đề cập và giải quyết thiết thực những đòi hỏi và yêu cầu đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đặt nền móng cho báo chí cách mạng Việt
Nam, luôn quan tâm nhắc nhở những người làm báo và chính Người đã nêu một tấm
gương sáng trong cách nói, cách viết, cách tiếp cận với công chúng. Trong thư gửi
lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng tháng 5/1949, Hồ Chủ tịch căn dặn: “Đối tượng
của tờ bảo là đại đa số dân chúng, một tờ báo không được đại đa số ham chuộng thì
không xứng đáng là một tờ báo. Muốn dân chúng ham chuộng, coi tờ bảo ấy là của
mình thì:
Nội dung tức là các bài viết phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt
bát. Và:
Hình thức tức là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng sủa”.
Người còn khuyên bảo thêm: “Muốn viết báo thì cần gần gụi quần chúng, cứ
ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết thiết thực”.
Những lời khuyên bảo đó của Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở những người làm
báo phải tôn trọng công chúng của mình – một công chúng có trình độ và có ý thức
– tức là phải trau chuốt, cẩn trọng lựa chọn từ hình thức tờ báo, từ chữ in, từ cách bố
cục, nội dung bài vở, tranh ảnh minh hoạ đến cách sắp xếp chương trình, các chuyên
mục trên phát thanh, truyền hình, mạng Internet. Càng ít sai lỗi, báo chí càng có
được những bạn đồng hành đáng tin cậy từ phía công chúng, từ đó sẽ tạo được hiệu
quả không chỉ về kinh tế mà cả về giáo dục, thẩm mỹ, đạo đức và văn hoá.

8.6. HIỆU QUẢ BÁO CHÍ VÀ VIỆC TIẾP CẬN THÔNG TIN
Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ đang hằng
ngày, hằng giờ diễn ra trên khắp các lục địa đã tạo ra một khối lượng thông tin khổng
lồ. Các phương tiện thông tin đại chúng đã vận dụng công suất với mức độ cao nhất
nhưng vẫn không đáp ứng kịp. Kênh thông tin báo chí, theo thống kê của UNESCO,
hiện nay, chỉ riêng báo ngày (không kể tuần báo) hơn 150 nước trên thế giới đã có
trên 83.000 tờ với trên 750 triệu bản in, chưa kể phát thanh, truyền hình, Internet.
Thông tin nhiều đến nỗi báo hằng ngày cũng không thể đăng tải hết tin tức trong
ngày. Ở Anh, trong những năm qua, kể từ ngày 22/2/1987, người ta đã cho ra mắt
bạn đọc một tờ báo hằng ngày gọi là “London News” (Tin tức London) nhưng không
phải là mỗi ngày một số mà một ngày ra tới 5 số. Lượng thông tin nhiều đến nỗi
không có bộ óc thiên tài nào có thể nhớ hết, không có một kho lưu trữ nào có thể
dung nạp đủ, và cũng không có một phương tiện nào, dù hiện đại đến mấy, có thể
truyền đạt hết mọi thông tin. Vì thế, trên thế giới ngày nay đã xuất hiện dịch vụ thông
tin với việc thành lập các “ngân hàng tin”, “xí nghiệp công nghiệp trí thức”,...
Việt Nam cuối thế kỷ XX chưa đạt tới mức “bùng nổ” thông tin, nhưng khối
lượng thông tin hiện có cũng không phải là ít. Lượng thông tin được truyền đi trong
những thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã bằng nhiều thế kỷ trước đây cộng lại. Theo số
liệu thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, “tính đến ngày 1/10/2001, đã có 486 báo,
tạp chí; trong đó báo: 153, tạp chí: 333; so với tổng ấn phẩm báo chí: 606. Có 68 đài
phát thanh truyền hình, trong đó có 1 đài phát thanh quốc gia, 1 đài truyền hình quốc
gia, 4 đài truyền hình khu vực, 61 đài địa phương thuộc các tỉnh, thành phố, 46 nhà
cung cấp thông tin (ICP) và báo điện tử trên mạng Internet, 44 nhà xuất bản”. Bởi
vậy một vấn đề tất yếu được đặt ra đối với cả hai quá trình thông tin và tiếp nhận
thông tin là lựa chọn thông tin. Lựa chọn là hành động có tính quy luật trong hoạt
động của con người.
Lựa chọn thông tin, một mặt, cần phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
từng phương tiện thông tin; và mặt khác, phải xuất phát từ đối tượng tác động của
thông tin. Mỗi một cơ quan báo chí đều có đối tượng tác động chủ yếu của nó. Việc
lựa chọn thông tin phải hết sức chú trọng, đáp ứng những nhu cầu nhiều mặt của đối
tượng. Nhu cầu này không chỉ là nhu cầu thông tin chính trị, kinh tế, mà còn có các
loại nhu cầu khác theo tâm lý, giới tính, lứa tuổi. Cũng không nên loại trừ những
thông tin làm thoả mãn óc tò mò như thông tin về thiên tai, tai nạn, rủi ro, về chuyện
lạ đó đây,... Nếu báo chí coi nhẹ những vấn đề này thì thông tin sẽ trở nên đơn điệu,
tẻ nhạt, kém hấp dẫn.
Để thông tin được đa dạng, phong phú, hấp dẫn, báo chí phải giữ vững nguyên
tắc tính Đảng, tính quần chúng, tính chân thật. Đây là yêu cầu khách quan mang tính
nguyên tắc đối với báo chí cách mạng.
Việc lựa chọn thông tin không chỉ gắn liền với sở thích mà còn kèm theo lợi
ích cá nhân của người lựa chọn, xử lý. Lợi ích quy định động cơ, mục đích lựa chọn.
Vì thế, việc lựa chọn thông tin phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, của dân tộc.
Lợi ích của giai cấp đang nắm quyền lãnh đạo xã hội phải đảm bảo kết hợp hài hoà
với lợi ích quốc gia, lợi ích quốc tế và các giai tầng khác trong xã hội, trong đó có
lợi ích chính đáng của cá nhân. Nếu giai cấp nào xuất phát từ lợi ích đối lập với lợi
ích của giai cấp công nhân, hoặc xuất phát từ lợi ích có tính chất cá nhân vị kỷ, vụ
lợi thì nhất định sẽ sa vào những sai lầm, lệch lạc trong thông tin và xử lý thông tin.
Việc lựa chọn thông tin còn đòi hỏi phải coi trọng hiệu quả của thông tin, phải
hết sức chú trọng tới ảnh hưởng, tác động của thông tin đối với đối tượng. Hiệu quả
thông tin chẳng những phụ thuộc một cách quyết định vào sự lựa chọn thông tin
nhằm đảm bảo thông tin đa dạng, nhiều chiều, phong phú, chân thực, khách quan,
mà còn phụ thuộc vào lượng thông tin đáp ứng nhu cầu tinh thần và nhu cầu hành
động của đối tượng. Cần tránh những thông tin vô bổ. Thông tin trước hết là truyền
đi những tin tức mới, những sự kiện, những thông tin mà người ta biết nhưng chưa
đúng, chưa thây đây đủ. Nó còn đem lại cho người tiếp nhận những nhận thức mới,
những phán đoán mới, tức là cái bội đa (multiple) trong thông tin. Cái bội đa thông
tin ấy có thể là kinh nghiệm thực tiễn, là phương pháp luận khiến cho người tiếp
nhận cổng thông tin có thể tự điều chỉnh để có khả năng tự nhận thức, như V.L.
Lênin nói: “tiếp tục đi lên một mình”... Người phê phán lỗi thông tin “dưới hình thức
đơn giản hoá quái gở”, “Và chỉ khiến cho người đọc chỉ đọc tất cả những kết luận
đã có sẵn của một học thuyết nào đấy, đến nỗi người đọc thậm chí cũng không cần
phải nhai mà chỉ việc nuốt món cháo ấy thôi”.
Lượng thông tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Điều trọng là phải
biết tin đó phát vào lúc nào sẽ có hiệu quả nhất và hạn chế được những ảnh hưởng
xấu. Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào
tính kịp thời, đúng lúc, nhanh nhạy. Báo chí làm được những điều trên sẽ làm tăng
giá trị của thông tin, nếu thông tin chậm thì hiệu quả sẽ ngược lại và lượng của nó
sẽ bằng không.
V.I. Lênin đã chỉ rõ: “tính chất đơn điệu và sự chậm trễ đều không hợp với
nghề báo”. Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sức lôi cuốn, hấp dẫn
của báo chí. Lượng thông tin trên báo chí cao hay thấp còn quyết định bởi tính chiến
đấu, tính bút chiến và bình luận sắc sảo. Để tăng tính hấp dẫn, tăng lượng thông tin,
điều quan trọng là thông tin không được “lẩn tránh những vấn đề gay go”. Nếu tờ
báo mà như vậy sẽ có lúc trở thành khô khan, đơn điệu, không hấp dẫn, thiếu tính
chiến đấu. Lênin đòi hỏi “một cơ quan ngôn luận xã hội chủ nghĩa phải tiến hành
bút chiến, và không thể không tiến hành bút chiến một cách linh hoạt bằng cách tấn
công chất vấn độc lập hoặc chỉ tự vệ một cách khô khan, buồn tẻ”.
Tóm lại, hiệu quả báo chí là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều bộ phận
cấu thành có quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Muốn nâng cao hiệu quả báo chí
phải tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận, các yêu tố Mặt khác, hiệu quả báo chí
còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của việc tuyên truyền thông tin, cách thể hiện thông
tin. Do đó, việc lựa chọn những hình thức biểu hiện thông tin một cách sinh động,
gây được những xúc cảm tốt cũng là yêu cầu cần thiết đối với báo chí nhằm làm cho
báo chí phát huy tác dụng thực sự trong việc hướng dẫn dư luận và đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng.
CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Anh (chị) hãy trình bày hiệu quả và hiệu quả báo chí. Cho ví dụ chứng
minh.
2. Anh (chị) hãy trình bày các yêu cầu về hiệu quả báo chí trên các khía cạnh
nội dung và hình thức.
3. Anh (chị) hãy phân tích và chứng minh những cơ sở, căn cứ để đánh giá
hiệu quả báo chí. Những tiêu chỉ đó là gì?
4. Phân tích các yếu tố tạo nên hiệu quả báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
5. Phân tích vai trò của công chúng trong hoạt động báo chí. Mối quan hệ Nhà
báo — Tác phẩm – Công chúng. 6. Phân tích hiệu quả báo chí và quy luật tiếp cận
thông tin báo chí của công chúng.
7. Phân tích những đổi mới thông tin của báo chí trong nền kinh tế thị trường
cũng như toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay.

You might also like