Professional Documents
Culture Documents
- Góc độ dẫn dắt: Truyền thông là quá trình dẫn dắt sự chú ý của người khác nhằm
mục đích trả lời sự mong mỏi (Cartier và Hanoov, 1950).
– Góc độ phản ứng: Truyền thông là sự phản ứng của cơ thể đối với một nhân tố
kích thích (Stevens, 1950).
– Góc độ khuyến khích: Mỗi hành động truyền thông được coi là sự chuyển tải thông
tin chứa đựng yếu tố khuyến khích từ nguồn thông tin đến người tiếp nhận (Dore
New-comb, 1966).
- Góc độ chủ định: Về cơ bản, truyền thông quan tâm nhất đến tình D – n huống
hành vi, trong đó, nguồn thông tin truyền một nội dung đến người nhận với chủ đích
tác động tới hành vi của họ (Gerald Miler, 1966).
- Góc độ thời gian, tình huống: Quá trình truyền thông là quá trình chuyển đổi từ
một tình huống đã có cấu trúc như một tổng thể sang tình huống khác theo một thiết
kế được ưu ái hơn (Bess Sondel, 1956).
– Góc độ quyền lực: Truyền thông là cơ chế qua đó quyền lực được thể hiện (S.
Schaehter, 1951).
Ngoài các quan niệm trên còn có các quan niệm khác về truyền thông như:
– Truyền thông là quá trình truyền thông tin có nghĩa giữa các cá nhân với
nhau.
- Là quá trình trong đó một cá nhân (người truyền tin) truyền những thông
điệp với tư cách là những tác nhân kích thích (thường là những ký hiệu ngôn ngữ)
để sửa đổi hành vi của những cá nhân khác (người nhận tin).
– Truyền thông xảy ra khi thông tin được truyền từ nơi này đến nơi khác.
Truyền thông không phải đơn thuần là sự chuyển tải các thông điệp ancil of bằng
ngôn ngữ xác định và có ý định trước mà nó bao gồm tất cả các quá trình trong đó
con người gây ảnh hưởng, tác động đến một người khác.
- Truyền thông xảy ra khi người A truyền thông điệp B qua kênh C đến người
D với hiệu quả E. Mỗi chữ cái ở vài phạm vi là chưa được biết, và quá trình truyền
thông có thể được giải thích với bất cứ chữ cái nào trong số này hay bất cứ một sự
kết hợp nào.
- Truyền thông (Communication) là quá trình trao đổi thông tin giữa các thành
viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt sự hiểu biết lẫn nhau,...
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy được tính phức tạp, đa dạng của truyền
thông, do đó, những nghiên cứu về truyền thông phải mang tính liên ngành, đòi hỏi
sự nỗ lực của nhiều bộ môn. Như vậy, khái niệm về truyền ý sứ thông bao hàm một
ý nghĩa hết sức rộng lớn. Danh từ truyền thông (Communication) có nghĩa là làm
thành cái chung, liên lạc, giao tiếp. Truyền thông là sự cố gắng tạo lập nên sự hiểu
biết chung của con người với mục đích làm thay đổi nhận thức và hành vi. Truyền
thông khác với các thuật ngữ Các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass Media
hay Mass Communication). Các phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm: sách,
báo, phát thanh, truyền hình, phim tài liệu, báo chí điện tử phát trên mạng Internet,...
Nó là một kênh của truyền thông, thậm chí là một kênh quan trọng và có hiệu quả
nhất của quá trình truyền thông.
Tổng quát lại, lý thuyết truyền thông có 3 loại: Loại thứ nhất xác định bản
chất và nội dung của quá trình truyền thông; Loại thứ hai đề cập đến quá trình cơ
bản chung cho tất cả các loại truyền thông của con người; Loại thứ ba đề cập đến
bối cảnh mà quá trình truyền thông xảy ra.
Từ những phân tích trên, có thể hình thành khái niệm chung về truyền thông
như sau:
Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình
cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và
nhận thức.
Ở định nghĩa này, cần lưu ý đến những khía cạnh:
Thứ Thứ nhất, truyền thông là một quá trình – có nghĩa nó không phải là một
việc làm nhất thời hay xảy ra trong một khoảng thời gian lớn. Quá trình này mang
tính liên tục, vì nó không thể kết thúc ngay sau khi ta chuyển tải nội dung cần thiết
mà còn tiếp diễn sau đó. Đấy là quá trình trao đổi hoặc chia sẻ, có nghĩa là ít nhất
phải có hai thực thể, và không chỉ có một bên cho và một bên nhận mà cả hai bên
đều cho và nhận.
Thứ hai, truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết lẫn nhau, yếu tố cực kỳ quan
trọng đối với mục đích và hiệu quả của truyền thông t này
Cuối cùng, truyền thông phải đem lại sự thay đổi trong nhận thức và hành vi,
nếu không mỗi việc làm sẽ trở nên vô nghĩa.
1.2. CÁC YẾU TỐ TRONG QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG
Để tiến hành truyền thông cần có các yếu tố sau:
– Nguồn (Source), hoặc người gửi/cung cấp (Sender):
Là yếu tố khởi xướng việc thực hiện truyền thông. Đó có thể là một cá nhân
nói, viết, vẽ hay làm động tác. Yếu tố khởi xướng có thể là một nhóm người, một tổ
chức truyền thông như cơ quan đài phát thanh, truyền hình, báo chí, thông tấn,...
– Thông điệp (Message):
Là yếu tố thứ hai của truyền thông. Thông điệp có thể bằng tín hiệu, ký hiệu,
mã số, bằng mực trên giấy, sóng trên không trung hoặc bằng bất cứ ký hiệu nào mà
người ta có thể hiểu được và được trình bày ra một cách có ý nghĩa. Điều quan trọng
là thông điệp phải được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ mà người cung cấp (nguồn) và
người tiếp nhận đều hiểu được. Đó có thể là ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống hằng
ngày, ngôn ngữ kỹ thuật trong khoa học kỹ thuật hay ngôn ngữ văn học nghệ thuật.
Bằng bất cứ cách nào, một ý nghĩa nào đó cũng phải được diễn tả bằng ngôn ngữ
hiểu được trong truyền thông.
– Mạch truyền/Kênh (Channel):
Là yếu tố thứ ba trong truyền thông. Mạch truyền làm cho người ta nhận biết
thông điệp bằng các giác quan. Mạch truyền là cách thể hiện thông điệp để con người
có thể nhìn thấy được qua các thể loại in hay hình ảnh trực quan, nghe thấy được
qua các phương tiện nghe, nhìn qua hình ảnh, truyền hình và những dụng cụ nghe
nhìn khác như: sờ, nếm, ngửi qua mẫu, hiện vật thí nghiệm.
– Người tiếp nhận, nơi tiếp nhận (Receiver):
Là yếu tố thứ tư của truyền thông. Đó là những người nghe, người xem, người
giải mã, người giao tiếp, hoặc có thể là một người, một nhóm, một đám đông thành
viên của một tổ chức hay của công chúng đông đảo.
Mục đích của truyền thông là làm cho người tiếp nhận hiểu được cặn kẽ thông
điệp và có những hành động tương tự. Nói một cách khác, người cung cấp, khởi
xướng truyền thông, khi chuyển thông điệp cho người tiếp nhận, mong muốn họ biết
được mình muốn thông tin gì, muốn việc làm của mình ảnh hưởng đến thái độ và
cách xử sự của người tiếp nhận. Người cung cấp, khởi xướng phải cố gắng xây dựng
được ảnh hưởng và làm thay đổi sự hiểu biết chung. Sự thông cảm qua truyền thông
cũng không phải tự nhiên mà có được. Có vô vàn những rào chắn làm cho người
khởi xướng, ng truyền tin khó thực hiện được mục đích của họ như: lứa tuổi, điều
kiện kinh tế xã hội, bất đồng ngôn ngữ, thái độ,... Chẳng hạn, những người ở các độ
tuổi khác nhau rất khó thông cảm với nhau. Hoặc những người thuộc các giới chính
trị khác nhau, trường phái tư tưởng, đảng phái khác nhau rất ít khi giao tiếp truyền
thông có hiệu quả và khó có thể thuyết phục được nhau. Hoặc những người có
chuyên môn khác nhau rất khó truyền thông khi dùng những thuật ngữ kỹ thuật,...
Biết được đối tượng truyền thông cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để
tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông. Đối tượng của truyền thông là con
người. Mỗi người có thể trả lời, đáp ứng thông điệp của người khởi xướng tuỳ theo
xu hướng, thái độ, trình độ học vấn, địa vị xã hội của riêng họ. Vì vậy, để biết được
đối tượng không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi người làm truyền thông phải đi sâu
vào bản chất, nhu cầu, nghiên cứu kỹ đối tượng, dùng chính ngay ngôn ngữ của đối
tượng để làm giảm bớt những rào chắn ngăn cách xuống mức thấp nhất.
Quá trình truyền thông là quá trình hai chiều. Người khởi xướng (nguồn) và
người tiếp nhận (người đọc, người nghe, người xem) phải kết hợp với nhau để tạo
nên những cái chung. Cả người cung cấp, khởi xướng và người tiếp nhận đều phải
tham gia vào trong hành động truyền thông. Người truyền thông không thể xem cái
mình biết là cái cuối cùng, mà còn phải chú ý tới phản ứng và sự trả lời của người
tiếp nhận. Quá trình: Người cung cấp ↔ Thông điệp ↔ Người tiếp nhận được gọi
là quá trình phản hồi (Feedback), một yếu tố quan trọng trong quá trình truyền thông.
Người làm công tác truyền thông phải luôn đặt các câu hỏi: Người cung cấp,
khởi xướng có giành được sự chú ý của đối tượng không? Người tiếp nhận có chấp
nhận những suy nghĩ, hành động và thực hiện có kết quả như mong muốn của người
cung cấp, khởi xướng không? Nếu đạt được các câu trả lời trên theo hướng tích cực
có nghĩa là truyền thông có hiệu quả. Nếu không đạt được thì kết quả sẽ ngược lại.
Người khởi xướng phải luôn nhớ rằng, mọi tư tưởng, ý nghĩa truyền bá và những kỹ
năng trên lĩnh vực truyền thông sẽ vô ích khi không có những thông tin, ý nghĩa quan
trọng được truyền đạt.
Quá trình truyền thông diễn ra theo những bước nhất định. Có thể hình dung
quá trình này thông qua các mô hình sau:
Hoạt động trước khi truyền thông: Hai nhóm người ở hai không gian A và B
chưa có sự hiểu biết và thông cảm chung.
A B
A B
Trong mô hình trên, A và B là không gian sống của hai nhóm người. Phần
chồng lên nhau là môi trường cho “truyền thông” giữa hai nhóm. Chính nhờ sự giao
tiếp này đã tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông.
Rất nhiều học giả khi nghiên cứu về truyền thông đã đưa ra nhiều mô hình
truyền thông khác nhau. Tuy nhiên mô hình của Harold Lasswell, nhà chính trị học
nổi tiếng người Mỹ, ngay từ khi đưa ra đã được đông đảo mọi người chấp nhận vì
nó đơn giản, dễ hiểu và thông dụng.
S M C R E
Mô hình của Harold Lasswell bao hàm những phần tử chủ yếu của quá trình
truyền thông, trong đó:
S– Source, sender (Ai): Nguồn, người cung cấp, khởi xướng.
M– Message (Nói, đọc, viết gì): Thông điệp, nội dung thông báo.
C-Channel (Kênh): Bằng kênh nào, mạch truyền nào.
R – Receiver (Cho ai): Người tiếp nhận, nơi nhận.
E – Effect (Hiệu quả): Hiệu quả, kết quả của quá trình truyền thông.
Với mô hình này của Lasswell, mọi hoạt động nghiên cứu có thể được tiến
hành và tập trung vào những phần tử đó. Cụ thể:
– Phân tích nguồn (S) (Ai là người cung cấp?).
– Phân tích nội dung (M) (Thông điệp chứa những gì?).
– Phân tích phương tiện (C) (Kênh nào được sử dụng và sử dụng như thế
nào?).
- Phân tích đối tượng (R) (Ai là người nhận?)
– Phân tích hiệu quả (E) (Thay đổi hành vi ra sao? Thông tin được phản hồi
như thế nào?).
Theo Lý thuyết thông tin và điều khiển học (Cybernetics) của Claude Shannon
và nhiều nhà nghiên cứu khác, quá trình truyền thông còn được bổ sung thêm các
yếu tố: hiện ng nhiễu (Noise) và phản hồi (Feedback). Do đó, mô hình của Harold
Lasswell có thể bổ sung như sau:
(Nhiễu) (Noise)
Trong đó:
Quá trình A: Nguồn (Source) có thể là một tổ chức, một cơ quan chuyển một
thông điệp cho đối tượng. Thông điệp chứa đựng những thông tin mã hoá (encode)
thông qua việc tìm tòi một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ học nào đó để diễn đạt nội
dung thông diệp. Thông điệp (message) là những thông tin thực sự được chuyển theo
một mạch truyền (kênh) này hay kênh khác đến đối tượng.
Quá trình B: Giải mã (Decode) là quá trình từng cá nhân, bằng con đường
riêng của mình, làm rõ ràng, rành mạch thông điệp được chuyển đến Mỗi thông điệp
chuyển đến có thể được chấp nhận và hiểu biết theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc
vào kiến thức, thái độ của người tiếp nhận và cũng tuỳ thuộc vào người cung cấp và
nội dung thông điệp.
Nơi nhận (Destination), người nhận (Receiver) là điểm cuối cùng giải mã
thông điệp, có quá trình và sự tích luỹ của người tiếp nhận.
Phản hồi (Feedback) là dòng chảy thông tin mà những bước đi từ thông tin
gốc đến các nơi tiếp nhận và ngược lại. Phản hồi chỉ được thực hiện với điều kiện
người tiếp nhận giải mã được thông tin và người tin có những thông tin thích hợp
với hiện tại.
Phản hồi là khía cạnh quan trọng nhất của quá trình truyền thông, là công cụ
mạnh mẽ cho phép nối hai đường truyền thông lại với nhau. Phản hồi sẽ không còn
tồn tại hoặc bị cản trở khi một trong hai bộ phận truyền thông bị vô hiệu hoá hoặc
có sự chống lại của bộ phận tiếp nhận. Như vậy, một hạn chế của truyền thông là có
thể xảy ra hiện tượng không phản hồi.
Chúng ta có thể thấy thông tin có phản hồi trong quá trình truyền thông qua
mô hình sau:
Hình 1.6. Thông tin phản hồi trong quá trình truyền thông
Đây là một chu trình khép kín của quá trình truyền thông. Trong chu trình này,
cần chú ý tới các khía cạnh sau:
- Quá trình truyền thông giữa con người với nhau bao giờ cũng diễn ra trong
môi trường xã hội, xác định rõ những kinh nghiệm chung giữa người khởi xướng và
người tiếp nhận.
- Để truyền thông đạt hiệu quả, kinh nghiệm của người khởi xướng và người
tiếp nhận có giá trị đặc biệt khi tiến hành.
– Thông điệp trong truyền thông phải qua các bước mã hoá, truyền đi, - tiếp
nhận và giải mã. Mỗi thông điệp chuyển từ người khởi xướng đến người tiếp nhận
thường bị giảm độ chính xác và cường độ nên phải tìm cách tăng thêm sức mạnh
cho thông điệp.
– Mỗi thông điệp được người tiếp nhận nghiên cứu và chúng ta chỉ biết được
sức mạnh, hiệu quả của nó khi người tiếp nhận có thông tin phản hồi.
Tóm lại, muốn truyền thông đạt được hiệu quả cao cần phải nắm vững các
bước, các khía cạnh và các yếu tố nói trên của quá trình truyền thông.
Bất kỳ quá trình truyền thông nào cũng xảy ra trong môi trường xác định. Môi
trường ấy bao gồm ít nhất hai loại yếu tố, đó là: các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên
– kỹ thuật và các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã hội.
Các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên – kỹ thuật bảo đảm cho thông điệp được
chuyển tải trọn vẹn đến cho nhóm đối tượng – công chúng truyền thông. Môi trường
tự nhiên thuận lợi, kỹ thuật và công nghệ truyền thông hiện đại là cơ sở bảo đảm cho
quá trình truyền thông được thuận lợi. Với kỹ thuật và công nghệ số (nhất là truyền
thông đa phương tiện – multimedia) hiện nay, việc quảng bá, chuyển tải thông điệp
truyền thông rất thuận tiện và có sức thuyết phục cao.
Để chinh phục các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã hội thì đòi hỏi nhà
truyền thông cần nghiên cứu, nắm bắt mới có thể triệt để khai thác nhằm nâng cao
hiệu ứng xã hội của truyền thông. Đó là môi trường văn hoá, kinh tế, chính trị, tâm
lý và tâm trạng xã hội; là sở thích, thói quen, thị hiếu và nhu cầu thông tin – giao
tiếp; là cảm xúc và khả năng tiếp nhận thông điệp, cường độ của sự chú ý, sự tham
gia tích cực và sự tương tác,... Tuy nhiên, các yếu tố thuộc môi trường tâm lý – xã
hội cũng nên được xem xét trong những cấp độ khác nhau, từ nhóm giao tiếp truyền
thông, bối cảnh diễn ra và môi trường rộng hơn.
Nói đến môi trường truyền thông là để các nhà truyền thông cần phải tính toán
tối đa các điều kiện thực tế khi lập kế hoạch hoặc xây dựng chiến dịch, chiến lược
truyền thông; tiên liệu trước nhằm khai thác triệt để các điều kiện thuận lợi và hạn
chế những khó khăn — rào cản (có thể có) trong quá trình xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện chiến dịch truyền thông; đồng thời nếu không tính đến các yếu tố
trong môi trường truyền thông cụ thể, năng lực và hiệu quả truyền thông có thể bị
hạn chế, thậm chí ngược lại mong đợi của chủ thể truyền thông.
Khái niệm “mẫu” có thể hiểu là một dạng (dạng thức), một khuôn thức (hay
mô thức), hay một mô hình (nói một cách trừu tượng là một tập hợp các quy tắc, tiêu
chí) mà có thể dùng để làm ra hay tạo nên những sự vật hoặc có n | ma co the dung
ac lam ran các bộ phận của một vật. Với tư cách là hiện tượng xã hội luôn biến đổi
h thích ứng với môi trường hoạt động, dạng thức hay loại hình truyền thông là những
khái niệm tương đối, không giống như trong ngôn ngữ học, toán học,...
Dạng thức, loại hình truyền thông là những khái niệm được dùng để ra c khu
biệt các mô hình, mô thức, cách thức tổ chức liên kết các yếu tố hoạt động truyền
thông; nhờ đó, kế hoạch, hoạt động truyền thông được lập ra I novi theo những tiêu
chí nhất định; và những tiêu chí này làm cơ sở cho hoạt động kiểm tra, giám sát và
đánh giá kế hoạch hay chiến dịch truyền thông.
Căn cứ và các tiêu chí khác nhau sẽ có các cách phân loại khác nhau cho dạng
thức hay loại hình truyền thông. Có truyền thông nội cá nhân (truyền thông cho chính
mình), truyền thông liên cá nhân (truyền thông với người khác), truyền thông nhóm,
truyền thông đại chúng,...
1
Nguồn: Nguyễn Văn Dũng làn
a, Truyền thông trực tiếp
Là hoạt động truyền thông trong đó có sự tiếp xúc trực tiếp mặt đối mặt giữa
những người tham gia truyền thông – giữa chủ thể và nhóm đối tượng truyền thông.
Truyền thông trực tiếp có thể là truyền thông 1 − 1 (hai người truyền thông trong bối
cảnh gặp gỡ trực tiếp), truyền thông 1 – 1 nhóm (ví dụ: một diễn giả đang nói chuyện
với một nhóm), truyền thông trong nhóm (ví dụ: thảo luận nhóm nhỏ trong một hội
thảo),... Một số loại hình truyền thông biểu diễn hay sân khấu với khán giả trực tiếp
hoặc diễn thuyết trước đám đông cũng thuộc nhóm truyền thông trực tiếp.
Ưu điểm cơ bản của truyền thông trực tiếp là khả năng tạo sự tương tác, bày
tỏ cảm xúc và thái độ, thu hút nhóm đối tượng – công chúng bằng trực quan sinh
động... Ở đây, uy tín, năng lực, kỹ năng truyền thông tương tác và tâm lý hòa nhập,
chia sẻ,... của chủ thể truyền thông có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo
hiệu ứng và hiệu quả truyền thông.
b) Truyền thông gián tiếp và các dạng truyền thông khác
Là hoạt động truyền thông trong đó những chủ thể truyền thông không tiếp
xúc trực tiếp, mặt đối mặt với đối tượng tiếp nhận mà thực hiện quá trình truyền
thông nhờ sự hỗ trợ của yếu tố trung gian (con người hoặc các phương tiện truyền
thông khác) truyền dẫn thông điệp. Kỹ thuật và công nghệ truyền thông càng hiện
đại, phương tiện truyền dẫn và quảng bá thông điệp càng phong phú, đa dạng. Ví dụ:
Truyền thông nhờ sự hỗ trợ của bưu diện (gửi một bức thư hoặc nói chuyện qua điện
thoại,...), của Internet (chat, chat voice, webcam, email, forum,...), và qua các
phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, báo
mạng điện tử, các website,... Chẳng hạn như truyền thông radio là truyền thông qua
sóng điện tử phát thanh nên phương tiện thu nhận thông điệp (radio) được dùng làm
tên gọi cho phương thức này. Tương tự là truyền thông truyền hình,...
Ngoài truyền thông phát thanh, truyền thông truyền hình còn có truyền thông
biểu ngữ, truyền thông in ấn,...
1.6.2. Phân loại theo phạm vi tác động, ảnh hưởng
Căn cứ vào mức độ phạm vi tác động, ảnh hưởng của truyền thông, có thể
phân chia truyền thông thành: truyền thông nội cá nhân, truyền thông liên cá nhân,
truyền thông nhóm và truyền thông đại chúng.
a) Truyền thông nội cá nhân
Là quá trình truyền thông (với chính mình) diễn ra trong mỗi cá nhân do tác
động của môi trường bên ngoài – những tác nhân hay ảnh hưởng khác, cùng với quá
trình tiếp nhận và “chế biến” thông tin bên trong mỗi cá nhân. Truyền thông nội cá
nhân càng tích cực và chủ động bao nhiêu, quá trình tích luỹ kiến thức, kỹ năng và
kinh nghiệm càng cao bấy nhiêu. Chẳng hạn, cùng nghe một buổi nói chuyện, cùng
đọc một cuốn sách,... nhưng ai chịu tư duy, chịu tự tổng kết, khái quát và liên tưởng,
suy luận,... thì người ấy sẽ thu được nhiều điều bổ ích cho bản thân. Đó là biểu hiện
cụ thể của nặng lực tư duy chủ động, tích cực. Dạng thức truyền thông này diễn ra
thường xuyên, liên tục ở mỗi cá nhân. Hiệu quả của dạng thức truyền thông này phụ
thuộc vào năng lực, tư chất cá nhân và môi trường giao tiếp xã hội rất rõ rệt.
Truyền thông nội cá nhân vừa là yếu tố kích thích phát triển vừa là tiêu chí
đánh giá năng lực tư duy cá nhân. Việc đánh giá năng lực cá nhân cũng cần có quan
niệm mới. Trong Lý thuyết “đa thông minh” (Theory of multiple intelligences – MI)
được giáo sư tâm lý Howard Gardner (Đại học Harvard) đưa ra lần đầu tiên trong
cuốn sách Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences xuất bản vào năm
1983, Howard cho rằng khái niệm thông minh vốn thường được đồng nhất và đánh
giá dựa trên các bài trắc nghiệm IQ chưa phản ánh đầy đủ các khả năng tri thức đa
dạng của con người. Theo ông, ở trường, một học sinh giải quyết dễ dàng một bài
toán phức tạp chưa chắc đã thông minh hơn đứa trẻ khác loay hoay làm mãi không
xong bài toán đó. Cậu học sinh thứ hai rất có thể sẽ giỏi hơn trong các “dạng” thông
minh khác. Theo đó, Howard Gardner và nhóm cộng sự của mình đề xuất trong việc
giáo dục học sinh nên phân loại để phát triển (những khả năng) hoặc cải thiện (nhũng
mặt yếu) của học sinh.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng không có truyền thông nội cá nhân. Nhưng
nhận diện dạng thức truyền thông này là nhằm đề cao năng lực tư duy theo hướng
chủ động và tích cực của cá nhân – yếu tố rất quan trọng trong quá trình tạo lập “vốn
con người” trong quá trình hình thành kinh tế tri thức, trong quá trình toàn cầu hoá
và thế giới đang bị làm phẳng; quá trình xã hội hoá và cá thể hoá cá nhân.
b) Truyền thông liên cá nhân
Là dạng thức truyền thông trong đó các cá nhân tham gia tổ chức, thực hiện
việc trao đổi thông tin, suy nghĩ, tình cảm,... nhằm tạo ra sự hiểu biết và những ảnh
hưởng lẫn nhau về nhận thức, thái độ, hành vi. Đó là quá trình thông tin – giao tiếp
và liên kết các cá nhân, chịu tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và chịu sự chi phối của
môi trường giao tiếp xã hội. Môi trường truyền thông xã hội cởi mở, dân chủ, công
khai, minh bạch và tương tác bình đẳng sẽ kích thích cá nhân giao tiếp, tư duy sáng
tạo và phấn khích tham gia công việc chung.
Chất lượng truyền thông nội cá nhân và truyền thông liên cá nhân là tiền đề,
điều kiện để nâng cao chất lượng truyền thông nhóm.
c) Truyền thông nhóm
Là dạng thức truyền thông được thực hiện và tạo ảnh hưởng trong phạm vi
từng nhóm nhỏ hoặc giữa các nhóm xã hội cụ thể. Khác với truyền thông liên cá
nhân, truyền thông nhóm và truyền thông một – một nhóm, truyền thông nhóm đòi
hỏi kỹ năng giao tiếp ở cấp độ cao hơn, khả năng liên kết và tương tác rộng hơn.
Truyền thông nhóm muốn đạt hiệu quả đòi hỏi các thành viên trong nhóm tuân thủ
nguyên tắc phát huy tính tích cực, chủ động tham gia bày tỏ và chia sẻ ý kiến, suy
nghĩ, kinh nghiệm, tình cảm của mình; đồng thời yêu cầu các thành viên trong nhóm
tôn trọng ý kiến của nhau trên nguyên tắc tìm kiếm những tương đồng và bảo lưu sự
khác biệt. Truyền thông nhóm phát triển tích cực là cơ sở, tiền đề cho xã hội phát
triển bền vững. Một trong những yếu tố động lực của các nước phát triển là cá nhân
nào trong nhóm có năng lực tư duy vượt trội sẽ là nhóm trưởng; trong mỗi cơ quan
hay mỗi ngành cũng tương tự. Theo đó, các cá nhân này có vai trò kéo xã hội phát
triển theo hình chóp – đó là cơ chế lựa chọn qua thi cử, phát hiện và qua tiến cử nhân
tài, nhờ thế tạo thành động lực phát triển và kích thích nguồn nhân lực xã hội. Xã
hội ở các nước đang phát triển, nhất là các nước đang phát triển không bình thường
là xã hội có cơ chế ngược lại. Ở các xã hội theo cơ chế ngược lại này, sự “lựa chọn”
những người a dua nịnh hót, kéo bè kéo cánh vì “lợi ích nhóm” sẽ dần làm triệt tiêu
năng lực sáng tạo của con người đồng thời tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ xã hội.
d) Truyền thông đại chúng
Là dạng thức truyền thông – giao tiếp với công chúng xã hội rộng rãi, được
thực hiện thông qua các phương tiện kỹ thuật và công nghệ truyền thông, với phạm
vi ảnh hưởng rộng lớn tới công chúng – nhóm lớn xã hội. Một số loại hình truyền
thông đại chúng tiêu biểu là: sách, báo in và các ấn phẩm in ấn, điện ảnh, phát thanh,
truyền hình, quảng cáo, video clip, metoch tod Internet, mạng xã hội và các dạng
thức truyền thông trên mạng Internet, băng, đĩa hình và âm thanh,... Trong truyền
thông đại chúng, các loại hình a am than te báo chí (như báo in, tạp chí, phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử) có vị trí trung tâm, vai trò nền tảng; nó chi phối sức
mạnh, bản chất và khuynh hướng vận động của truyền thông đại chúng. Truyền
thông đại chúng phát triển và phát huy tác dụng cùng với quá trình đô thị hoá, cùng
với sự quan tâm đến giáo dục con người cũng như mức độ dân chủ hoá đời sống xã
hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với kỹ thuật và công nghệ truyền thông số if au
in ngày càng hiện đại, mạng xã hội và các dạng thức truyền thông trên mạng Internet
(có thể gọi là truyền thông xã hội) ngày càng đa dạng, việc phân biệt tính đại chúng
của truyền thông đại chúng với các mạng xã hội ngày càng phức tạp. Thời gian qua,
hội nghị tại Oxford (Anh) đã được tổ chức để tìm hiểu mối tương tác giữa Internet
và ngành công nghệ thông tin. Truyền thông xã hội trở thành một bộ phận quan trọng
trong lĩnh vực thông tin tài chính đối với hãng tin Reuters1.
Mặt khác, Hội nghị Truyền thông xã hội năm 2009 tập trung đánh giá sự phát
triển, tác động và tiềm năng của truyền thông xã hội để có cái nhìn về các phương
tiện truyền thông xã hội khác nhau và sự tác động của chúng trong lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội. Trong đó, mối quan hệ giữa blog và các phương tiện truyền thông
“dòng chính” (hàm chỉ truyền thông qua báo chí) được hội nghị đặc biệt quan tâm.
Richard Sambrook – Giám đốc của BBC Global News Division, nhận định rằng sự
tác động của phương tiện truyền thông xã hội được đánh giá quá cao nếu xét trong
quãng thời gian ngắn vừa qua, nhưng lại được đánh giá chưa đúng mức nếu xét về
lâu dài. Ông thừa nhận rằng, truyền thông “dòng chính” đang dần thích nghi với sự
“lấn sân” của truyền thông xã hội như Blog và Twitter; tuy nhiên chưa có ai đề cập
về sự tác động lâu dài của sự “lấn sân” này. Sự tác động về lâu về dài là như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, Richard khẳng định rằng về lâu về dài, sẽ không có một tổ
chức nào độc quyền sở hữu thông tin. Xã hội phát triển với sự tham gia của bộ phận
đông đảo công dân làm báo, nhiều thông tin không còn được giấu kín mà sẽ được
chia sẻ trên các phương tiện truyền thông xã hội. Do đó, Richard cho rằng bộ phận
làm báo này cũng nên được đánh giá đúng tầm quan trọng1.
Cũng tại hội thảo, các nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề là trong quá trình cạnh
tranh và kết hợp giữa các loại hình truyền thông – truyền thông “dòng chính” và
truyền thông xã hội, đòi hỏi những người làm “dòng chính” cần có cách tiếp cận
1
Nguồn: Compendiumblog
mới, nhận diện sự khác biệt giữa hai dòng truyền thông này cũng như nâng cao tính
chuyên nghiệp của mình.
Richard bình luận: “Mỗi sáng, khi bạn mở Twitter, bạn thấy có rất nhiều thông
tin mới, thì đó chỉ là tin, chứ không phải là tin tức báo chí. Tin tức báo chí đòi hỏi
có sự phân tích, tính kỷ luật, sự giải thích và bối cảnh rõ ràng. Vì vậy, tin tức do các
nhà báo, phóng viên cung cấp luôn có tính chuyên nghiệp và sự khác biệt. Richard
lạc quan tin tưởng về tương lai của báo chí trong sự cạnh tranh khốc liệt giữa truyền
thông “dòng chính” và truyền thông xã hội”2.
Cũng nguồn dẫn trên cho thấy, John Kelly bình luận viên của - Washington
Post có bản báo cáo về những thách thức và giá trị của “báo chí công dân” cho một
nghiên cứu về báo chí của Viện Reuters (Anh). Kelly cho rằng: “Huffington Post
không chỉ cạnh tranh với Washington Post về việc đưa tin, mà cạnh tranh cả về độc
giả”. Theo Kelly, truyền thông xã hội không chỉ quan trọng đối với “báo chí công
dân” mà quan trọng đối với cả người đọc. Các phương tiện truyền thông truyền thống
đang tìm cách sử dụng truyền thông xã hội để đạt được số người theo dõi với số
lượng lớn. Theo bản báo cáo của Kelly, Washington Post vẫn còn chần chừ trong
việc coi trọng các bài viết của công dân làm báo. Mảng thể thao của tờ này là mảng
có nhiều bài viết do độc giả thực hiện nhất. Đây là những bài tổng hợp về các cầu
thủ đá bóng của Mỹ từ Twitter. Còn Jonathan Ford – biên tập viên, bình luận viên
của hãng Reuters, cho rằng đối với một hãng thông tấn như Reuters thì việc để truyền
thông xã hội góp mặt trong việc đưa tin là một quyết định khá khó khăn. Reuters là
một hãng tin lớn, nếu các bài của hệ thống truyền thông xã hội mắc lỗi thì điều này
sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của hãng. Theo báo cáo của Kelly, ở khía cạnh thông
tin tài chính, Reuters lại rất quan tâm đến Blog nhằm thiết lập một cộng đồng chuyên
cung cấp thông tin và tin tức cụ thể về thương mại. Bởi lẽ trên thực tế, truyền thông
xã hội đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực tài chính. Chẳng hạn, chuyên gia kinh
tế Paul Krugman hay các giám đốc ngân hàng đều chia sẻ thông tin với công chúng
thông qua truyền thông xã hội để lôi kéo nhiều người vào các cuộc tranh luận về tài
chính, và từ đó lấy được lòng tin của những người này. Trên Twitter, thậm chí một
dòng chữ “Các chủ ngân hàng sử dụng Blog để lấy lòng tin. Ai quan tâm?” cũng đã
thu hút nhiều người bình luận.
Như vậy, truyền thông đại chúng, báo chí và truyền thông xã hội tuy có những
điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt căn bản.
1
Nguồn: http://tintuc.vnth.vn/n4031-1/bao-chi-loai-hinh-truyen-thong.htm.
2
Nguồn: http://tintuc.vnth.vn/n4031-1/bao-chi-loai-hinh-truyen-thong.htm.
d) Tuyên truyền
Là loại hình truyền thông đặc thù. Đó là quá trình truyền thông dựa trên mô
hình truyền thông một chiều, áp đặt làm cơ sở lý thuyết và phương châm hoạt động.
Mô hình truyền thông đặc thù này hiện nay vẫn được sử dụng ở nhiều nước trên thế
giới – dù ở các mức độ và phạm vi khác nhau, trong những trường hợp khác nhau,
trong các xã hội có chế độ chính trị khác nhau và với các quan niệm khác nhau.
Chẳng hạn, ở các nước phương Tây, người ta cho rằng, tuyên truyền là nói
mãi một vấn đề không có thật, kể cả bằng các sự kiện nguỵ tạo, để cho dân chúng
tin là thật, còn thực chất là lừa dối công chúng nhằm mưu lợi.
Trong khi đó, ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo
quan niệm của V.I. Lênin, lại cho rằng tuyên truyền là đem chân lý, lẽ phải đến cho
quần chúng nhân dân để giác ngộ nhân dân, vận động nhân dân tin tưởng và thực
hiện một đường lối, chủ trương hay chính sách cụ thể.
Tuyên truyền chủ yếu được sử dụng trong hoạt động chính trị – tuyên truyền
chính trị. Truyền thông nói chung và tuyên truyền nói riêng đều nhằm đạt được mục
đích cụ thể. Dạng thức tuyên truyền có ưu thế riêng của nó. Tuy nhiên trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hoá, nếu trong thời gian dài, liên tục áp dụng dạng thức này,
thậm chí tuyệt đối hoá nó, sẽ có thể tạo ra những hoài nghi, ngờ vực và có thể dẫn
tới những bất ổn. Cho nên cần tính toán sử dụng dạng thức tuyên truyền trong sự kết
hợp với các dạng thức truyền thông khác một cách hợp lý, tuỳ theo tính chất vấn đề,
nhóm đối tượng truyền thông cũng như bối cảnh và thời điểm.
e) Truyền thông phát triển
Truyền thông phát triển (Development Communication) hay còn gọi là
Truyền thông vì sự phát triển bền vững (Development Support Communication) là
một lý thuyết mới xuất hiện gần đây so với lịch sử phát triển của ngành báo chí –
truyền thông nói chung. Ý tưởng cơ bản của Truyền thông phát triển là làm thế nào
để truyền thông phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia, mỗi
cộng đồng, đặc biệt ở các nước đang phát triển có tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy cơ.
“Phát triển” là khái niệm được bàn thảo nhiều trong những thập niên gần đây
và nội hàm khái niệm này ngày càng phong phú. Tuy nhiên ở một bình diện nào đó,
có thể được hiểu là “cải thiện cuộc sống của con người hoặc cải thiện mức sống của
xã hội”. Nhưng còn rất nhiều ý kiến tranh cãi ý xoay quanh vấn đề cụ thể như thế
nào là “cải thiện”. Từ rất lâu, người ta thường đồng nhất “phát triển” là “tăng trưởng
kinh tế” hoặc “thịnh vượng về kinh tế”. Trong bài nghiên cứu khoa học Lý thuyết
Truyền thông phát triển1, Men-cốt cho rằng người ta thường nhầm tưởng mức độ
phát triển được đo bằng “tổng thu nhập quốc nội GDP và mọi nhân tố trong nước
được huy động để tăng cường và duy trì mức độ tăng trưởng GNP, nhất là trong
những ngành tập trung nhiều vốn như công nghiệp và công nghệ với nguyên tắc sở
hữu tư nhân, tự do thương mại và thị trường tự do”2.
1
International and Development Communication: a 21 Century Perspective,
Sange Publications, 2001.
2
International and Development Communication: a 21st Century Perspective,
Såd, tr. 131.
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong
ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”. Khái niệm
này được phổ biên rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo Brundtland1. Báo cáo này ghi
rõ, phát triển bền vững là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại
mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương
lai...”. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm sự phát triển kinh tế hiệu
quả xã hội công bằng, văn hoá và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được a
va vực điều này, tất cả các thành phần kinh tế – xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức
xã hội,... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hoà các lĩnh chính: kinh
tế — văn hoá – xã hội – môi trường, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Mục tiêu xã
hội phải đưa lên hàng đầu trong sự phát triển kinh tế, vì nếu con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển thì không thể hy sinh con người cho sự phát
triển. “Chúng ta chọn phương thức phát triển mà cái kinh tế và cái xã hội sẽ hoà nhập
vào nhau. Sự phát triển khác với sự tăng trưởng. Tăng trưởng về số lượng, còn phát
triển có tính chất lượng. Tăng trưởng là sự tiến bộ cục bộ về kinh tế. Phát triển là sự
tiến bộ toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, môi sinh”2. Do đó,
truyền thông phát triển là phương tiện và phương thức đặc biệt quan trọng góp phần
bảo đảm sự phát triển bền vững.
Vì tư duy ngắn hạn, chụp giật mà không ít quốc gia đang phát triển cứ nhằm
vào huy động mọi nguồn lực tài nguyên cứng sẵn có, nhất là đào bởi làm tái vô tội
vạ tải nguyên không tái tạo, hoặc là bán nguyên liệu thô cho nước ngoài, phục vụ
mục đích tăng trưởng GDP trước mắt và vì lợi ích nhóm, bất chấp hậu quả trước
mắt, chứ chưa nói đến để lại hậu quả về lâu dài cho các thế hệ con cháu mai sau.
Hoặc ý thức, thái độ và hành vi của con người đối với môi trường, cũng như kiến
thức và kỹ năng sống của mỗi người và nhóm người,... còn nhiều vấn đề cần được
giáo dục, cải thiện,...
Trong bối cảnh đó, truyền thông phát triển, nhất là ở các nước đang phát triển
cần đề cao vai trò, trách nhiệm xã hội của mình đối với quá trình phát triển bền vững
của cộng đồng và đất nước.
Khó có thể kể hết các dạng thức truyền thông, dù ở mức độ tổng quan, vì trong
thực tế, các dạng thức truyền thông luôn biến đổi, lồng ghép và có những bước phát
triển mới. Hơn nữa, các loại hình, dạng thức truyền thông ngày càng phát triển đa
dạng, tương thích với trình độ văn minh của con người và xã hội sẽ là nguồn năng
lượng hằng ngày của báo chí, kết nối với báo chí và thông qua báo chí để phát huy
hiệu quả của nó; đồng thời, tác động tích cực của báo chí sẽ là yếu tố tạo nên hiệu
ứng xã hội và môi trường truyền thông hiệu quả. Báo chí, một mặt, cũng là những
loại hình truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng; mặt khác, nó
là những loại hình có vị trí trung tâm, vai trò chủ yếu, quyết định sức mạnh xã hội
của truyền thông nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng.
1
Còn gọi là Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển
Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland).
2
Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
– WCED.
1
Xem Mai Quỳnh Nam, Giao tiếp đại chúng và giao tiếp gia đình
2
Xem Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên), NXB Văn
hoá – Thông tin, H., 1992.
Truyền thông đại chúng có thể được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các
phương tiện truyền thông hướng tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân
dân các vùng miền, cả nước, khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ,
nhằm lôi kéo và tập hợp giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông đảo công chúng xã
hội và nhân dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội đã
và đang đặt ra.
Như vậy nội hàm khái niệm truyền thông đại chúng có thể nhấn mạnh mấy
khía cạnh sau đây:
– Chỉ hệ thống hoặc mạng lưới các kênh truyền thông khác nhau;
– Chuyển tải khối lượng lớn các thông điệp;
– Hướng thông điệp tác động vào đông đảo công chúng xã hội; – Mục đích là
chia sẻ thông tin, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nhằm thuyết phục, lôi kéo, tập
hợp lực lượng xã hội;
- Hiệu ứng cuối cùng của truyền thông đại chúng là hành vi xã hội. Khái niệm
truyền thông đại chúng nhìn từ các yếu tố cấu thành có thể được mô tả như sau:
Trong khái niệm nêu trên, có thể thấy vai trò trung tâm, vị trí nền tảng của báo
chí trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Báo chí có vai trò chi
phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh hướng của truyền thông đại chúng.
Do đó, trong nhiều trường hợp, người ta dùng thuật ngữ báo chí để chỉ các phương
tiện truyền thông đại chúng. Mặt khác, nói đến truyền thông đại chúng trước hết là
nói đến báo chí (hay giới truyền thông nói chung). Thông tin báo chí và thông tin
trên các phương tiện truyền thông khác tuy có sự khác biệt căn bản, nhưng giữa
chúng có sự chia sẻ, phối hợp, kết nối để gia tăng sức tác động và sự lan toả trên
diện rộng cũng như len lỏi vào công chúng xã hội theo nhóm nhỏ,
1.7.2. Đặc điểm, tính chất của truyền thông đại chúng
– Thứ nhất, đối tượng tác động của truyền thông đại chúng là đông đảo công
chúng xã hội – những quần thể dân cư không phân biệt trình độ, dân tộc, đảng phái,
tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp,... Khi nói chuyện với một nhóm đối tượng xác định
trong không gian xác định, bạn hoàn toàn có thể biết đó là những ai đang nghe;
nhưng khi phát biểu qua các phương tiện truyền thông đại chúng, bạn khó có thể xác
định được những ai đang theo dõi thông điệp của mình. Có thể gọi đó là đặc tính ẩn
danh, không xác định của công chúng truyền thông đại chúng. Mặc dù các ấn phẩm
truyền thông đại chúng đều nhằm vào những nhóm đối tượng cụ thể với mục đích
cụ thể, nhưng mỗi khi những ấn phẩm ấy được xã hội hoá trên các kênh truyền thông
đại chúng thì đối tượng tiếp nhận không phải chỉ còn là nhóm đối tượng được xác
định ban đầu. Đây chính là tính công khai của truyền thông đại chúng. Hơn nữa,
chính tính công khai này lại tiềm ẩn sức mạnh của truyền thông đại chúng. Bởi vì,
như C. Mác đã nói, vũ khí phê phán quyết không thể thay thế bằng việc phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, nhưng
sức mạnh tinh thần khi đã ngấm vào quần chúng thì nó sẽ biến thành lực lượng (sức
mạnh) vật chất, và lực lượng vật chất này có thể làm được mọi việc — từ việc lật
nhào đến việc dựng lên một thể chế chính trị. Những thông điệp trên truyền thông
đại chúng tác động vào hàng triệu người, lay động, chi phối, thậm chí lũng đoạn
hàng triệu người, kêu gọi, thúc đẩy và tổ chức họ tham gia giải quyết các vấn đề
đang đặt ra. Đấy chính là lực lượng vật chất khổng lồ có thể tạo dựng, kiến thiết nên
một chế độ xã hội, nhưng cũng có thể lật nhào nó một cách “ngọt ngào” trong chốc
lát. Tình hình ở Bắc Phi và Trung Đông trong năm 2011 đã chứng minh điều đó.
– Thứ hai, các sự kiện và vấn đề đăng tải trên truyền thông đại chúng - luôn
hướng tới việc ưu tiên thoả mãn, phục vụ nhu cầu, mong đợi của công chúng xã hội
và nhân dân. Những sự kiện được thông tin liên quan mật thiết đến việc giải thích
và giải đáp, tháo gỡ những vấn đề bức xúc trong cuộc sống của đông đảo cư dân –
lấy lợi ích của nhân dân làm trọng, hoặc giúp họ mở rộng tầm mắt, nối dài tầm tay
trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh liên quan đến cuộc sống.
Trong xã hội thông tin thời đại số hoá, các phương tiện truyền thông đại chúng đã
và đang trở thành diễn đàn chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm, kỹ năng và kinh
nghiệm của đông đảo nhân dân. Sản xuất, trao đổi, chia sẻ thông tin là một trong
những hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế tri thức và xã hội số hoá. ib
Nhu cầu tiếp nhận của công chúng nói chung hết sức đa dạng, phong phú. Với
mỗi sự kiện và vấn đề xảy ra, họ đều muốn được thông tin đa chiều. Thông tin đa
chiều giúp công chúng nhận thức rõ hơn bản chất của sự kiện và vấn đề đang đặt ra.
Cho nên cũng không ngạc nhiên vì cùng một vấn đề, cùng một sự kiện thời sự, mỗi
phương tiện truyền thông có những thông tin đưa ra không giống nhau, thậm chí trái
ngược nhau; nhưng những sự khác biệt ấy cần có sự kiểm chứng nguồn tin và hướng
vào việc công chúng nhận thức được, hiểu được bản chất sự thật. trong là văn
– Thứ ba, tính mục đích rõ rệt. Mọi hoạt động của con người đều có tính mục
đích. Các kênh truyền thông luôn tiếp xúc, tác động đến đông đảo công chúng, nhằm
làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đông đảo người theo một chiều hướng
nào đó, liên quan đến việc tranh thủ, tập hợp lực lượng vì mục đích nào đó. Do đó
tính mục đích ở đây trước hết là mục đích chính trị. Mục đích chính trị ấy có thể biểu
hiện trực tiếp thông qua các khẩu hiệu chính trị, quyết tâm chính trị, hoặc gián tiếp
qua các tầng nấc trung gian và dưới nhiều dạng thức khác nhau. Điều này khác hẳn
với giao tiếp gia đình; giao tiếp gia đình linh hoạt và uyển chuyển hơn, còn giao tiếp
trên các phương tiện truyền thông đại chúng lại mang tính định hướng và xác định
rõ ràng hơn. “Không phải ngẫu nhiên ở giai đoạn đầu trong lịch sử nghiên cứu truyền
thông đại chúng, khoảng những năm 30 của thế kỷ này (thế kỷ XX), các nhà xã hội
học Đức thuộc trường phái Frankfurt lại phê phán gay gắt khả năng biến công chúng
thành “những khối đại chúng” và nguy cơ phá huỷ các quan hệ sinh động của đời
sống cộng đồng bởi áp lực của các phương tiện truyền thông công cộng khi hệ thống
này bị thao túng bởi lập trường chính trị tư sản”1.
Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá mục đích chính trị của truyền thông đại
chúng. Bởi vì ngoài mục đích chính trị, truyền thông đại chúng còn thoả mãn nhiều
nhu cầu đa dạng khác như văn hoá – giải trí, an sinh xã hội, chia sẻ kỹ năng và kinh
nghiệm sống, nhu cầu an sinh,...
Xét trên bình diện xã hội, nếu tuyệt đối hoá mục đích chính trị của thông tin
truyền thông đại chúng thì dễ dẫn đến việc làm cho thông tin đơn điệu, nghèo nàn
do áp đặt duy ý chí, làm cho công chúng xa lánh các phương tiện truyền thông đại
chúng; và do đó, hiệu lực và hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng sẽ suy
giảm, niềm tin của công chúng xã hội thậm chí bị đánh mất dần. Nhưng nếu xa rời
tính chính trị của mục đích thông tin thì việc lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết
phục và tổ chức đông đảo công chúng xã hội và nhân dân nói chung sẽ không có
phương hướng xác định. Do đó ở đây cần có tính chuyên nghiệp, nghệ thuật thông
tin và sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như thế nào cho hiệu quả.
– Thứ tư, tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều. Có thể nói rằng, xét trên
mọi khía cạnh, các kênh truyền thông đại chúng thể hiện rõ nhất sự phong phú, đa
dạng. Một là, đối tượng phản ánh bao gồm các sự kiện và vấn đề về mọi lĩnh vực
khác nhau của đời sống: từ các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong sản xuất, đời
sống,... Hai là, đáp ứng mọi nhu cầu phát triển của con người và xã hội từ tâm lý,
tình cảm, nhận thức, hiểu biết đến hành vi,... Ba là, hệ thống ký hiệu, các phương
tiện và phương thức sản xuất, chuyển tải thông điệp rất đa dạng nhằm thu hút và hấp
dẫn các giác quan tiếp nhận của con người – thị giác, thính giác, hoặc cả hai, và
trong tương lai có thể cả khứu giác nữa,... Bốn là, hình thức và thể loại cũng rất linh
hoạt và phong phú: từ những thông tin ngắn gọn, cô đúc có tính chất thông báo đến
những bức tranh được tái hiện miêu tả chân thực cuộc sống hay những mảnh đời
đang “cựa quậy”, từ diện mạo đến chiều sâu với những cảm xúc và ấn tượng cũng
như những nhận xét và đánh giá ban đầu, ngôn từ, giọng điệu hết sức linh hoạt, uyển
chuyển tạo nên sự đa thanh trong hình thức thể hiện. Trong xã hội thông tin, khi mô
thức truyền thông chuyển đổi từ đơn nguồn – đa tiếp nhận đến mô thức đa nguồn –
đa tiếp nhận thì tính phong phú, đa dạng sẽ nhân lên gấp bội. Do đó nếu biết khai
thác các thế mạnh đặc trưng của các kênh truyền thông sẽ tạo nên sức mạnh tổng
hợp đa năng trong việc thu phục công chúng xã hội vào việc xây dựng và phát triển
bền vững.
Thông tin phong phú, đa dạng đã khó, thông tin nhiều chiều càng khó khăn
hơn. Bởi vì nó còn đòi hỏi tư duy chính trị, môi trường pháp lý và văn hoá giao tiếp
của cộng đồng.
– Thứ năm, tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo. Tính chất giao tiếp đại chúng
yêu cầu thoả mãn trình độ chung của công chúng. Do đó các thông điệp phát ra phải
đảm bảo để công chúng hiểu ngay lập tức và cùng hiểu như nhau để có thể chia sẻ,
nhận thức hoặc xử lý kịp thời, hiệu quả. Điều này đòi hỏi thông điệp phải được thiết
kế phù hợp để người nông dân có trình độ trung bình khi tiếp nhận không thấy khó
hiểu và nhà khoa học không thấy nhàm chán. Đây thực chất là yêu cầu cao, đòi hỏi
nhà truyền thông không chỉ phải có trình độ, năng lực, kinh nghiệm từng trải mà còn
phải có khả năng hoà nhập vào các nhóm công chúng và có năng khiếu thể hiện.
– Thứ sáu, tính gián tiếp. Hầu hết các kênh truyền thông đại chúng, trong quá
trình chuyển tải thông điệp, không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể
mà dùng các phương tiện kỹ thuật làm vật trung gian truyền dẫn. Do đó, muốn nâng
cao năng lực và hiệu quả truyền thông, không thể không tính đến việc đầu tư vào đổi
mới công nghệ, hình thức và phương thức truyền dẫn thông điệp; mặt khác, cũng
cần phải nắm vững các đặc trưng của mỗi kênh giao tiếp để có thể khai thác triệt để.
– Thứ bảy, một trong những nguyên lý của truyền thông là trong quá trình
truyền thông, tần suất tương tác giữa chủ thể và khách thể càng nhiều, càng bình
đẳng, càng nhiều người tham gia bao nhiêu thì năng lực và hiệu quả truyền thông
càng cao bấy nhiêu. Do đó mô hình tổ chức và cơ chế vận hành của cơ quan truyền
thông đại chúng phải phù hợp để cho những ai có nhu cầu và điều kiện đều có thể
tham gia. Một trong những phẩm chất của nhà truyền thông giỏi là người biết tổ chức
và kích thích, động viên và hướng dẫn cho nhiều người cùng tham gia. Trong xu thế
của thời đại số hoá, các nhà báo, nhà truyền thông chủ yếu là người tổ chức, biên tập
và khai thác các nguồn lực thông tin – truyền thông từ đông đảo công chúng – đây
là tiền đề cho báo chí công dân và công dân làm báo ra đời; sự liên kết giữa báo in
với internet, với các weblog, giữa các weblog với nhau, giữa các mạng xã hội và các
kênh truyền thông đa phương tiện đang làm thay đổi cách thức tổ chức và cơ chế
vận hành của các cơ quan truyền thông đại chúng.
Những đặc điểm, tính chất trên đây được thể hiện rõ rệt nhất ở các loại hình
báo chí – tác động đến đông đảo công chúng nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất, thường
xuyên, liên tục nhất, phong phú, đa dạng và hấp dẫn nhất, nhanh chóng và kịp thời
nhất,...
1
Mai Quỳnh Nam, Báo chí - những điểm nhìn từ thực tiễn (Nguyễn Văn Dũng
chủ biên), NXB Văn hoả – Thông tin, H., 2000.
1. Truyền thông là gì? Phân tích các định nghĩa về truyền thông từ các góc độ
tiếp cận.
2. Nếu và phân tích các yếu tố trong quá trình truyền thông.
3. Trình bày các mô hình truyền thông. Nhiễu và cách xử lý nhiễu trong quá
trình truyền thông. Ý nghĩa của thông tin phản hồi trong truyền thông.
4. Chứng minh truyền thông là một quá trình. Các giai đoạn của quá trình
truyền thông.
5. Trình bày cách xây dựng thông điệp trong truyền thông. Hãy lấy ví dụ để
chứng minh.
6. Phân biệt truyền thông và các phương tiện truyền thông đại chúng. Trình
bày các dạng truyền thông.
7. Phân tích đặc điểm của truyền thông đại chúng.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA BÁO CHÍ
Hình 2.1. Sơ đồ về vai trò của báo chí trong tạo lập dư luận và định hướng dư
luận
Báo chí không chỉ là vũ khí tư tưởng sắc bén, lợi hại mà còn là người tuyên
truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể; điều này rất phù hợp với thời đại
bùng nổ thông tin hiện nay.
Báo chí đóng vai trò quan trọng trong xã hội bởi lẽ:
– Là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận.
– Là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức, thông tin về tình hình thời sự trong
nước và quốc tế cho nhân dân.
— Là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội.
− Là một định chế với những quy tắc và chuẩn mực riêng của mình và có
những quan hệ mật thiết với các định chế khác trong xã hội.
– Trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu trong đời sống hằng ngày
của mọi cá nhân, là phương tiện cung cấp thông tin, kiến thức và giải trí cho người
dân.
Vai trò của báo chí trong đời sống xã hội được biểu hiện cụ thể trên nhiều lĩnh
vực như:
a) Về chính trị
Báo chí là công cụ, vũ khí quan trọng trên mặt trận tư tưởng – văn hoá. Vai
trò của báo chí trong lĩnh vực chính trị là hướng dẫn nhận thức và hành động cho
công chúng. Ở Việt Nam, báo chí cách mạng vừa là phương tiện tuyên truyền, phổ
biến chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước, vừa là công cụ để phát hiện, khẳng định, nhân rộng những cái hay, cái
đẹp, điển hình và những nhân tố mới, đồng thời phê phán cái xấu, cái tiêu cực, những
hành vi sai trái, lệch lạc trong xã hội. Báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận
tư tưởng – văn hoá của Đảng; là công cụ tham gia quản lý xã hội; công cụ giám sát
cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Do vậy, báo chí càng có vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội.
Lịch sử báo chí chỉ ra rằng, bất cứ chế độ nào trên thế giới cũng sử dụng và
khai thác triệt để các phương tiện truyền thông đại chúng (PTTTĐC) nhằm phục vụ,
củng cố và duy trì chế độ đó. Người ta cho rằng, một chính khách, một đảng phái
trong một tổ chức chính trị xã hội nào nếu nắm được trong tay các PTTTĐC thì có
thể tạo ra và hướng dẫn được dư luận, cuối cùng nắm được quần chúng và sử dụng
họ vào mục đích đã định.
Trong xã hội hiện đại, người nào nắm được các phương thức, PTTTĐC có thể
“điều khiển” con người theo ý muốn, có nghĩa là dùng báo chí để hằng ngày phát đi
những thông điệp chính trị nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng, thuyết phục quần chúng
làm theo ý muốn của mình. Những thông điệp này được lặp đi lặp lại nhiều lần dần
dần sẽ làm hình thành trong đầu người nhận thông điệp những ý thức mới, những tư
tưởng mới. Nói cách khác, để có ý thức giác ngộ chính trị trong quần chúng là nhờ
các PTTTĐC tác động đến họ qua những thông tin có chủ đích. Vì thế, ở xã hội tư
bản, nhiều trường hợp nhân dân bị nhầm lẫn trong cách lựa chọn ứng cử viên các
cuộc bầu cử là do chính những thông điệp từ các PTTTĐC. Các chính khách đã sử
dụng các PTTTĐC với sự giúp đỡ của các chuyên gia giỏi về tâm lý và kỹ thuật
truyền thông để đánh lừa dư luận, nhằm gạt bỏ nhau, giành phần thắng về mình. Lịch
sử một số nước phương Tây đã chứng minh điều đó.
Ở xã hội Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin sắc bén của Đảng, Nhà
nước và các tổ chức xã hội để giáo dục, thuyết phục nhân dân xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn vậy, báo chí phải bám sát chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, biến đường lối đó thành “ý Đảng, lòng dân”, phục vụ nhu
cầu, lợi ích của nhân dân và sự bộ xã hội. tiến
Thông qua các sản phẩm báo chí để truyền đạt, hướng dẫn quần chúng trong
nước và quốc tế nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh mọi chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ban hành. Đồng thời, báo chí tham gia
chống lại các luận điệu phản tuyên truyền, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Hoạt động của các PTTTĐC trong lĩnh vực chính trị rất phong phú, đa
dạng. Muốn vậy, người làm báo luôn phải nắm vững nghệ thuật hoạt động chính trị
– xã hội, coi trọng nâng cao “tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông
tin”, cũng như các phương pháp, nguyên tắc, chức năng của báo chí để hoạt động có
hiệu quả.
b) Trong lĩnh vực kinh tế
Trong quá trình phát triển, loài người đã trải qua nhiều nấc thang lịch sử. Cơ
sở để chuyển từ nấc thang này sang nấc thang khác của tiến bộ xã hội là sản xuất của
cải vật chất nhằm phục vụ đời sống con người.
Sản xuất của cải vật chất dù ở trình độ thô sơ hay hiện đại cũng đều có thuộc
tính chung: đó là quá trình tác động lẫn nhau giữa con người với tự nhiên, trong đó
con người biến đổi vật thể tự nhiên và làm cho chúng thích ứng với việc thoả mãn
nhu cầu tăng lên của con người.
Sản phẩm làm ra nhiều do sản xuất gia tăng, thậm chí còn dư thừa nhưng chưa
hẳn đã thoả mãn nhu cầu tiêu thụ đa dạng của xã hội. Từ đó tất yếu dẫn đến sự xuất
hiện nhu cầu trao đổi: bán đi những mặt hàng mà mình sản xuất được, đồng thời mua
những mặt hàng khác mà mình không có. Địa bàn trao đổi hàng hoá ngày càng được
mở rộng. Giới thương gia xuất hiện và nhu cầu thông tin thương mại phát triển cùng
với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế hàng hoá.
Vào cuối thế kỷ XV, ở thành phố Venice (Italia) xuất hiện những người làm
nghề kinh doanh tin tức. Họ phải chép tay những tin tức kinh tế thương mại (vì lúc
đó chưa có máy in) rồi bán cho những người có nhu cầu. Điều đó nói lên rằng, sự ra
đời của báo chí trước hết là do nhu cầu trao đổi thông tin kinh tế.
Ngày nay, ở những nước công nghiệp phát triển, với máy móc hiện đại, người
ta có thể làm ra bất cứ mặt hàng nào đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của xã hội. Trong bối
cảnh đó, điều kiện cần thiết cho một nền kinh tế đứng vững và tiếp tục phát triển
chính là do khả năng tiêu thụ sản phẩm làm ra của các công ty, xí nghiệp. Về vấn đề
này, các phóng sự đóng vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực quảng cáo các mặt hàng
đến người tiêu dùng.
Nhiều trường hợp, quảng cáo đã trở thành “công cụ cưỡng bức” người tiêu
dùng bằng thông tin. Việc đó không thể coi là tính ưu việt của phóng sự, nhưng
chúng vẫn còn mang tính phổ biến, nhất là các nước đang phát triển. Vì thế xảy ra
tình trạng người mua hàng không phải vì nhu cầu mà do bị ảnh hưởng của quảng cáo
gây nên. Có nghĩa là người mua hàng không còn được tự do lựa chọn món hàng mà
mình thích mà chọn theo ý muốn của nhà quảng cáo.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin chính xác, kịp thời là sức mạnh tạo nên
thắng lợi trong cạnh tranh. Các PTTTĐC có vai trò to lớn trong việc cung cấp những
thông tin có giá trị đó. Các lĩnh vực thông tin kinh tế cần là: thông tin thị trường
hàng hoá (bao gồm thông tin giá cả, sức tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến đổi thị
hiếu tiêu dùng), thông tin thị trường tài chính, thị trường lao động, vật tư, thiết bị,
đặc biệt là thị trường công nghệ,...
Báo chí không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần tuý mà còn có
thể hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ
mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và kinh doanh. Với
việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại trong quản lý, kinh doanh và
áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, báo chí góp phần tạo nên
hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội.
c) Trong lĩnh vực văn hoá – xã hội
Văn hoá là một lĩnh vực quan trọng, không thể thiếu được trong đời sống tinh
thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trên thế giới, dù ở hình thái kinh tế – xã hội
nào, mỗi dân tộc đều có nền văn hoá riêng trong quá trình hình thành và phát triển.
Vì lẽ đó, mỗi dân tộc đều có dấu ấn văn hoá riêng của mình. Nhiều bản sắc văn hoá
riêng của các dân tộc hợp thành, tạo nên sự đa dạng phong phú của văn hoá nhân
loại. Nếu nền văn hoá riêng bị triệt tiêu hoặc mất dần thì nền văn hoá chung của nhân
loại dần bị khô cứng, đơn điệu. Với vai trò và ý nghĩa quan trọng như vậy, văn hoá
đã trở thành đối tượng phản ánh và được quan tâm trong việc sản xuất các chương
trình, ấn phẩm của các PTTTĐC. Công chúng có thể tiếp nhận các tri thức văn hoá
từ nhiều nguồn khác nhau như sách vở, trường học, nhà hát, lễ hội,... Nhưng nguồn
trực tiếp, thường xuyên vẫn là các phương tiện truyền thông đại chúng. Thông qua
các chương trình phát thanh, truyền hình, qua các số báo, tạp chí, băng hình,... công
chúng có thể tiếp thu và làm giàu thêm vốn trị thức văn hoá cho mình.
Vai trò của báo chí trong lĩnh vực văn hoá thể hiện trên các mặt:
Thứ nhất, báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hoá dân tộc, nhất là ngôn
ngữ (tiếng nói, chữ viết); báo chí là nơi giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật
ngữ mới cả trong cách viết và cách thể hiện, trong việc chuẩn a ta ngôn ngữ nói và
viết.
Thứ hai, báo chí đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, âm nhạc
và các lĩnh vực khác, từ các tác phẩm kinh điển đến các tác phẩm vừa mới sáng tác.
Thứ ba, qua các PTTTĐC, công chúng có thể tiếp nhận nhiều tri thức văn hoá
của các dân tộc trên thế giới như quan niệm, truyền thống, lối sống, cách ăn mặc, ở,
đi lại, sinh hoạt từ nhiều phong cách, bản sắc khác nhau.
Thứ tư, báo chí góp phần nâng cao văn hoá, giúp con người giải trí, làm cho
mọi người ngày càng hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn, chia sẻ tâm tư, tình cảm,
đồng thời cùng học tập, tiếp thu nền văn hoá đa dạng, phong phú của các dân tộc
khác để làm giàu cho văn hoá dân tộc mình.
Do vậy, vấn đề bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hoá (vật thể, phi vật
thể) của dân tộc là một trong những nhiệm vụ chủ yếu và chiến lược của mỗi nước.
Vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn trong nền kinh tế thị trường, trong xu hướng
hội nhập toàn cầu, giao lưu văn hoá phát triển với đầy đủ những mặt tích cực và tiêu
cực của nó. Đó là lối sống thực dụng có nguy cơ lấn át các giá trị tinh thần, coi trọng
đồng tiền, coi nhẹ nhân phẩm, đạo đức, luân lý, thuần phong mỹ tục với sự du nhập
ồ ạt của văn hoá ngoại lai, kệch cỡm, coi nhẹ văn hoá truyền thống. Do vậy, báo chí
có nhiệm vụ và vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục và
giải trí đối với nhân dân; một mặt tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại; mặt
khác giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Thông
qua các sản phẩm của mình, các PTTTĐC có vai trò truyền bá những tiêu chuẩn và
các giá trị tinh thần được xã hội công nhận; xây dựng ý thức công dân, chống lại
những quan niệm và hành động lệch lạc với chuẩn mực, định hướng công chúng đến
với CHÂN – THIỆN – MỸ.
Trong giai đoạn mới, để thực hiện tốt vai trò của mình, các PTTTĐC ở nước
ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và các
tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại;
xây dựng nền đạo đức mới trên nền tảng đạo lý dân tộc; vun đắp, hoàn thiện hình
mẫu con người Việt Nam hiện đại, kế thừa nét đẹp truyền thống của cha ông, nâng
tầm trí tuệ, tri thức khoa học, công nghệ của mỗi công dân. Muốn vậy, báo chí và
người làm báo cần nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công
dân. Đồng thời, nhanh chóng đổi mới nghiệp vụ để thông tin không chỉ đúng mà còn
hay, sinh động, hấp dẫn cho công chúng.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đóng vai trò hết sức quan
trọng.
Trước hết là kỹ thuật in. Với việc phát minh ra máy in typo vào năm 1450,
Gutenberg – nhà phát minh người Đức, đã được coi là cha đẻ của ngành công nghiệp
in ấn. Nhưng trên thực tế, “kỹ thuật in ấn đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thế kỷ III
TCN”.
Ở Việt Nam, đến thế kỷ XV, nghề in mới phát triển do công của tiến sĩ Lương
Như Hộc (1420 – 1501), vốn học được kỹ thuật in sách sau nhiều lần đi sứ sang
Trung Quốc rồi về dạy lại cho người dân Liễu Tràng, huyện Gia Lộc – Hải Dương
(nay thuộc hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên). Kỹ thuật in lúc đó là khắc chữ lên tấm
gỗ, sau đó quét mực để in lên giấy. Liễu Tràng về sau trở thành nơi có những thợ in
rất khéo tay và gần như là nơi in sách vở duy nhất ở nước ta thời bấy giờ. Lương
Như Hộc được coi là ông tổ của nghề in ở nước ta.
Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật in ấn ra đời sau Trung Quốc nhưng những cải
tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho ngành này nhanh chóng
phát triển. Chính những bước tiến về khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện cho sự ra
đời của những tờ nhật báo có số lượng phát hành ngày càng lớn.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện và động lực
cần thiết cho việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của các PTTTĐC. Năm 1901, nhà
bác học Nga A. Popov đã phát minh ra ăng ten. Tiếp đó, phát thanh ra đời. Năm
1933, vô tuyến truyền hình điện tử xuất hiện nhờ công của Vladimir Kosma
Zworykin (1809–1889), người Mỹ gốc Nga, chế tạo ra ống ghi hình (Iconoscope),
tiền thân của các camera video hiện nay. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, những
phát minh về điện tử, tin học, laze, vệ tinh nhân tạo, Internet đã đem lại cho báo chí
những bước tiến mới trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin – giao tiếp ngày càng lớn
của xã hội.
2.3.3. Trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
Như chúng ta đã biết, sự phát triển kinh tế – văn hoá – xã hội của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc đều tự đặt ra nhu cầu, đòi hỏi về thông tin khác nhau và nhu cầu
này lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sự phát triển của nền kinh tế, văn hoá, xã hội
của mỗi nước.
Những nguyên nhân kinh tế – xã hội có ảnh hưởng quyết định đến sự xuất
hiện của báo chí. Thế kỷ XVI – XVII, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh, việc buôn
bán giữa các nước tăng lên, điều đó làm nảy sinh nhu cầu thông tin về thương mại
và những tin tức khác về tình hình trong mỗi nước và tin tức thế giới.
Những tờ báo đầu tiên trước hết dành cho các nhà buôn nhằm cung cấp tin tức
về thị trường buôn bán, giá cả, nguồn hàng, sự dao động về giá hàng hoá trong nước
và thế giới,... Các nhà xuất bản đã đáp ứng được những mỗi quan tâm của giai cấp
tư sản đang lên trong việc cung cấp thông tin kinh tế.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, nhu
cầu thông tin càng lớn. Công chúng báo chí không chỉ đòi hỏi thông tin về kinh tế
mà còn về các lĩnh vực chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, an ninh quốc
phòng, môi trường, đời sống,...
Các loại hình báo chí như phát thanh, truyền hình, Internet xuất hiện nhằm
đảm bảo tốc độ truyền phát, số lượng nội dung thông tin. Nếu kinh tế kém phát triển
sẽ khó có điều kiện mua sắm thiết bị để xây dựng các đài, phương tiện máy móc in
ấn; và công chúng báo chí bị thu hẹp do không có khả năng về kinh tế, tài chính để
tiêu thụ những sản phẩm do báo chí phát ra.
Bên cạnh trình độ của kinh tế, văn hoá, xã hội, các vấn đề như truyền thống
dân tộc, luân lý, đạo đức, luật pháp,... cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các khía cạnh
hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, đến cách sử dụng ngôn ngữ, các thể loại báo
chí, đến cách thức giao tiếp của các PTTTĐC với công chúng và các hình thức phát
hành báo chí trong xã hội cũng như ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành và phát
triển của báo chí.
2.3.4. Sự tác động của chế độ chính trị – xã hội
Đây là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết và chi phối lẫn nhau. Vì sự phát
triển thông tin báo chí đều phụ thuộc vào thái độ, quan điểm của chế độ chính trị xã
hội. Do vậy, các thế lực chính trị xã hội khi lên nắm quyền đều sử dụng báo chí như
một công cụ, vũ khí lợi hại để bảo vệ lợi ích của mình, coi báo chí như một phương
tiện hữu ích để quản lý xã hội. Sự khác nhau ở chỗ đó là lợi ích như thế nào và mục
đích quản lý xã hội theo định hướng nào. Nếu thể chế chính trị mang tư tưởng tiến
bộ, cách mạng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự tiến bộ chung của xã hội thì sẽ xây dựng
nền báo chí cách mạng tiến bộ; còn một khi thiết chế xã hội đó di ngược lại quyền
lợi của dân tộc, phản động, bảo thủ, trì trệ thì lại xây dựng cho mình một nền báo
chí chỉ nhằm bảo vệ cho lợi ích một số người, đi ngược lại trào lưu dân chủ và tiến
bộ xã hội. Lịch sử nhân loại từ xưa cho đến nay đã chứng minh điều đó rất rõ ràng.
Chế độ hà khắc của chính quyền Taliban ở Afghanistan đối với báo chí là một ví dụ.
Từ đó có thể nói rằng, xã hội nào thì có nền báo chí đó. Báo chí là tấm gương phản
ánh thể chế chính trị – xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Ở Việt Nam, tuy báo chí ra đời muộn nhưng được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, chúng ta đã xây dựng được một nền báo chí cách mạng tiên tiến. Với mục
đích và sự nghiệp cao quý vì con người, báo chí cách mạng Việt Nam đấu tranh cho
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hoà bình và tiến bộ trên thế giới.
2.4.2. Nhu cầu tiếp nhận, tâm lý tiếp nhận thông tin báo chí
Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô, nhu cầu theo nghĩa chung nhất là: “Sự
cần đến hay thiếu một cái gì đó cần thiết để duy trì hoạt động đời sống của cơ thể,
của cá nhân, của một tập đoàn xã hội, của toàn bộ xã hội”. Từ điển tiếng Việt định
nghĩa nhu cầu là: “Điều đòi hỏi của đời sống, tự nhiên và n và xã hội”.
Theo Từ điển Tâm lý của Nguyễn Khắc Viện giải thích nhu cầu là: “Điều cần
thiết để đảm bảo tồn tại và phát triển... Nhu cầu do trình độ phát triển của xã hội mà
biến đổi”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin phân biệt hai loại nhu cầu:
“Những nhu cầu tự nhiên và những nhu cầu do xã hội tạo ra”. C. Mác thường xuyên
nhấn mạnh “tính chất xã hội chung của tất cả các dạng nhu cầu cá nhân và xã hội”.
Đi liền với khái niệm nhu cầu, có một luận điểm quan trọng cần chú ý, đó là
việc đo lường nhu cầu được thực hiện gián tiếp bằng cách đo lường hành vi (hoạt
động) được hướng vào việc thoả mãn một nhu cầu tương ứng.
Nhu cầu của con người có ba loại cơ bản: nhu cầu vật chất, nhu cầu xúc cảm,
nhu cầu xã hội.
Từ những cơ sở trên đây, khái niệm Nhu cầu tiếp nhận được hiểu là thuộc loại
nhu cầu xã hội. Tâm lý và nhu cầu tiếp nhận của công chúng có ảnh hưởng, tác động
ngược trở lại đối với hoạt động báo chí, với tư cách báo chí là phương tiện thông tin
đại chúng trong mối quan hệ Nhà bảo – Tác phẩm – Công chúng.
2.4.3. Sự tiếp nhận thông tin của công chúng
Mỗi thông điệp truyền thông được phát trên kênh truyền đến người tiếp nhận
là một quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng sang thông tin hiện thực. Vì thế, hiệu
quả của hoạt động báo chí cần được xem xét từ quan điểm thông tin, thể hiện mối
quan hệ giữa thông tin tiềm năng và thông tin hiện thực. Công chúng tiếp nhận thông
tin thông qua việc tiếp xúc với tác phẩm thường trải qua hai bước:
Bước một là lựa chọn trong tác phẩm những gì thoả mãn nhu cầu của họ.
Bước hai là việc xử lý thông tin hiện thực, do thông tin hiện thực vừa được
tiếp nhận đã làm thay đổi nhận thức và tính cách của quần chúng. Thông tin mới đã
tác động, làm hình thành các khái niệm, quan điểm, mục đích,... bằng những cách
khác nhau như hệ thống hoá, phát triển, làm sâu sắc hơn, điều chỉnh lại hay làm phá
vỡ, làm giảm giá trị đi... Sự thay đổi này không do số lượng mà do chất lượng thông
tin được tiếp nhận. Mức độ chất lượng của thông tin không phụ thuộc vào khối lượng
tiếp nhận mà phụ thuộc vào ý nghĩa, giá trị và ảnh hưởng của nó đối với công chúng.
2.4.4. Các điều kiện để đạt giá trị thông tin thực tiễn
Muốn cho thông tin trong một tác phẩm báo chí có giá trị thực tiễn, ảnh hưởng
tích cực đến công chúng, cần đảm bảo những điều kiện sau:
Một là, tính độc đáo của thông tin. Sự biểu hiện của nó rất đơn giản, đó là cái
mới của thông tin. Cái mới là cái mà công chúng chưa biết. Sự so sánh với những
cái đã biết sẽ giúp cho công chúng nhận thức cái mới tốt hơn để giải quyết những
vấn đề trước mắt, trả lời những câu hỏi mới.
Hai là, tính đại chúng, dễ hiểu để công chúng nhận thức nội dung tác phẩm
tương ứng với ý đồ của tác giả. Tính đại chúng đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí phải
được công chúng nhận thức một cách đầy đủ. Nhà báo phải biết cách tiếp xúc với
công chúng của tác phẩm, phải hiểu được trình độ của công chúng truyền thông.
Ba là, tính hợp thời (đúng lúc). Những tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc,
đáp ứng được nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong điểm đó thì tác
phẩm có giá trị hơn.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích hiện tượng trước báo chí và sự ra đời của báo chí. Cho ví dụ chứng minh
sự phát triển của báo chí qua các thời kỳ lịch sử.
2. Phân tích vị trí, vai trò của báo chí trong đời sống xã hội. Lấy ví dụ để chứng
minh.
3. Phân tích vai trò của báo chí trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Cho ví dụ chứng minh.
4. Phân tích vai trò của báo chí trong việc tạo lập dư luận và định hướng dư luận xã
hội.
5. Phân tích các yếu tố và điều kiện để báo chí ra đời và phát triển. Cho ví dụ chứng
minh.
6. Công chúng báo chí là gì? Phân tích nhu cầu tiếp nhận, tâm lý tiếp nhận thông tin
báo chí của công chúng.
7. Phân tích các điều kiện để đạt giá trị thông tin thực tiễn trong hoạt động báo chí.
Chương 3
3.2. CÁC LOẠI HÌNH BÁO CHÍ (CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
THỐNG ĐẠI CHÚNG)
3.2.1. Báo in
Báo in (newspaper) gồm báo và tạp chí, là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải
nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội thông
qua các công cụ như máy in, mực in và giấy in.
Về loại hình, báo in có những đặc điểm riêng của nó. Một trong những đặc
điểm quan trọng của báo in là chuyển tải nội dung thông tin qua văn bản in, gồm chữ
in, hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ,... Toàn bộ nội dung thông tin của sản phẩm
báo in xuất hiện đồng thời trước mắt người đọc, vì vậy việc tiếp nhận thông tin của
công chúng đối với báo in chỉ qua thị giác.
Do phương thức thông tin đặc thù như vậy, báo in có những đặc điểm ưu việt
là: Người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin (bố trí thời điểm
đọc, lựa chọn trình tự đọc, tốc độ đọc, cách thức đọc,...); Sự tiếp nhận thông tin từ
báo in là quá trình chủ động, đòi hỏi người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động
khả năng làm việc tích cực của trí não; Nguồn thông tin từ báo in bảo đảm sự chính
xác và độ tin cậy cao, giúp người đọc có thể nhận thức sâu sắc những mối quan hệ
bên trong phức tạp và tế nhị của các vấn đề, sự kiện; Việc lưu giữ báo in đơn giản
và thuận lợi, do đó báo in trở thành nguồn tư liệu mà người đọc có thể giữ lâu dài.
Tuy nhiên, báo in cũng có những hạn chế nhất định, như: Do chỉ xuất hiện ở
một thời điểm cụ thể, nhất định nên độ nhanh nhạy, tính cập nhật, thời sự bị hạn chế
hơn các loại hình báo chí khác; Sự đơn điệu và khả năng giải mã tín hiệu thông tin
dễ làm suy giảm sự hứng thú của người đọc; Phạm vi tác động thường bị giới hạn
trong số những người biết chữ; Việc phát hành báo in được thực hiện theo phương
pháp trao tay, do đó thường chậm và phụ thuộc vào điều kiện giao thông, vào phương
tiện và con người,...
Căn cứ vào định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay báo in ở
nước ta có hai loại là báo và tạp chí. Báo gồm có: báo hằng ngày (là những tờ phát
hành mỗi ngày một kỳ vào buổi sáng hoặc buổi chiều); báo nhiều kỳ trong tuần (là
những tờ báo phát hành khoảng 5–6 kỳ/tuần); báo một số kỳ trong tuần (là những tờ
báo có số kỳ xuất bản từ 2–4 kỳ trong tuần); báo tuần (là những tờ báo xuất bản định
kỳ 1 kỳ tuần); báo nửa tháng (bán nguyệt san) hay hằng tháng (nguyệt san) chủ yếu
là những ấn phẩm phụ xuất bản giữa tháng hoặc cuối tháng của các tờ báo hằng ngày,
các tờ báo nhiều kỳ, một số kỳ trong tuần hoặc tuần báo.
Tạp chí là những ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay một
số vấn đề, lĩnh vực của đời sống xã hội, khoa học kỹ thuật,... Định kỳ xuất bản của
tạp chí có thể là 1 tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng. Cũng có tạp chí xuất bản 3, 4, 5
hoặc 6 tháng/kỳ. Hiện cả nước có gần 400 tạp chí các loại.
Tuy nhiên, web cũng tồn tại những hạn chế như:
+ Thứ nhất, web có chi phí đắt đỏ. Thậm chí với ai không phải bỏ tiền túi ra
trả, một tổ chức sẽ phải bỏ tiền mua máy tính và kết nối Internet.
+ Thứ hai, web cố định và bất tiện. Báo in, tạp chí và sách thì dùng tiện lợi
hơn nhiều so với web, bởi không thể mang theo máy tính vào những nơi bất tiện
được, dù có thể đó là máy tính xách tay và đường kết nối không dây.
+ Thứ ba, từ quan điểm của những người dùng, web có thể gây khó hiểu và
sự nản lòng vì độ chính xác và chứng thực của thông tin không được đảm bảo. Có
nhiều người cho rằng web xuất hiện gây ra sự lựa chọn khó khăn, việc tìm kiếm
thông tin một cách chính xác có thể bất trang web tổ chức thông tin và thiết kế không
tốt.
Trong những năm qua, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng viễn thông
Internet cao nhất trong khu vực ASEAN, với tốc độ bình quân là 32,5%. Hiện Việt
Nam đã có 6 nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP), khoảng 20 nhà cung cấp
dịch vụ Internet (ISP), hơn 50 nhà cung cấp thông tin (ICP) và báo điện tử trên
Internet, có khoảng 3.500 trang tin điện tử (website) đang hoạt động. Người sử dụng
có thể truy cập Internet qua mạng điện thoại cố định tại tất cả 63 tỉnh, thành phố
trong cả nước với hình thức dịch vụ rất đa dạng: Internet trả trước, Internet trả sau,
các dịch vụ truy cập Internet qua mạng điện thoại di động,... Hiện nay, cả nước đã
có hàng triệu thuê bao sử dụng Internet.
1. Anh (chị) hãy trình bày và giải thích khái niệm, thuật ngữ các loại hình báo
chí.
2. Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm của loại hình báo in. Quá trình
hình thành và phát triển của báo in.
3. Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm của loại hình bảo nói (phát
thanh). Sự ra đời và phát triển của báo phát thanh.
4. Phân tích đặc điểm của truyền hình (bảo hình). Trình bày sự ra đời và phát
triển của truyền hình thế giới và Việt Nam.
5. Phân tích đặc điểm của báo mạng điện tử. Ưu điểm và hạn chế của từng
loại hình.
6. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích hệ thống truyền thông đại chúng ở Việt
Nam
Chương 4
4.1.2. Báo chí là một loại hình hoạt động chính trị
– xã hội Hoạt động chính trị xã hội là một khái niệm có nội dung rộng lớn với
nhiều loại hình, phương thức khác nhau. Hoạt động báo chí là một trong những loại
hình của hoạt động chính trị xã hội.
Hạt nhân của đời sống xã hội là hoạt động chính trị. Nó giữ vai trò quan trọng
nhất trong các hệ thống xã hội. Hoạt động chính trị là việc hoạch định và tổ chức
thực hiện những nhiệm vụ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tư tưởng, an ninh –
quốc phòng,... dựa trên cơ sở các quyền lợi của giai cấp và - dân tộc. Hoạt động này
ảnh hưởng quan trọng hoặc chi phối các hệ thống xã hội khác, tác động mạnh mẽ
vào các mối quan hệ giữa chúng.
Báo chí là một hệ thống xã hội, có nghĩa là một loạt những yếu tố tồn tại trong
xã hội liên quan chặt chẽ với nhau theo quy luật, phương thức riêng và hoạt động
trong phạm vi xã hội rộng lớn. Các hệ thống xã hội ra đời, tồn tại và phát triển do
yêu cầu tất yếu của xã hội. Quy mô, tính chất, hình thức của chúng bị quy định bởi
những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội. Những điều kiện đó rất phong phú, đa
dạng, bao gồm từ trình độ sản xuất vật chất, sự phát triển khoa học kỹ thuật và công
nghệ, các đặc điểm về địa lý, tính chất tâm lý, truyền thống dân tộc, giao lưu quốc
tế,... Ngày nay, hệ thống báo chí của Việt Nam bao gồm các phương tiện thông tin
đại chúng như: xuất bản, báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Mỗi cơ quan báo chí đều là đại diện, người phát ngôn, phương tiện thông tin
của một số tổ chức, lực lượng nào đó, phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ nhằm
đạt được mục đích, quyền lợi của tổ chức, lực lượng đó. Tổ chức bộ máy của các cơ
quan báo chí phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra và đặc điểm loại hình phương
tiện thông tin đại chúng. Phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của các cơ quan báo chí
không đồng nhất. Mỗi cơ quan hoạt động trong những lĩnh vực cụ thể của đời sống
xã hội, có phạm vi tác động về không gian và địa lý riêng. Các cơ quan báo chí cụ
thể là các yếu tố hợp thành một hệ thống báo chí toàn xã hội. Quan hệ giữa các yếu
tố đó là quan hệ phân chia về chức năng, khu vực ảnh hưởng do tính chất, nội dung
thông tin. Đặc điểm chung có tính bản chất chi phối các khía cạnh khác của hoạt
động báo chí là sự tác động vào xã hội bằng thông tin và khả năng thuyết phục công
chúng bằng nội dung, tính chất của thông tin. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định,
báo chí là tiếng nói của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, là diễn đàn
của nhân dân.
1
Afanaxiep, Thông tin xã hội và định hướng xã hội, Moscow, 1975, tr. 33.
Hình 4.1. Sơ đồ mô phỏng khái niệm báo chi tiếp cận từ quan điểm hệ thống
Các thành tố và mối quan hệ trong khái niệm báo chí có thể được miêu tả như
sau:
- Quyền lực chính trị tối cao – quyền lực nhà nước: Đối với thể chế chính trị
ở Việt Nam (cũng như ở các nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo), quyền lực chính trị
tối cao thuộc về Đảng Cộng sản – Đảng lãnh đạo toàn diện, trực tiếp và triệt để đối
với toàn bộ đời sống xã hội nói chung, với báo chí nói riêng. Ở các nước khác, với
thể chế chính trị và cách thức tổ chức quyền lực chính trị khác nhau, mối quan hệ
giữa quyền lực chính trị và báo chí cũng theo nhiều mô thức khác nhau.
- Cơ quan chủ quản (cơ quan hay người sáng lập): Ở Việt Nam, theo Luật
Báo chí năm 1989, đó là tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,... có
quyền xin phép thành lập cơ quan báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng
điện tử).
– Nhà bảo - chủ thể trực tiếp hoạt động báo chí: Nhà báo được phân chia ra
nhiều chức danh cụ the , mỗi loại hình toà soạn báo chí (báo in, trong phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử). Điều đáng chú ý là, đối với báo chí truyền hình,
nghề nghiệp và chức danh các vị trí công việc của lao động rất đa dạng. Trong báo
chí hiện đại, các kỹ sư tin học có vai trò ngày càng quan trọng.
– Sản phẩm báo chí: Đó là sản phẩm tổng hợp hoàn chỉnh (số báo chương
trình phát thanh, chương trình truyền hình) để có thể phát hành (với báo in), phát
sóng (với phát thanh, truyền hình). Sản phẩm đơn lẻ chủ yếu do phóng viên, biên tập
viên chịu trách nhiệm trước tổng biên tập; tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp
luật và dư luận xã hội (và người đứng đầu cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí) về
sản phẩm tổng hợp – số báo, chương trình phát thanh, truyền hình,...
- Kênh chuyển tải: Trong trường hợp này là các loại hình báo chí: báo in, phát
thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Trong môi trường truyền thông số, các kênh
này có thể kết nối với các mạng xã hội, weblog, facebook,... và phương tiện cá nhân
để chiếm lĩnh công chúng xã hội và thị trường.
– Công chúng xã hội: Là quần thể dân cư nói chung hoặc nhóm đối tượng theo
những tiêu chí nhất định như: tuổi, giới tính, nghề nghiệp,.. đang chịu sự tác động
hoặc được sản phẩm báo chí hướng vào để tác động, gây ảnh hưởng.
- Tổ chức chính trị – xã hội: Nó giống như những mắt xích, đầu mối các tổ
chức trong hệ thống xã hội, như những điểm huyệt trong cơ thể con người mà nếu
báo chí tác động đúng và trúng thì năng lực và hiệu quả tác động sẽ nhân lên gấp
bội.
– Thực tiễn đời sống xã hội: Là tổng thể tất cả những gì đã và đang diễn ra
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội, môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Thực
tiễn đời sống xã hội ở mỗi quốc gia có những đặc thù riêng của mình do trình độ
phát triển, thể chế chính trị, thể chế kinh tế,... và nền văn hoá quy định. Báo chí của
quốc gia nào mang diện mạo và sắc thái của quốc gia ấy. Trong mô hình khái niệm
báo chí trên đây, thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn vận động và phát triển, có thể
ví như một chuyến xe lịch sử đang chuyển động.
Tuy nhiên, cần lưu ý là sơ đô này chỉ mới mô tả được một số trực tiếp, một
chiều, còn mối quan hệ gián tiếp, ngược chiều chưa được thể quan hệ hiện hết; mặt
khác, có thể bổ sung những thành tố và mối quan hệ khác tuỳ theo thực tiễn hoạt
động báo chí.
Khái niệm báo chí nhìn từ quan điểm hệ thống có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng; về đại thể có thể nêu ra một số ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, khái niệm này có thể mô tả, giải thích các hiện tượng báo chí trong
các xã hội có thể chế chính trị khác biệt nhau; nó có thể khắc phục được tình trạng
là cùng một hiện tại ... điểm chính ai đưa ra nhiều hôn " nhưng các trị khác nhau lại
đưa ra những định nghĩa hay quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Các thể
chế xã hội này có thể có sự khác biệt chủ yếu ở quyền lực chính trị tối cao, cách phân
chia quyền lực chính trị theo các mô hình tổ chức nhà nước.
Thứ hai, có thể tránh được việc định nghĩa báo chí khi chỉ nhìn vào những sản
phẩm cụ thể mà chưa nêu ra được các mối quan hệ ẩn kín bên trong, mà chính các
quan hệ này lại quy định tính chất và khuynh hướng by a thin chat va k hoạt động
của báo chí. Do vậy nó giúp nhà báo hiểu rõ hơn bản chất chính trị – xã hội của báo
chí, thấy rõ hơn các mối quan hệ bản chất bên trong của nó, nhận thức tự giác hơn
về nghề nghiệp báo chí và bản chất hoạt động nghề nghiệp. Tiếp cận từ quan điểm
hệ thống cũng giúp nhà báo nhận thức rõ vai trò của các yếu tố và các quan hệ trong
hoạt động thực tiễn; định vị được cá nhân trong hệ thống xã hội nói chung và trong
nền báo chí nói riêng, từ đó có ý thức và thái độ hành nghề thích hợp.
Thứ ba, khái niệm này xác định vị trí trung tâm của chủ thể hoạt động báo chí
— nhà báo, cũng như vai trò chi phối của quyền lực chính trị tối cao và cơ quan sáng
lập, sự đòi hỏi của công chúng xã hội đối với chủ thể ấy. Trong mô hình khái niệm
này, nhà báo có thể chịu nhiều áp lực trong quá trình thu thập, xử lý thông tin cũng
như sáng tạo tác phẩm, sản phẩm báo chí hướng tới thoả mãn nhu cầu của công
chúng và yêu cầu tuyên truyền, hướng dẫn, định hướng dư luận xã hội từ quyền lực
chính trị tối cao. Nói cách khác, nhà báo chịu áp lực từ “bên trên”, “bên dưới” và cả
chiều ngang trong tất cả các mối quan hệ trong quá trình sản xuất sản phẩm báo chí.
Nhìn chung, trên sân khấu chính trị, nhà báo nên định vị mình đứng ở đâu và từ đó
chọn góc nhìn, góc tiếp cận nào và xác định quan điểm, giọng điệu cho 10 va A tác
phẩm, sản phẩm của mình. Đây chính là một trong những biểu hiện chủ yếu của tinh
phức tạp của hoạt động báo chí.
Thứ tư, phân định cụ thể đối tượng tác động của báo chí, nhất là xác định hai
địa chỉ cụ thể bao gồm công chúng xã hội và nhất là tổ chức xã hội như những mắt
xích, điểm huyệt quan trọng mà nếu tác động đúng, trúng thì năng lực và hiệu quả
tác động của báo chí sẽ có thể được nhân lên gấp bội. Vấn đề này càng giúp chúng
ta nhận thức rõ hơn đối tượng tác động của báo chí không chỉ là công chúng báo chí
nói chung, mà còn là địa chỉ báo chí hướng tới như những mắt xích có ý nghĩa chính
trị, xã hội.
Thứ năm, khi nhìn nhận báo chí từ cách tiếp cận này, có thể định dạng cách
thức và mô hình hoạt động báo chí tuỳ thuộc cấu trúc hệ thống xã hội – vào cách
thức tổ chức quyền lực chính trị, vào trình độ phát triển của xã hội (như tính chất
chính trị, trình độ kinh tế, mức sống của dân cư, giao lưu thương mại, trình độ văn
hoá, mức độ dân chủ hoá đời sống chính trị,...).
Hồ Chí Minh và trục giao thông Thăng Long – Ba Vì, năm 2008.
4.3.4. Thông tin báo chí có tính định kỳ, đều đặn
Định kỳ có thể được hiểu là “từng khoảng thời gian nhất định, sau đó sự việc
lại xảy ra”. Trong báo chí, theo đó, cứ sau một khoảng thời gian, sản phẩm báo chí
được xuất bản, được truyền phát đi. Cứ như thế, định kỳ, đều đặn lặp đi lặp lại. Thực
chất, tính định kỳ của báo chí là sự giao ước với cộng đồng, là hợp đồng trách nhiệm
xã hội của cơ quan báo chí với công chúng xã hội trong việc cung cấp và tiếp nhận
thông tin. Sau khi có quy ước, nếu có sự thay đổi hoặc có sự cố, cơ quan báo chí
phải trân trọng cáo lỗi và thông báo trước cho công chúng.
Mỗi loại hình báo chí thể hiện tính định kỳ theo đặc trưng loại hình và điều
kiện cụ thể về năng lực thu thập, xử lý, sản xuất và chuyển tải sản phẩm báo chí của
mình.
Chẳng hạn, báo in xuất bản cách buổi (báo buổi sáng), cách ngày (nhật báo,
báo hằng ngày), cách vài ngày (báo thưa kỳ), cách tuần (báo tuần hay tuần báo), cách
nửa tháng (bán nguyệt san), cách tháng (báo tháng, nguyệt san). Trên thực tế, ấn
phẩm báo in xuất bản cách tuần ngày nay thường được tổ chức dưới dạng tạp chí,
hoặc là tạp chí tổng hợp (magazine), tạp chí hàn lâm – khoa học, hoặc là tạp chí
thông tin – giải trí, tạp chí thông tin – chỉ dẫn,...
Với báo phát thanh và truyền hình, định kỳ thường với khoảng thời gian ngắn
hơn, có thể tính bằng giờ. Ví dụ, với sự phát triển của kỹ thuật – công nghệ truyền
thông và tốc độ nhanh chóng, dồn dập của các sự kiện thông tin, cứ sau mỗi giờ lại
có chương trình thời sự giờ. Do đó, tính nhanh nhạy là ưu thế vượt trội của các loại
hình báo phát thanh, truyền hình.
Đối với báo mạng điện tử, tính định kỳ hầu như biến mất. Với sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin máy tính, báo mạng điện tử có thể xuất bản đơn lẻ – hội hoá
từng tác phẩm tin bài mà không phải chờ hoàn chỉnh kết cấu nhiều tin bài trong một
tệp mới xuất bản. Và bất cứ lúc nào, từng phút, từng giây cũng có thể post tin bài lên
báo mạng điện tử, không cần phải đợi một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên,
báo mạng điện tử vẫn có tính định kỳ tương đối của nó. Chẳng hạn, định kỳ tiếp
nhận thông tin theo múi giờ và chu kỳ hoạt động sống của công chúng, theo thói
quen giờ truy cập. Cán bộ công chức, viên chức hay truy cập mạng internet giờ nào;
sinh viên và các nhóm công chúng khác truy cập giờ nào. Hoặc trong lúc ở Việt Nam
2 giờ sáng thì ở New York là 2 giờ chiều, cho nên thông tin nào cần tác động vào
công chúng ở địa bàn này thì vẫn phải trực và post bài lên mạng.
Tính định kỳ tiềm ẩn sức mạnh của báo chí, bởi giao ước giữa cơ quan báo
chí với công chúng sẽ tạo ra phản xạ có điều kiện trong tâm lý và thói quen tiếp nhận
thông tin của công chúng.
Với báo chí hiện đại, được hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ truyền thông,
khoảng cách định kỳ ngày càng rút ngắn lại. Báo in thì có báo buổi sáng, báo buổi
chiều; các bản tin thời sự được xuất bản dày hơn. Chương trình thời sự của phát
thanh, truyền hình trước đây tính theo buổi, hoặc 3 giờ một thì ngày nay từng giờ
đều có chương trình thời sự.
Tác động chi phối của tính chất định kỳ của báo chí đối với hoạt động nghề
nghiệp của nhà báo và quy trình sản xuất các ấn phẩm báo chí được thể hiện như
sau:
- Trước hết, nó chi phối tư duy và phong cách làm báo của nhà báo. Cách tư
duy, tiếp cận của người làm nhật báo, chương trình thời sự khác với người làm báo
tuần hoặc chương trình chuyên đề, chuyên mục.
- Ngôn ngữ và cách trình bày thông điệp cũng khác nhau giữa nhật báo,
chương trình thời sự và chương trình chuyên đề so với báo tuần cũng như các ấn
phẩm chương trình chuyên đề.
- Tính định kỳ giúp công chúng và công dân cách ứng xử với thông tin báo
chí mỗi khi có nhu cầu tham gia, hoặc có xung đột cần giải quyết.
Ý nghĩa của tính định kỳ đối với hoạt động sáng tạo của nhà báo và giao tiếp
ứng xử với báo chí: Tạo ra phản xạ có điều kiện tiếp nhận thông tin cho công chúng;
Phản ánh sinh động và kịp thời nhịp điệu cuộc sống hiện đại; Hình thành phong cách
lao động tác nghiệp của đội ngũ nhà báo; Xây dựng kỷ luật lao động và nhịp điệu
làm việc của toà soạn báo chí; Là cơ sở hình thành kế hoạch và cách thức làm việc,
giao tiếp với công chúng xã hội.
4.3.5. Tính phong phú, đa dạng và nhiều chiều của thông tin báo chí
“Phong phú” có thể được hiểu là nhiều kiểu cách thông tin và lắm màu vẻ;
“đa dạng” là có nhiều dạng biểu hiện khác nhau.
Trong các loại hình truyền thông đại chúng, thông tin báo chí phong phú và
đa dạng nhất. Điều đó thể hiện trên các bình diện sau đây:
– Đối tượng phản ánh của báo chí là các sự kiện, vấn đề đã và đang diễn ra
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hoá, đời sống bình dân,...
trên bình diện chung cũng như đời sống riêng của mỗi con người, liên quan đến vấn
đề xã hội và được đông đảo công chúng quan tâm. Có thể nói rằng, không một sự
kiện, vấn đề hay tình hình nào xảy ra liên quan đến cộng đồng mà báo chí không
quan tâm.
- Đối tượng tác động của báo chí hết sức phong phú, đa dạng. Đó là công
chúng xã hội nói chung – quần thể cư dân không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp,
giai cấp, trình độ,...; hoặc là các nhóm đối tượng – công chúng chuyên biệt, đặc thù
theo nhóm tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, địa bàn và mức sống,... Chính nhu
cầu, sở thích và tâm lý tiếp nhận của công chúng quy định tính phong phú và đa dạng
của thông tin báo chí. Đồng thời, tính phong phú, đa dạng, nhiều chiều đòi hỏi sự
phù hợp với công chúng – nhóm đối tượng; và chính sự phù hợp này lại tạo cho báo
chí có nét riêng, tránh sự trùng lắp, nhàm mòn.
- Tâm lý và tâm trạng, sở thích, nhu cầu, thị hiếu của công chúng – nhóm đối
tượng, hết sức đa dạng. Cùng một vấn đề nhưng làm cho chương trình thời buổi sáng
thì cách trình bày, diễn đạt,... cũng khác với làm cho chương trình thời sự buổi tối.
Bài viết cho báo ngày khác với viết cho báo tuần, báo thưa kỳ,...
- Các kênh chuyển tải thông tin báo chí phong phú, từ báo in, phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử cho đến sự liên kết giữa các loại hình báo chí với các
mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác,...
– Phương tiện và phương thức thông tin nhiều dạng vẻ khác nhau.
Báo in với ký hiệu chữ viết và hình ảnh, màu sắc tác động vào mắt – thị giác,
con người. Báo in với những đặc trưng và thế mạnh riêng là trục chính của báo chí
truyền thông hiện đại. Báo in đòi hỏi khai thác triệt để năng lực lựa chọn sự kiện và
phân tích vấn đề, tác động vào tư duy logic; từ đó có thể thuyết phục công chúng xã
hội.
Báo phát thanh với ba chất liệu chính là lời nói, tiếng động và âm nhạc có thể
tạo dựng lên bức tranh cuộc sống hiện thực về những điều mắt thấy tai nghe sinh
động và hấp dẫn người nghe thông qua con đường thính giác, tạo khả năng liên
tưởng,... Trong đời sống xã hội hiện đại, phát thanh ngày càng tỏ rõ những lợi thế
trong việc chiếm lĩnh và thuyết phục công chúng, chứ không phải sẽ bị diệt vong
như nhiều người tiên đoán sau khi truyền hình xuất hiện.
Báo truyền hình với ký hiệu lời nói, hình ảnh động, tiếng động, âm nhạc, màu
sắc hết sức sống động trong việc thông tin sự kiện, tạo cho công chúng cảm giác như
đang giao tiếp trực tiếp với những người trong cuộc. Truyền hình vẫn đang có nhiều
lợi thế trong chiếm lĩnh công chúng – thị trường truyền thông, đặc biệt là trong môi
trường công nghệ số.
Báo mạng điện tử có thể mạnh trong sử dụng tổng hợp các loại ký hiệu và
phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thiết kế và chuyển tải thông điệp. Đó là
truyền thông đa phương tiện (multimedia). Truyền thông online – đa phương tiện,
trên nhiều bình diện, là xu thế và sức mạnh có một không hai, đang trở thành mạng
kết nối ưu việt nhất hiện nay.
- Phương thức thông tin của báo chí cũng rất phong phú, linh hoạt, từ đưa tin
sự kiện, giải thích và phân tích, bình luận, chuyên luận cho đến các dạng thức tiểu
phẩm, bút ký, tranh ảnh, biếm hoạ,... phù hợp với mục đích và nhiệm vụ thông tin,
với tâm lý, thị hiếu, sở thích,... của công chúng – nhóm đối tượng, phù hợp với tâm
lý và tâm trạng xã hội.
Thông tin nhiều chiều, nhiều góc độ tiếp cận của báo chí giúp cho công chúng
nhận thức sâu sắc hơn bản chất các sự kiện và vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Nhấn
mạnh khía cạnh thực tế này, ngay thời kỳ trước C. Mác, các nhà nghiên cứu đã đặt
vấn đề chức năng nhận thức của báo chí, do báo chí cung cấp sự kiện thực tế, nhiều
chiều làm cơ sở cho nhận thức đúng bản chất của các sự kiện và vấn đề thời sự của
thực tiễn đang vận động. Tuy - nhiên thông tin nhiều chiều của báo chí còn phụ thuộc
vào tư duy và văn hoá chính trị, môi trường văn hoá giao tiếp, mức độ dân chủ hoá
đời sống xã hội cũng như năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp của nhà báo:
Đối tượng tác động của báo chí là công chúng xã hội, đông đảo dân cư nói
chung. Sự kiện và vấn đề mà báo chí thông tin hướng vào phục vụ số đông và nhằm
giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ xã hội đang đặt ra hôm nay, hoặc là vấn đề liên quan
đến các nhóm đối tượng, cần cho số đông hiểu ngay, có thể thống nhất nhận thức
ứng xử và xử lý ngay. Cho nên, ngoài những vấn đề tranh luận, thảo luận để tìm
kiếm sự tương đồng, thông tin báo chí bảo đảm cho hàng triệu người cùng phải hiểu
ngay lập tức và hiểu như nhau. Hiểu như nhau mới có khả năng thống nhất nhận
thức nhanh và cùng hành động nhanh, cũng như thống nhất phương thức ứng xử với
vấn đề đang diễn ra.
Do đó, thông tin báo chí dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo là do yêu cầu đòi hỏi
từ cuộc sống, từ công chúng xã hội mà báo chí cần phải đáp ứng để thoả mãn nhu
cầu nhận thức và xử lý các vấn đề đang diễn ra liên quan đến cộng đồng, đến công
chúng – nhóm đối tượng. Sự kiện và vấn đề báo chí tiếp cận phải dưới góc độ phổ
quát nhất, liên quan đến nhiều người nhất. Cách nói, cách viết dễ hiểu, dễ nhớ nhất.
Chẳng hạn, trên sóng phát thanh, truyền hình và trong bài viết không nên trình bày
vấn đề một cách phức tạp, không dùng nhiều những con số lẻ, số liệt kê làm cho
công chúng khó nhớ và có thể làm cho bản tin thêm rối rắm,... Chỉ nên dùng các khái
niệm, thuật ngữ phổ biến, người dân hay dùng và dễ hiểu. Các khái niệm mới, khó
hiểu được dùng trong bài nên có sự giải thích ngắn gọn. Trong bản tin, nên dùng câu
đơn, câu thông báo và dùng ngôn ngữ sự kiện, tức là để sự kiện nói lên ý đồ thông
tin của nhà báo. Tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo trong mô hình thông tin – chỉ
dẫn trên truyền hình có ý nghĩa thiết dụng nhất.
Dễ hiểu, tức là báo chí đem đến cho công chúng những bài viết mà trình độ
chung của nhân dân có thể hiểu một cách dễ dàng và hiểu ngay. Thông tin báo chí
phải bảo đảm rằng người có trình độ cao tiếp nhận không thấy nhàm chán, nhưng
người có trình độ thấp cũng không thấy khó hiểu. Đó là yêu cầu và đặc điểm của
giao tiếp đại chúng trên truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng.
4.3.7. Tính tương tác Tương tác là tác động qua lại với nhau, quan hệ hai
chiều giữa các sự
vật, hiện tượng. Có tương tác vật lý, hoá học giữa các sự vật, hiện tượng v
cũng có tương tác xã hội. Tương tác xã hội là quá trình tác động qua lại giữa dung
và các cá nhân, nhóm xã hội với tư cách là chủ thể trong xã hội. Tương tác xã hội
(TTXH), theo Từ điển bách khoa, là “khái niệm xã hội học chỉ ra rằng mỗi hoạt động
có mục đích của con người chỉ trở thành hoạt động xã hội khi nó năm trong một số
mối quan hệ giữa các chủ thể hoạt động và thông qua các mối quan hệ đó. Đồng thời
khái niệm đó cũng nói lên rằng mỗi quan hệ đều gắn liền với một hoạt động nhất
định. Sự TTXH tồn tại trong sự tác động qua lại của mỗi hiện tượng, quá trình hay
hệ thống xã hội, nói lên những mối liên hệ và quan hệ trong hiện thực. Nhưng không
phải mọi thứ trong hiện thực xã hội đều có thể sử dụng khái niệm này để giải thích.
Sự TTXH chi tồn tại trong những điều kiện xã hội đặc thù, các điều kiện đó được
thực hiện do sự kết hợp của ba nhân tố có liên quan với nhau: hoạt động xã hội, chủ
thể xã hội và quan hệ xã hội”. Vấn đề, phạm vi, mức độ và tính chất TTXH phản
ánh mức độ dân chủ hoá đời sống xã hội.
Tương tác xã hội có những đặc thù riêng. Mỗi cá nhân hay nhóm, trong quá
trình tương tác, vừa là chủ thể vừa là khách thể và đều chịu ảnh hưởng, chi phối của
các chuẩn mực, giá trị xã hội, tâm lý xã hội và trường văn hoá với những tương đồng
và khác biệt. Trong tương tác, mỗi người, mỗi nhóm xã hội chịu những tác động
khác nhau như lợi ích, động cơ, trình độ hiểu biết, văn hoá, nhân cách,... Quá trình
tương tác vừa tạo nên diện mạo, chân dung của mỗi cá nhân, nhóm tham gia với
những tương đồng và khác biệt, hợp tác và chia sẻ. Tương tác xã hội có thể làm gia
tăng năng lực tư duy, sáng tạo của mỗi người và mỗi nhóm xã hội do “cọ xát” tư
duy, nhận thức trong quá trình tăng dần những tương đồng, giảm dần sự khác biệt.
Trong truyền thông, tương tác có nghĩa là sự tác động, giao tiếp hai chiều với
công chúng trong những điều kiện và vấn đề cụ thể nào đó. Một trong qua lại giữa
chủ thể với khách thể truyền thông, giữa nhà truyền thông những nguyên lý quan
trọng của truyền thông là tương tác càng nhiều tần I càng cao, tương tác càng bình
đẳng bao nhiêu thì năng lực và hiệu quả suất truyền thông càng cao bấy nhiêu.
Tương tác không phải là dòng thông tin phản hồi chậm chạp và rời rạc mà là
hầu như đồng thời diễn ra, trao đổi qua lại giữa chủ thể và khách thể; mặt khác, giữa
chủ thể và khách thể có sự chuyển đổi vị trí cho nhau. Tương tác càng không phải là
dòng thông tin một chiều áp đặt, mà là tương tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, trên
cơ sở tăng dần những tương đồng, giảm dần những khác biệt giữa chủ thể truyền
thông và công chúng xã hội, hoặc giữa các nhóm công chúng khác nhau. Tương tác
xã hội là phương thức cơ bản trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ kỹ năng
và kinh nghiệm, tìm kiếm, trao đổi và nâng cao năng lực sáng tạo giá trị mới cho
mỗi cá nhân, Cho moi ca in nhóm xã hội và cộng đồng nói chung. Do vậy, tương tác
xã hội trong thông tin báo chí có trở thành đặc điểm nổi trội hay không còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố.
Tương tác xã hội trong báo chí là đặc điểm thông tin của báo chí hiện đại nhờ
sự trợ giúp của công nghệ thông tin truyền thông số, cùng với sự phát triển của xã
hội trên các bình diện như trình độ dân cư, thiết chế dân chủ xã hội và trình độ, năng
lực của báo chí chuyên nghiệp.
Trong thông tin báo chí, tương tác bình đẳng nhưng cần phải có kỹ năng định
hướng thông tin, hướng dẫn dư luận xã hội. Cơ sở đánh giá hiệu quả tương tác thông
tin báo chí là tạo ra sự đồng thuận xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững, phòng
tránh những nguy cơ bất ổn trong cộng đồng. Do đó, để bảo đảm tính tương tác trong
thông tin báo chí về những vấn đề nêu ra, đòi hỏi người làm báo không những cần
có kiến thức, trình độ, am hiểu vấn đề, mà còn có phong cách làm báo chuyên nghiệp
– có nguyên tắc, kỹ năng tác nghiệp cùng với sự hiểu biết thấu đáo vấn đề, chia sẻ
với nhóm công chúng xã hội cũng như hướng dẫn dư luận xã hội.
Tuy nhiên, tương tác xã hội trong thông tin báo chí chủ yếu nói đến vai trò
báo chí như cầu nối, phương tiện và phương thức tương tác giữa công chúng xã hội
với giới công, với các nhà hoạch định chính sách, các nhà lãnh đạo, quản lý,... trên
những vấn đề lớn, ảnh hưởng đến quá trình phát triển và đời sống nhân dân.
Vấn đề nhận thức rõ tính tương tác xã hội trong báo chí có ý nghĩa to lớn, thiết
thực đối với người làm báo chuyên nghiệp và đối với sự phát triển nói chung.
4.4. TÍNH ĐA PHƯƠNG TIỆN
Multimedia theo tiếng Việt có nghĩa là đa phương tiện. “Đa phương tiện có
nghĩa rộng là tổ hợp của văn bản, hình, hoạt hình, âm thanh và video. Các loại hình
đa phương tiện có tương tác với nhau. Ba loại đa phương tiện tương tác thông dụng
là: Thể hiện tuần tự, theo các nhánh chương trình hoá, siêu đa phương tiện”1. Như
vậy “đa phương tiện là kỹ thuật mô phỏng đồng thời và sử dụng nhiều dạng phương
tiện chuyển hoá thông tin và các tác phẩm tạo từ kỹ thuật đó”2.
Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa truyền thông hay truyền thông đa
phương tiện (phương pháp giới thiệu thông tin bằng máy tính, sử dụng nhiều phương
tiện truyền tải thông tin (như) văn bản, đồ hoạ và âm thanh, hình ảnh,... cùng với khả
năng gây ấn tượng bằng tương tác). Multimedia cho phép kết hợp các loại hình
truyền thông trong việc chuyển tải thông điệp nhằm gây chú ý, hấp dẫn và gia tăng
khả năng thuyết phục công chúng. Thông điệp, sản phẩm multimedia có khả năng
tác động vào nhiều giác quan con người, không chỉ tăng độ hấp dẫn, mà quan trọng
là tính khách quan, chân thực, độ tin cậy của thông tin.
Multimedia là đặc trưng và là thế mạnh nổi trội của báo mạng điện tử — loại
hình báo chí hiện đại ra đời sau và thể hiện nhiều đặc tính ưu việt hiện đại nhất. Hiện
nay, loại hình báo chí này chủ yếu gắn với nhóm công chúng – đối tượng trẻ, nhóm
cư dân mạng. Đối với nhóm cư dân này, họ không chỉ tiếp nhận sản phẩm multimedia
mà còn sản xuất ra và xã hội hoá sản phẩm của mình trên mạng intemet thông qua
các mạng xã hội, dưới dạng các weblog, facebook và trang tin cá nhân. Ở Việt Nam,
chính hoạt động của cư dân mạng đã và đang tạo nên áp lực thúc đẩy báo chí phát
triển, nhanh chóng tiếp cận và quảng bá sản phẩm multimedia theo hướng hoặc là
tăng cường các sản phẩm multimedia trên các báo mạng điện tử, hoặc là liên kết với
mạng xã hội, weblog, hoặc là cả hai để làm cho sản phẩm thông tin báo chí phong
phú thêm và thu hút nhóm công chúng trẻ.
Tính tương tác và tính chất multimedia là hai đặc điểm nổi trội của báo chí
hiện đại, trong đó tiêu biểu và đặc trưng là báo mạng điện tử. Từ những
đặc trưng này, nhờ phát triển của công nghệ truyền thông số, trong truyền hình
và phát thanh đã xuất hiện khái niệm chương trình tương tác, chương trình thực tế,...
Và ngay trong báo in hiện đại, ngôn ngữ, tư duy và cách trình bày tác phẩm, trình
bày số báo cũng dần dần chịu ảnh hưởng và áp dụng tính tương tác xã hội của truyền
thông.
1
Theo TS. Đỗ Trung Tuấn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
2
Theo TS. Đỗ Trung Tuấn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
1. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích bản chất của hoạt động báo chí truyền
thông.
2. Phân tích đặc điểm, tính chất của thông tin báo chí. So sánh thông tin báo
chí với các loại thông tin khác.
3. Phân tích mối quan hệ: Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng. Thử đưa mô
hình về mối quan hệ này.
4. Phân tích báo chí – loại hình hoạt động thông tin chính trị – xã hội, hoạt
động kinh doanh – dịch vụ.
5. Phân tích đặc điểm cơ bản của thông tin báo chí.
6. Phân tích khái niệm báo chí từ quan điểm hệ thống.
Chương 5
Tổ chức là hình thức hoạt động có tính bản chất của báo chí. Đó là kết quả
tổng hợp của tuyên truyền, cổ động và là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả của
những hoạt động đó.
Tóm lại, các hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức của báo chí có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
1. Phân tích khái niệm chức năng và chức năng báo chí. Hệ thống các chức
năng báo chí.
2. Anh (chị) hãy chứng minh chức năng thông tin là chức năng có tính bản
chất của báo chí.
3. Phân tích chức năng tư tưởng của báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
4. Phân tích chức năng văn hoá, giáo dục và giải trí của báo chí. Cho ví dụ
chứng minh.
5. Phân tích chức năng giám sát, quản lý và phản biện xã hội của báo chí.
Cho ví dụ chứng minh
6. Phân tích chức năng kinh doanh – dịch vụ của báo chí. Vai trò của báo chí
trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cho ví dụ chứng minh.
Chương 6
Một trong những nguyên tắc hàng đầu mà Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở những
người viết sách báo là phải xác định thật rõ ràng vì ai mà viết, viết cho ai. Hay nói
cách khác, cần phải xác định cụ thể đối tượng phục vụ của mỗi cuốn sách, bài báo
khi viết. Trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc, bài Chống thói ba hoa được viết tháng
10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải
tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy thì cũng như cố ý không
muốn cho người ta xem”.
Làm báo là một nghề và cũng là một nghiệp. Mỗi nhà báo cần phải sớm ý thức
về công việc, phải sớm xác định khuynh hướng, “Viết cho ai”, “Viết để làm gì” như
Bác Hồ đã dạy. Khuynh hướng chính trị, đạo đức, xã hội, dân tộc, thẩm mỹ,... tất cả
phải hoà nhập, liên kết trong một cách nhìn, cách thẩm định của nhà báo, trong thái
độ và tâm huyết, trong phân tích, lý giải, phản ánh và đều được bộc lộ qua trang viết.
Điều đó có nghĩa là nhà báo - người cầm bút – cần xác định: Phải hướng về cái gì?
Đấu tranh cho một cái gì? Bảo vệ cho một cái gì? GS. Hà Minh Đức nhận xét:
Khuynh hướng có thể bộc lộ dưới nhiều hình thức. Khuynh hướng thể hiện thái độ
không trung lập, trung hoà trước một hiện tượng. Khuynh hướng biểu thị sự nhiệt
tình ủng hộ hoặc phản đối của tác giả với một quan điểm chính trị, một vấn đề xã
hội, một nhân vật hoặc một sự kiện,... Khuynh hướng đã thể hiện trong nhiều tác
phẩm ở thời kỳ cô đại, trung đại và cũng biểu hiện tập trung trong thời kỳ hiện đại,
khi cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt. Người cầm bút đã bộc lộ rõ rệt qua
trang viết ý thức trách nhiệm và tâm huyết của mình. Tất cả các bài báo của Bác Hồ
đều tập trung vào một chủ đề: chống thực dân đế quốc, chống địa chủ phong kiến,
tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một ví dụ tiêu biểu.
Trong suốt 40 năm làm báo, khi thì ở Trung Quốc, Miama, Angola, khi thì ở
Việt Nam, Lào,... nhà báo nổi tiếng Wilfred Burchett đều bộc lộ khuynh hướng chính
trị của mình là ủng hộ các phong trào giải phóng dẫn tộc, chống lại các cuộc chiến
tranh xâm lược của các thế lực thực dân, đế quốc và bành trướng.
GS. Hà Minh Đức nhận định: “Có nhiều nhà báo trong suốt cuộc đời chỉ đấu
tranh cho một thứ quyền nào đó vốn bị xã hội phong kiến ngăn cấm như quyền dân
chủ, nữ quyền, quyền tự do sáng tạo”. Có những nhà báo mới bước vào nghề còn
chưa rõ khuynh hướng nhưng qua quá trình hoạt động đã bộc lộ rõ chính kiến quan
điểm của mình bằng thái độ trung thực, đấu tranh cho công bằng, lẽ phải. Như vậy,
khuynh hướng là cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng một cách khách quan,
nó phải biến thành mục đích, dũng khí, phương tiện phản ánh của người cầm bút.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhà báo, với tư cách là chủ thể sáng tạo, phải chịu
trách nhiệm trước đảng, nhân dân và đồng nghiệp về bài viết của mình.
Khuynh hướng chính trị xã hội bộc lộ rõ ở một số nhà văn, nhà báo có tên tuổi
như: Nguyễn An Ninh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều, Vũ Trọng
Phụng, Sóng Hồng,... Khuynh hướng không chỉ bộc lộ ở cá nhân mà ở mỗi tờ báo,
mỗi cơ quan báo chí đều có một khuynh hướng chính trị nhất định.
Các báo có khuynh hướng chính trị khác nhau thì có thể có cách thể hiện khác
nhau, cách khai thác khác nhau, thậm chí đối với cùng một sự kiện, một vấn đề nào
đó. Ví dụ, trong cuộc chiến tranh Afghanistan, để ra sức tuyên truyền cho chiến dịch
chống khủng bố do Chính phủ Mỹ phát động, báo chí Mỹ liên tục đưa những thông
tin có lợi cho phía Mỹ và đồng minh về việc truy quét lực lượng Taliban và al-Qaeda
trong khi phớt lờ và không đưa tin về số thường dân Afghanistan bị thiệt mạng vì
bom đạn của Af họ. Gần đây nhất, trong khi phản ánh cuộc xung đột Trung Đông,
báo chí nhiều nước phương Tây thân Mỹ tích cực đưa tin về các lực lượng du kích
Hồi giáo tấn công Israel như một hành động khủng bố, và chỉ trích người đứng đầu
Nhà nước Palestine, ông Y. Arafat. Trong khi đó, báo chí tiến bộ của nhiều nước
trên thế giới đã lên tiếng phản đối cuộc xâm lược của Israel, phản đối chính sách
diều hậu của ông A. Sharon, đưa tin về thiệt hại của người dân Palestine, đặc biệt là
phụ nữ và trẻ em, đồng thời thể hiện rõ quan điểm ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa
vì độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Palestine.
Ở Việt Nam, thời kỳ 1930 – 1945, đã diễn ra những cuộc đấu tranh sôi nổi
giữa ý thức hệ phong kiến bảo thủ và quan điểm tư sản, giữa quan điểm tư sản và vô
sản. Có nhiều cuộc tranh luận về quan điểm triết học giữa duy vật và duy tâm (Phan
Khôi và Hải Triều), giữa quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh và quan điểm nghệ thuật
vị nghệ thuật (Hải Triều và Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh và Lê Tràng Kiều). Các tờ
báo tiêu biểu trong giai đoạn này như: Phong hoả, Ngày nay, Dân chúng, Tin tức,
Đông Dương, Thanh Nghị, ... đều có khuynh hướng riêng từ quan thẩm mỹ. điểm
chính trị đến điểm học thuật, thẩm mỹ.
Như vậy có nghĩa là, trong khi phản ánh các quyền lợi, tư tưởng và tình cảm
của giai cấp, của các nhóm xã hội khác nhau, báo chí, dù là tư nhân hay của nhà
nước, bao giờ cũng đứng về một giai cấp, một nhóm xã hội nhất định. Maxim Gorky
quan niệm: “Nhà văn là con mắt, là tiếng nói, là lỗ tai của giai cấp. Nhà văn có thể
không có ý thức, có thể phủ nhận điều đó, nhưng không bao giờ và không thể nào
thoát khỏi bộ máy cảm quan của một giai cấp”.
Do vậy, những quan niệm cho rằng, báo chí khách quan đứng ngoài chính trị,
không liên quan gì đến chính trị, đứng trên giai cấp và nhóm xã hội nếu không là sự
chối bỏ vô ý thức tính khuynh hướng của báo chí thì cũng là một thái độ mập mờ
nhằm che giấu việc dùng báo chí phục vụ cho lợi ích cá nhân vị kỉ và mờ ám.
Báo chí cách mạng công khai thừa nhận tính khuynh hướng trong hoạt động
của mình, tự giác tham gia cuộc đấu tranh xã hội nhằm giải phóng con người khỏi
áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh với mục tiêu tất cả vì con
người và cho con người. Hoạt động của báo chí cách mạng phù hợp với quy luật:
Trong xã hội có giai cấp, báo chí luôn thuộc về một giai cấp, một nhóm xã hội nào
đó, thể hiện tính khuynh hướng chính trị, lập trường tư tưởng, bảo vệ quyền lợi của
giai cấp, của nhóm xã hội đó.
Mỗi cơ quan báo chí, dù thuộc tổ chức nào, lực lượng nào, đều thể hiện một
khuynh hướng chính trị nhất định. Bất kỳ một nền báo chí nào cũng chứa đựng trong
đó ít nhất một khuynh hướng chính trị. Và nếu tồn tại đồng thời nhiều khuynh hướng
chính trị khác nhau thì sẽ có sự phân hoá thành dòng tư tưởng chủ lưu và dòng tư
tưởng phụ lưu, dòng tư tưởng chính thống và dòng tư tưởng không chính thống.
Thừa nhận tình trạng đó chính là thái độ khách quan, khoa học của lý luận báo chí
cách mạng. Lý luận báo chí cách mạng còn thể hiện bản chất cách mạng của mình
bằng cách khẳng định báo chí phải đứng hẳn về phía giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của họ, phản ánh ý chí và
nguyện vọng của họ là phải giải phóng triệt để, thực sự trở thành chủ thể sáng tạo
lịch sử.
Ph. Ăngghen yêu cầu khuynh hướng trong báo chí cách mạng phải vươn tới
tính Đảng, tới quan điểm công khai và để bảo vệ lợi ích của Đảng trước sự tiến công
của kẻ thù. Ông viết: “Phải tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và bảo vệ
những lợi ích của Đảng, bác bỏ và đánh bại các luận điệu huênh hoang của đảng đối
địch”.
Khi đề cập đến vấn đề liệu khuynh hướng có cản trở cảm hứng sáng tạo tác
phẩm hay không, GS. Hà Minh Đức viết: “Khuynh hướng trong báo chí là điểm xuất
phát để tạo nên động lực và cảm hứng người viết. Khuynh hướng góp phần tạo nên
sự nhiệt tình và dũng khí của ngòi bút. Nó tránh được xu hướng thực dụng, tầm
thường trong báo chí. Không có sự mâu thuẫn giữa tính khuynh hướng và sự hấp
dẫn trong báo chí”.
Ngược lại, nếu khuynh hướng đó được bộc lộ một cách sâu sắc dưới nhiều
hình thức sẽ tạo nên sự thu hút lạ thường. Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam và
thế giới đã chứng minh các cây bút báo chí có sức hấp dẫn chính là những nhà báo
có tâm huyết, kiên quyết đấu tranh cho một khuynh hướng chính trị nhất định với
vốn tri thức rộng lớn và tài năng sáng tạo độc đáo.
Như vậy, tính khuynh hướng là nguyên tắc phổ biến không the nhận của hoạt
động báo chí. Khuynh hướng có thể hình thành tự nhiên, tác động đến báo chí một
cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà báo. Khuynh hướng cũng có thể hình thành
một cách khách quan do nguồn gốc xã hội và tư tưởng của bản thân nền báo chí,
nhưng lại được phát triển và vận dụng một cách tự giác, có ý thức. Tính khuynh
hướng khi đã phát triển đến trình độ cao sẽ trở thành tính Đảng. phù
b) Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với báo chí
Trong chế độ ta, việc Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý đối với báo chỉ là
nguyên tắc. Sự lãnh đạo và quản lý đó là điều kiện để báo chí hoạt động có mục đích
và hiệu quả. Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước càng hoàn
thiện, có hiệu quả thì báo chí càng có điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển.
Vì thế việc khẳng định và không ngừng nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước vừa là yêu cầu khách quan, vừa là đòi hỏi của bản thân báo
chí.
Trước hết, Đảng lãnh đạo báo chí bằng định hướng chính trị, định hướng tư
tưởng, định hướng thông tin, bằng hệ thống quan điểm của báo chí, đồng thời kiểm
tra, uốn nắn việc thực hiện các định hướng đó thông qua các tổ chức Đảng và các
đảng viên của mình. Hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí phụ thuộc
vào việc vạch ra những định hướng và quan điểm đúng đắn, khoa học, vào trình độ,
năng lực, phẩm chất của các tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên.
Cùng với những bước phát triển của sự nghiệp Đổi mới và sự hoàn thiện dần
dần của đường lối chính trị, định hướng tư tưởng và quan điểm báo chí cũng được
đổi mới và phát triển không ngừng. Từ quan điểm “bảo chí là công cụ tư tưởng sắc
bén của Đảng” đến quan điểm “báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân” là một bước phát triển mới của lý luận báo
chí cách mạng. Quan điểm đó quy định phương thức thông tin đa dạng, nhiều chiều
nhưng có định hướng trong hoạt động báo chí. Hơn nữa, quan điểm này không đối
lập Đảng, Nhà nước với nhân dân; trái lại, nó phản ánh mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân, làm rõ quan điểm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
khác, nó lại đòi hỏi nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, hệ thống các quan
điểm pháp luật về quản lý của Nhà nước phải đổi mới và hoàn thiện không ngừng.
Khái niệm “lãnh đạo” ở đây không thể hiểu là kiểu lãnh đạo “cầm tay chỉ
việc”, bất chấp những đặc trưng quy luật về nghề nghiệp của báo chí, m phải là lãnh
đạo bằng định hướng đúng đắn, có cơ sở khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho báo
chí thực hiện tốt chức năng của mình nghĩa là lãnh đạo báo chí và Nhà nước quản lý
báo chí bằng pháp luật, đương nhiên đó là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, gần với
đời sống báo chí.
Để hoàn thành công việc nặng nề đó, Đảng cần phải được tổ chức vững mạnh,
có cơ cấu thật hợp lý, có đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, trí
tuệ trực tiếp làm báo cũng như năng lực, chỉ đạo và quản lý báo chí.
Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động bảo chí là
nguyên tắc phù hợp với tình hình, nhiệm vụ hiện nay để báo chí có thể phát huy được
sự chủ động, sáng tạo của mình. Đây chính là cơ sở để vươn tới sự tự do thực sự của
báo chí trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững lòng trung thực với nhân dân, với Đảng trong mỗi bài viết, trên mỗi
tấm ảnh đăng cũng là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, chân
thật của báo chí. Có như vậy, báo chí mới tạo được niềm tin và uy tín trong lòng
công chúng.
1. Nguyên tắc là gì? Nguyên tắc của hoạt động báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
2. Anh (chị) hãy chứng minh nguyên tắc là cơ sở phương pháp luận của hoạt
động báo chí.
3. Phân tích tính khuynh hướng của báo chí. Cho ví dụ chứng minh. 4. Tại sao
nói Đảng là biểu hiện đỉnh cao của tính khuynh hưởng? Phân tích những biểu hiện
tính Đảng trong hoạt động báo chí cách mạng Việt Nam.
5. Phân tích tính chân thực và khách quan của báo chí. Lấy ví dụ chứng minh.
6. Phân tích tính nhân dân và dân chủ của báo chí, tính công khai của thông
tin báo chí.
7. Phân tích tính nhân văn, nhân đạo và tính quốc tế trong hoạt động báo chí.
Chương 7
+ Chống lại đường lối, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước, chống phá
pháp luật;
+ Phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ;
+ Chia rẽ dân tộc, làm tổn hại tình hữu nghị với nhân dân các nước, tuyên
truyền cho chủ nghĩa đế quốc, cho chiến tranh;
+ Tiết lộ bí mật quốc gia;
+ Dâm ô, trụy lạc, đồi bại.
- Xác định những quy định cụ thể về điều kiện hoạt động của báo chí và thủ
tục cấp giấy phép, thể lệ, lưu chiểu.
- Quy định về hình thức kỷ luật, tuỳ theo lỗi nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch
thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, phạt tiền hoặc bị truy tố trước
pháp luật.
Đây là đạo luật đầu tiên về báo chí của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, là cơ sở pháp lý quan trọng để báo chí nước ta hoạt động trong điều kiện mới,
đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế trong lĩnh vực báo chí.
Sau đạo luật báo chí năm 1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 297/TTg ngày 9/7/1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo chuyên
nghiệp và Nghị định số 298/TTg ngày 9/7/1957 quy định chi tiết thi hành Luật về
chế độ báo chí năm 1957.
* Luật Báo chí 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí năm 1990
Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí mới. Ngày 2/1/1990, Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước ký Lệnh công bố Luật Bảo chí nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thay thế Luật về chế độ báo chí năm 1957.
Luật Báo chí năm 1990 vừa kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của Luật về
chế độ báo chí năm 1957, vừa bổ sung và hoàn thiện một bước luật pháp của Nhà
nước Việt Nam về báo chí.
Luật Báo chí năm 1990 cũng phản ánh những thay đổi to lớn trong đời sống
kinh tế – xã hội của Việt Nam trong sự nghiệp Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo. Luật Báo chí mới cũng tạo một hành lang pháp lý rộng rãi
để báo chí nước ta vừa phát huy nội lực mới, vừa hoà nhập với báo chí thế giới trong
bối cảnh và điều kiện mới.
Luật Báo chí năm 1990 gồm có 7 chương và 31 điều; so với Luật về chế độ
báo chí năm 1957, nó có những điểm mới cơ bản sau:
- Xác định rõ báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã
hội, không có báo chí tư nhân (Điều 1); thể hiện rõ và đầy đủ hơn quyền tự do dân
chủ của nhân dân qua báo chí (Điều 2); và vai trò, trách nhiệm của báo chí theo
đường lối của Đảng (Điều 3).
- Nêu rõ và đầy đủ hơn về quyền thông tin và được thông tin của công dân
(Điều 4); quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin (Điều 7); quyền và nghĩa vụ trả lời
và cải chính (Điều 5, 8, 9).
− Quy định đầy đủ và chi tiết hơn về quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan
báo chí và nhà báo; của cơ quan chủ quản báo chí (Điều 12); của Nhà nước đối với
báo chí (Điều 17).
- Quy định trách nhiệm của các cơ sở in và tổ chức phát hành (Điều 12 và
Điều 21).
- Quy định về quảng cáo trên báo chí (Điều 25).
− Quy định về khen thưởng và kỷ luật (Điều 27).
Tiếp tục hoàn chỉnh và thực hiện Luật Báo chí, ngày 20/4/1992, Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 133/HĐBT quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí về các mặt. Nghị định cũng phản ánh những yêu cầu mới đặt ra
cho công tác quản lý của Nhà nước từ sau khi ban hành Luật Báo chí năm 1990 và
cụ thể hoá những quan điểm trong các Chỉ thị mới của Ban Bí thư và Chính phủ về
báo chí (Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
báo chí – xuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về công tác tăng cường quản lý báo chí
– xuất bản; Chỉ thị 08-CT/TW của Ban Bí thư (Khoá VII) ngày 31/3/1992; Chỉ thị
số 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khoá VIII) ngày 17/10/1997 về Tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí − xuất bản,...)
Bộ Văn hoá – Thông tin cũng ra Thông tư số 131/TT–VP ngày 20/11/1990
hướng dẫn thi hành Nghị định 133/HĐBT và có điều chỉnh, bổ sung một số tiêu
chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí.
Từ năm 1990 đến năm 1998, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thông tin
và các bộ, ban ngành khác đã ban hành trên 43 văn bản có tính pháp lý về hoạt động
báo chí nước ta trong Thời kỳ Đối mới và tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Trong hơn 9 năm thực hiện, Luật Báo chí năm 1990 đã phát huy tác tri, dụng
tích cực, tạo điều kiện cho báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ và loại hình, về số
lượng và chất lượng thông tin, góp phần ổn định chính phát triển kinh tế xã hội, phục
vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm tính hiệu lực trong
quản lý, điều hành các hoạt động báo chí của Nhà nước. Luật Báo chí năm 1990
cũng tạo được hành lang pháp lý cho các hoạt động báo chí nước ta trong xu thế hợp
tác, hoà nhập với báo chí khu vực và thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, báo chí Việt Nam thời gian qua cũng còn
nhiều hạn chế trong hoạt động nghiệp vụ và thực hiện Luật Báo chí. Đó là sự lạm
quyền và cửa quyền của một số nhà báo và cơ quan báo chí; là việc vượt quá xa mục
đích, tôn chỉ và đối tượng phục vụ. Hơn nữa, việc khai thác, cung cấp, xử lý thông
tin và trường hợp đưa thông tin sai, không chính xác, không khách quan, vô tư về tổ
chức, cá nhân cụ thể dẫn đến thông tin đưa lên báo chí sai sự thật, xúc phạm đến
danh dự, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân nhưng việc cải chính của cơ quan báo
chí không nghiêm khiến dư luận xã hội bất bình. Các vấn đề như mở rộng quan hệ
quốc tế trong hoạt động báo chí, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, áp dụng những
thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật để nâng cao chất lượng của báo chí cũng như
tạo thêm nguồn tài chính cho báo chí cần phải hoạt động tốt hơn. Các vấn đề mới
như: thuế báo chí, kinh doanh báo chí, kinh tế báo chí đang là những vấn đề cần quan
tâm giải quyết. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí vì vậy đã trở
thành yêu cầu bức thiết để báo chí Việt Nam có được môi trường phát triển đúng
hướng với chất lượng cao hơn, nhân dân tin cậy hơn, đủ sức đảm nhận vai trò của
mình trước những thời cơ và thách thức mới của các phương tiện thông tin trong và
ngoài nước.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Quốc hội khoá X đã xem xét và thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1990. Tiếp đó, Chủ tịch
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh số 05-L/CTN ngày 26/6/1999
về việc công bố Luật sửa đổi, bổ điều của Luật Báo chí năm 1990 và Luật này chính
thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/1999.
Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí lần này là
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí phát triển đúng hướng, đúng pháp luật, đảm
bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; tăng cường công
tác quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí; đề cao trách nhiệm xã hội và
nghĩa vụ của cơ quan báo chí, nhà báo trong việc phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Xuất phát từ mục đích nói trên, luật sửa đổi giữ nguyên cơ cấu các chương,
điều của Luật Báo chí năm 1990, chỉ sửa đổi Lời nói đầu và 11 điều trong các
chương, bổ sung 4 điều mới. Riêng Điều 30 trong Chương VII được chuyển lên
Chương V làm thành Điều 17b “Quan hệ quốc tế về hoạt động báo chí”.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung mới là: Lời nói đầu, các loại hình báo chỉ
(Điều 1), cơ quan chủ quản báo chí (Điều 12), quyền hạn và nhiệm vụ của nhà báo
(Điều 15), cải chính trên báo chí (Điều 9), nội dung quản lý Nhà nước về báo chí,
tài chính của cơ quan báo chí (Điều 19), xử lý vi phạm (Điều 28).
Như vậy, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, báo chí Việt Nam đã
hoạt động trong khuôn khổ Luật về chế độ báo chí năm 1957, Luật Báo chí năm
1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1990. Mỗi đạo luật
đều được ra đời trong những điều kiện cụ thể của đất nước và thế giới, thể hiện sự
bổ sung, kế thừa và phát triển lên một bước mới, phù hợp hơn với từng giai đoạn
mới của lịch sử và hoàn hiện hơn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới của dân tộc và thời
đại.
* Cơ sở pháp lý của hoạt động báo chí của phóng viên nước ngoài tại Việt
Nam và phóng viên Việt Nam tại nước ngoài
Một bộ phận quan trọng trong hệ thống văn bản pháp luật về báo chí của Việt
Nam là những quy định báo chí có tính liên hệ giữa nhân dân ta với các cá nhân và
cơ quan nước ngoài và các Sắc lệnh, Chỉ thị, Thông tư về việc giữ gìn bí mật Nhà
nước. “Cơi tổ chức, cổng dân Việt Nam tiếp xúc với tổ chức hoặc người nước ngoài
phải tuân thủ các quy định của Pháp lệnh về bảo vệ bí mật Nhà nước” (Trích: “Pháp
lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước” ngày 28/10/1991).
Luật Báo chí năm 1990 giao Chính phủ ban hành “Quy chế hoạt động. của
báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài” (Điều 30). Tại Điều 17b, Chương V
của Luật sửa đổi, bổ sung, ghi rõ thêm “Nhà nước mở rộng quan hệ quốc tế trong
hoạt động báo chí theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng
và các bên cùng có lợi. Chính phủ quy định cụ thể về quan hệ quốc tế trong hoạt
động báo chí”. Ngày 03/12/1991, Bộ Văn hoá – Thông tin đã ra quy định tạm thời
một số điểm về hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài, trong đó
nêu rõ: “Nhà báo Việt Nam quan hệ với cơ quan báo chí nước ngoài viết tin, bài phải
được tổng biên tập đồng ý, các hoạt động này phải do Tổng biên tập và cơ quan chủ
quản đề nghị và phải được phép của Bộ Văn hoá – Thông tin cùng các cơ quan hữu
quan”.
Đối với các nhà báo nước ngoài công tác tại Việt Nam, phải được phép của
Nhà nước Việt Nam (do Bộ Công an và Bộ Ngoại giao quản lý). Họ được cấp giấy
phép đi lại và được sử dụng những phương tiện, máy móc cần thiết cho hoạt động
nghiệp vụ, được dự các cuộc họp báo, tiến hành các cuộc tiếp xúc, trao đổi,... Trong
trường hợp bị phát hiện làm gián điệp, tình bảo, thông qua hoạt động báo chí làm
tổn hại đến lợi ích và an ninh quốc gia của Việt Nam sẽ bị truy tố trước pháp luật
hoặc trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam. Tính đến năm 2002, đã có hơn 38 cơ quan
thường trú của các hãng thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình của nhiều nước
trên thế giới đóng tại Hà Nội để hoạt động báo chí.
Các nhà báo Việt Nam công tác ở nước ngoài cũng phải tuân thủ luật pháp
của nước sở tại, phải nắm vững và thực hiện luật quốc tế, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với các nước. Ngoài ra còn phải hiểu rõ
và tôn trọng phong tục tập quán, lịch sử, văn hoá của nước đó để vừa hoàn thành
nhiệm vụ nghề nghiệp, vừa góp phần củng cố và phát triển tình hữu nghị và hợp tác
giữa các dân tộc trên thế giới.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa
phương hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam, những năm gần đây, báo chí nước ta
đã có những bước phát triển mới về hợp tác quốc tế. Nhiều cơ quan báo chí đã lập
văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú đến hoạt động báo chí tại nhiều nước
trên thế giới.
Như vậy, phóng viên Việt Nam hoạt động ở nước ngoài hay phóng viên nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam đều phải theo sự thoả thuận của hai Nhà nước, phải
tuân thủ pháp luật, tôn trọng phong tục, tập quán của từng dân tộc, phục vụ cho lợi
ích của từng quốc gia và sự tiến bộ chung của nhân loại.
Một trong những tài liệu đầu tiên là Công ước Điện tín Quốc tế 1865. Công
ước xác định quyền các quốc gia được đưa tin chuyển bằng điện tín và cấm chuyển
tin qua điện báo khi những tin tức này gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc
gia, chống lại luật pháp và tín ngưỡng của các quốc gia đó.
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 cũng ghi rõ: “Mỗi
người đều có quyền tự do ngôn luận và quyền tìm, nhận và truyền đạt thông tin”.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật điện tử, hàng loạt các hiệp định được ký
kết, tiêu biểu như “Công ước quốc tế về việc sử dụng hệ thống phát thanh, truyền
hình vì mục đích hoà bình” (1938), trong đó có một phần ghi rõ cấm các chương
trình phát thanh “kích động các hành vi bạo loạn của công dân trên bất cứ vùng lãnh
thổ nào”.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai (1945), ngoài những đài và trạm thu – phát
sóng công suất lớn trong nội địa các quốc gia, đã xuất hiện thêm một hình thức truyền
thông tin mới – trạm truyền tin quốc tế đặt ở biên giới các nước (một số thế lực phản
động đã lợi dụng cơ hội này để lập đài chống phá các nước đang phát triển hoặc theo
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa như trong thời gian Chiến tranh Lạnh và chiến tranh
tâm lý. Mỹ và phương Tây lập đài “Tự do”, “Châu Âu tự do”, “Làn sóng Đức”,... để
chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu năm 1991. Hoặc Mỹ
lập đài phát thanh José Martí chống Cuba, lập 60 đài phát thanh tiếng Việt, trong đó
có 34 dài chống Việt Nam).
Tuyên bố Liên Hợp Quốc năm 1970 cấm dùng vũ lực và đe doạ bằng vũ trang
đối với quyền tự quyết của các dân tộc; giải quyết mâu thuẫn bằng giải pháp hoà
bình, đối thoại, tôn trọng chủ quyền, không xâm phạm vào công việc nội bộ của
nhau; bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền con người; cấm tuyên truyền cho chiến
tranh; tiến tới xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các dân tộc, thiết lập một trật tự
thông tin mới. Nhờ đó hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng càng mở
rộng, hoạt động của các nhà báo đi vào quỹ đạo pháp luật quốc tế là không tuyên
truyền những tư tưởng phản động và chỉ được phép sử dụng những phương tiện cho
phép trên cơ sở nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Cùng với Hiệp ước quốc tế về việc
sử dụng khoảng không vũ trụ (1967), Liên Xô đưa ra sáng kiến dùng vệ tinh nhân
tạo để truyền tin, theo đó các đài truyền tin mặt đất trực tiếp nhận thông tin qua vệ
tinh truyền thông làm tăng khả năng trao đổi, giao lưu văn hoá giữa các nước. Vệ
tinh truyền thông được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực: thông tin, truyền ảnh,
truyền số liệu, điện thoại, phát thanh, truyền hình,... đáp ứng nhu cầu thông tin ngày
càng tăng của con người.
Năm 1976, UNESCO thông qua “Tuyên bố về quyền hạn cơ bản sử dụng
những PTTTĐC nhằm phục vụ mục đích hoà bình và an ninh quốc tế, chống chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phục thù chiến tranh”.
Năm 1982, Liên Hợp Quốc thông qua dự thảo “Nguyên tắc sử dụng vệ tinh
nhân tạo cho việc tuyên truyền thông tin trực tiếp”. Phục vụ cho mục đích đó có các
tổ chức lớn như: Tổ chức Điện báo Quốc tế (MSO), Tổ chức Phát thanh và Truyền
hình Quốc tế (OIRT), Vệ tinh nhân tạo và truyền hình VIDEOTEX qua vệ tinh; các
tổ chức truyền hình khác như: INTERSPUTNIC (gồm 13 nước châu Âu, châu Á và
Trung Cận Đông). Tổ chức này có 4 vệ tinh đặt trên quỹ đạo địa tĩnh: STATIONAR
4, STATIONAR 5, STATIONAR 13, STATIONAR 14. Ngoài ra, còn có hệ thống
thu và phát lại đầu tiên của Liên Xô qua vệ tinh hoạt động phục vụ các vùng Tây
Seberia, Uran, Trung Á và Nam Á. Tổ chức INTELSAT thành lập năm 1964 (Liên
hiệp Vệ tinh viễn thông quốc tế), hiện nay có trên 100 nước tham gia, có hơn 10 vệ
tinh trên quỹ đạo, nối liền 214 trạm mặt đất được phân bố ở trên 146 nước trên thế
giới.
Ngoài ra còn có hệ thống các vệ tinh khác của ASIASAT, CHINASAT,
INSAT,... cũng được phóng lên trong những năm gần đây, phục vụ cho các lĩnh vực
thông tin, điện báo, điện thoại, phát thanh, truyền hình,... của nhiều nước và khu vực.
Nói chung, các quốc gia đều sử dụng các quyền chủ quyền của mình để đảm
bảo an ninh đất nước và an ninh thông tin. Luật pháp của các nước cho phép nhập
các loại ấn phẩm báo chí, phim ảnh, băng ghi âm, ghi hình và các dữ liệu thông tin
khác, miễn là không chống lại lợi ích của các quốc gia đó; đồng thời xuất đi hoặc
trao đổi hai chiều những thông tin mà các nước thoả thuận, cam kết với nhau.
Như vậy, hoạt động báo chí luôn gắn liền với những quy định của pháp luật.
Hiểu biết và nắm chắc luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà báo hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao.
c) Vị trí, vai trò của đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
Mặc dù ra đời muộn hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác, song báo chí
đã nhanh chóng vượt lên trong việc phản ánh sinh động, đa dạng hiện thực cuộc
sống. Thông tin báo chí có tính xã hội rất cao, đáp ứng đa dạng sự quan tâm, sở
thích, nhu cầu của công chúng và tác động cùng lúc tới nhiều tầng lớp nhân dân. Vì
vậy, sức ảnh hưởng của nó tới toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội,
kinh tế, văn hoá, giáo dục, phong tục tập quán,... là rất lớn. Thêm nữa, nhờ khả năng
tác động nhanh chóng và mạnh mẽ vào ý thức xã hội và đôi khi biến ý thức đó thành
hành động cụ thể, báo chí giống như một thứ quyền lực có tác động mạnh mẽ đến
suy nghĩ và hành động của con người trong xã hội.
Ngày nay, vị trí và vai trò của báo chí trong đời sống xã hội ngày càng được
nâng lên. Báo chí trở thành một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của con người. Ở một khía cạnh nào đó, nó tham gia vào tiến trình lịch sử
của thời đại.
Xét một cách tổng thể, xã hội càng phát triển thì vai trò xã hội của báo chí
càng phát triển và thể hiện càng phong phú, đa dạng. Bởi suy cho cùng, báo chí là
yếu tố kích thích, thúc đây xã hội phát triển, và đến lượt nó, xã hội lại đặt ra cho báo
chí những yêu cầu, nhiệm vụ tương ứng với thời kỳ mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao tầm quan trọng của báo chí. Người luôn coi báo chí là một vũ
khí sắc bén, một bộ phận không thể thiếu của công tác cách mạng, có sức “ảnh hưởng
trong dân chúng rất mạnh” và có “một địa vị quan trọng trong dư luận”. Người nói:
“Tờ báo chỉ là giấy trắng mực đen mà thôi. Nhưng với giấy trắng mực đen ấy, người
ta có thể viết những bức tối hậu thư, người ta có thể viết những bức thư yêu đương”.
Đối với Người, báo chí là phương tiện vận động, tập hợp lực lượng cách mang và tổ
chức thực hiện mục tiêu cách mạng một cách hiệu quả nhất.
Chính vì báo chí có vị trí và vai trò to lớn, cùng lúc có thể tác động đến nhiều
người, nhiều tầng lớp trong xã hội, nhiều lĩnh vực của cuộc sống nên những người
làm nghề này trong mỗi tác phẩm và sản phẩm của mình phải nhận thức sâu sắc từng
việc làm, cân nhắc kỹ lưỡng và xem xét cẩn trọng những hậu quả có thể xảy ra đối
với xã hội. Chỉ cần một chút thiếu thận trọng của nhà báo, xã hội phải bỏ ra gấp trăm
ngàn lần công sức để khắc phục hậu quả. Cùng đưa tin về một sự việc, nhưng nhà
báo có đạo đức nghề nghiệp sẽ đặt lợi ích của số đông, của công chúng, nhân dân
lên trên, còn nhà báo thiếu đạo đức nghề nghiệp đầu tiên sẽ nghĩ đến lợi ích của bản
thân mình hoặc cơ quan báo chí của mình mà bất chấp hậu quả xảy ra với xã hội. Ví
dụ như những thông tin về giá lương thực, về bưởi gây ung thư, về sầu riêng có hoá
chất Carbendazin,..
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo phải luôn tự giác nhận thức đầy đủ tính
chất và vai trò của các hành vi sáng tạo mà mình thực hiện, phải học tập và tu dưỡng
đạo đức. Còn theo nhà báo Hữu Thọ thì “nghề nào cũng cần có đạo đức nhưng nghề
báo là nghề có quan hệ tới nhiều người, nhiều tầng lớp, đóng vai trò quan trọng
trong tạo dựng và định hướng dư luận xã hội nên đạo đức nghề báo cần được coi
trọng và chú ý rất nhiều”.
“Sở đĩ đạo đức nghề bảo được nhiều người quan tâm, dễ dàng Ian toà trong
dư luận xã hội, vì đây là nghệ mang tính xã hội cao, có sức ảnh hưởng lớn nên những
vấn đề thuộc bảo chi đều được dư luận xã hội quan t Thêm nữa, sức ảnh hưởng của
nghề báo đối với xã hội rất lớn nên hậu quả của việc nhà báo thiếu đạo đức cũng
không nhỏ”.
Xét một cách toàn diện, ngành nghề nào cũng cần có đạo đức. Nhưng với một
nhà bảo – những người luôn được coi là đại diện cho tiếng nói của nhân dân, thì
đạo đức nghề nghiệp lại càng cần phải được đề cao. Lương tâm nghề nghiệp, trách
nhiệm với sự thật là điều đầu tiên phải nghĩ đến khi đứng trước muôn ngàn sự kiện,
con chữ. Điều khiến xã hội sợ hãi là một nhà báo tài năng nhưng lạnh lùng và vô
cảm. Biết rung cảm trước những đớn đau của xã hội, đồng cảm với tiếng nói của
những người dân nghèo khổ thì nhà báo sẽ nghiêm khắc hơn trước những sai lầm
của mình và của đồng nghiệp. Với nhà báo, danh tiếng là điều mà xã hội công nhận
cho những cống hiến của họ. Những cống hiến ấy không tính bằng một vài bài báo
hay bằng vài tháng, vài năm mà phải bằng cả cuộc đời phấn đấu lao động không mệt
mỏi.
Trước đây, nhà báo Tam Lang cũng đã từng nhấn mạnh đến thiên chức của
nhà báo; nhưng nếu không đảm bảo một cách “ngay thẳng và trung thực” thì tờ báo
sẽ trở thành “con dao nhọn” quay ngược lại chính mình: “Người làm báo muốn đạt
được thiên chức của mình trước hết phải biết nói lên sự thật, dám nói sự thật để thực
hiện cái quyền thứ tư của dân chúng đã trao cho và tín nhiệm... Tờ báo, nếu người
làm báo biết sử dụng nó đúng mức, thì đó là một lợi khí cải tạo xã hội có sức mạnh
vạn năng. Người không biết dùng nó phải đường thì đó là con dao nhọn đâm ngay
chính mình nhất”.
Nhà báo Trần Hữu Quang (Thời báo Kinh tế Sài Gòn) đã rất đúng khi cho
rằng: Làm báo không chỉ là một nghề, mà còn là một sứ mệnh. Bởi nghề báo không
tồn tại tự nó và cho nó, mà tồn tại vì xã hội và bởi xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, để trở thành một nhà báo có đạo đức nghề nghiệp
không đơn giản chút nào. Không phải cử tuân theo đầy đủ các quy định của luật pháp
là đã trở thành nhà báo có đạo đức. Thực tiễn cuộc sống đa dạng và muôn hình muôn
vẻ. Vì thế, nhà báo phải trau dồi đạo đức suốt đời thì mới đáp ứng được yêu cầu của
Đảng, của nhân dân, của xã hội. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường phức tạp như hiện
nay, báo chí nói chung, nhà báo nói riêng luôn phải chịu sự tác động theo hai chiều:
tích cực và tiêu cực; cơ chế thị trường vừa đặt ra nhiều cám dỗ nhưng cũng là nơi
“lửa thử vàng”.
7.3. CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ NGHỀ
NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO
7.3.1. Các mối quan hệ nền tảng
a) Nhà báo với Tổ quốc
Khái niệm “trung” có nguồn gốc từ Nho giáo, trong đó “trung” được hiểu là
“trung quân”, tức là trung với vua chúa. Trung quân là “ái quốc”. Song, khái niệm
này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dân tộc hoá, làm cho nó trở nên gần gũi và ăn
sâu vào tâm hồn, tình cảm của con người Việt Nam. Theo Người, trung được hiểu
là trung với nước, với Tổ quốc, có lòng yêu nước sâu sắc. Như vậy, quan niệm về
trung của Chủ tịch Hồ Chí Minh cao và rộng hơn quan niệm về trung trước đây.
Với tư cách là thành viên của một đất nước, được nuôi dưỡng bằng văn hoá
vật chất và tinh thần của đất nước, nhà báo phải có thái độ trân trọng, yêu quý quê
hương, đất nước, cội nguồn đã sinh ra mình. Đó không chỉ là thái độ mà còn là trách
nhiệm của nhà báo trước đất nước và vì lợi ích của đất nước.
Nhà báo trung thành vô hạn với sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất
nước tức là phải luôn có ý thức làm cho đất nước sánh vai với các cường quốc năm
châu. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà báo trung với nước là trung với Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, có tinh thần đoàn kết với giai cấp công nhân và nhân dân thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh các nhà báo – chiến sĩ của chúng
ta đã lăn lộn, gắn bó như thế nào với cuộc chiến tranh giữ nước. Họ đã gắn bó đến
hơi thở cuối cùng với Tổ quốc, với nhân dân, không tiếc bẩn cứ thứ gì, kể cả mạng
sống của mình. Con số hơn 220 nhà báo – liệt sĩ đã ngã xuống trên khắp các chiến
trường Việt Nam đã nói lên tất cả.
Hiện nay, đa số nhà báo Việt Nam đều có lòng trung thành với đất nước. Họ
không những góp phần làm lành mạnh hoá đời sống xã hội mà còn tham gia vào việc
tìm tòi, phát hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm
vụ thực tiễn của đất nước, mà còn góp phần củng cố và xây dựng niềm tin trong xã
hội. Chất lượng và hiệu quả của mỗi bài báo góp phần đắc lực vào việc giải quyết
các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù cho
nhà báo ca ngợi hay phê phán, đấu tranh thì cũng luôn hướng đến điều này.
Nhà báo trung với nước cũng có nghĩa là không được làm gì tổn hại đến lợi
ích chung của đất nước. Đồng thời, nhà báo phải đấu tranh không khoan nhượng,
chống lại mọi hành vi làm tổn hại lợi ích đất nước. Thời gian qua, đa số nhà báo Việt
Nam luôn là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, vừa góp phần hun đúc tinh thần
yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, vừa đấu tranh không khoan
nhượng với kẻ thù, với các thế lực thù địch đang ngày đêm chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Có thể vui mừng khẳng định: Cho đến nay, báo chí ta chưa từng vì thiếu
trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền năng mà gây nên bê bối lớn, làm thiệt hại đến lợi
ích đất nước”. Họ “luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại những
bất cập, yếu kém và tiêu cực của xã hội. Một thực tế hết sức sống động là trong mười
năm qua, hầu hết các vụ tiêu cực, tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý đến nơi
đến chốn đều có công đầu của các nhà báo”.
Tuy nhiên, sự phản ứng của dư luận trong thời gian qua đối với một bộ phận
nhà báo là có thật. Vẫn có những bài báo phủ nhận quá khứ tốt đẹp của dân tộc, coi
nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, phủ nhận bản sắc văn hoá, hạ thấp nhân phẩm
của một số cá nhân, chạy theo bạo lực, dâm ô, tiết lộ bí mật, thông tin không có lợi
cho sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị – xã hội đất nước,...
Trước những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước như: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tỉnh thần đoàn kết, ý
thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan
dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống, nhà báo phải có thái độ trân trọng và bảo vệ.
Quy định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam có 9 điều thì điều đầu
tiên, cũng là điều cơ bản nhất là: “Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh các nhà báo – chiến sĩ của chúng
ta đã lăn lộn, gắn bỏ như thế nào với cuộc chiến tranh giữ nước. Họ đã gắn bó đến
hơi thở cuối cùng với Tổ quốc, với nhân dân, không tiếc bất cứ thứ gì, kể cả mạng
sống của mình. Con số hơn 220 nhà báo – liệt sĩ đã ngã xuống trên khắp các chiến
trường Việt Nam đã nói lên tất cả.
Hiện nay, đa số nhà báo Việt Nam đều có lòng trung thành với đất nước. Họ
không những góp phần làm lành mạnh hoá đời sống xã hội mà còn tham gia vào việc
tìm tòi, phát hiện những con đường, phương pháp hợp lý nhằm giải quyết các nhiệm
vụ thực tiễn của đất nước, mà còn góp phần củng cố và xây dựng niềm tin trong xã
hội. Chất lượng và hiệu quả của mỗi bài báo góp phần đắc lực vào việc giải quyết
các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Dù cho
nhà báo ca ngợi hay phê phán, đấu tranh thì cũng luôn hướng đến điều này.
Nhà báo trung với nước cũng có nghĩa là không được làm gì tổn hại đến lợi
ích chung của đất nước. Đồng thời, nhà báo phải đấu tranh không khoan nhượng,
chống lại mọi hành vi làm tổn hại lợi ích đất nước. Thời gian qua, đa số nhà báo Việt
Nam luôn là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, vừa góp phần hun đúc tinh thần
yêu nước, lòng tự hào, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, vừa đấu tranh không khoan
nhượng với kẻ thù, với các thế lực thù địch đang ngày đêm chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Có thể vui mừng khẳng định: Cho đến nay, báo chí ta chưa từng vì thiếu
trách nhiệm hoặc lợi dụng quyền năng mà gây nên bê bối lớn, làm thiệt hại đến lợi
ích đất nước”. Họ “luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại những
bất cập, yếu kém và tiêu cực của xã hội. Một thực tế hết sức sống động là trong mười
năm qua, hầu hết các vụ tiêu cực, tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý đến nơi
đến chốn đều có công đầu của các nhà báo”.
Tuy nhiên, sự phản ứng của dư luận trong thời gian qua đối với một bộ phận
nhà báo là có thật. Vẫn có những bài báo phủ nhận quá khứ tốt đẹp của dân tộc, coi
nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, phủ nhận bản sắc văn hoá, hạ thấp nhân phẩm
của một số cá nhân, chạy theo bạo lực, dâm ô, tiết lộ bí mật, thông tin không có lợi
cho sự phát triển kinh tế, sự ổn định chính trị - xã hội đất nước,..
b) Nhà báo với nhân dân
Nước là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Trung với nước thực chất là
trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, bởi trong một nước “bao nhiêu quyền hạn đều
của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” và “từ nhân dân mà ra”.
Báo chí cách mạng Việt Nam do Hồ Chủ tịch sáng lập luôn là nền báo chí của
dân và vì lợi ích nhân dân mà phục vụ. Đạo đức nghề báo, về thực chất, là sự đòi hỏi
mọi hành vi và hoạt động tác nghiệp của nhà báo đều phải tuân theo mấy điều tâm
niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy bảo: Báo chí của ai? Làm báo cho ai? Viết
báo nhằm mục đích gì?.
Quyền lực mà báo chí có được là do nhân dân giao phó, uỷ thác. Phản ánh ý
chí và nguyện vọng của nhân dân là truyền thống lâu đời, là một tính chất cơ bản
của báo chí cách mạng Việt Nam. Bảo chí luôn chịu sự giám sát của nhân dân và
nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân sẽ bị nhân dân gạt bỏ.
Điều 2 trong Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm bảo Việt Nam
là “luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân”. Nhà báo là “đầy tớ trung
thành của dân”, có quan hệ máu thịt với nhân dân, dựa , vào dân, phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu
rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, của người làm chủ đất nước, đấu tranh cho tự do,
hạnh phúc của nhân dân.
Nhà báo phải phục vụ vô điều kiện quyền thông tin của nhân dân, báo chí phải
là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Mỗi nhà báo đều phải tham gia vào quá trình thông
tin cho nhân dân về tất cả các vấn đề, sự kiện của đời sống xã hội trong và ngoài
nước, làm cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, nhà báo tham
gia vào việc hình thành dư luận xã hội đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học,
thái độ sống tích cực và nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, tạo ra sự
đồng thuận cao trong xã hội.
Phụng sự nhân dân – đó là tâm nguyện, cũng là trách nhiệm của mỗi nhà báo
chân chính. Đây được coi là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Thiếu
phẩm chất này, nhà báo trở thành kẻ tự kiêu, tự đại, quan liệu, xa dân, coi thường
quân chúng, tự đánh mất nguồn cảm hứng vô tận trong hoạt động sáng tạo của mình.
Sứ mệnh đó buộc nhà báo phải luôn khách quan, trung thực và tôn trọng sự
thật. Nhà báo phải đảm bảo rằng mọi thông tin mình phản ánh là đúng bản chất sự
thật, không bị xuyên tạc hoặc cường điệu. Đây là yêu cầu, là nguyên tắc hoạt động,
đồng thời cũng là một trong những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp quan trọng nhất
mà mỗi nhà báo cần có.
1. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa báo chí và luật p luật pháp của
nhà báo trong hoạt động báo chí.
2. Anh (chị) hãy trình bày và phân tích pháp luật báo chí Việt Nam qua các
thời kỳ.
3. Anh (chị) hãy trình bày cơ sở pháp lý của hoạt động báo chí của phóng viên
nước ngoài tại Việt Nam và phóng viên Việt Nam tại nước ngoài.
4. Đạo đức là gì? Đạo đức báo chí và đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.
5. Phân tích những chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ nghề nghiệp
của nhà báo.
6. Phân tích mối quan hệ trong môi trường xã hội của nhà báo. Lấy ví dụ
chứng minh.
7. Phân tích mối quan hệ trong môi trường làm việc của nhà báo. Lấy ví dụ
chứng minh.
Chương 8
8.6. HIỆU QUẢ BÁO CHÍ VÀ VIỆC TIẾP CẬN THÔNG TIN
Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ đang hằng
ngày, hằng giờ diễn ra trên khắp các lục địa đã tạo ra một khối lượng thông tin khổng
lồ. Các phương tiện thông tin đại chúng đã vận dụng công suất với mức độ cao nhất
nhưng vẫn không đáp ứng kịp. Kênh thông tin báo chí, theo thống kê của UNESCO,
hiện nay, chỉ riêng báo ngày (không kể tuần báo) hơn 150 nước trên thế giới đã có
trên 83.000 tờ với trên 750 triệu bản in, chưa kể phát thanh, truyền hình, Internet.
Thông tin nhiều đến nỗi báo hằng ngày cũng không thể đăng tải hết tin tức trong
ngày. Ở Anh, trong những năm qua, kể từ ngày 22/2/1987, người ta đã cho ra mắt
bạn đọc một tờ báo hằng ngày gọi là “London News” (Tin tức London) nhưng không
phải là mỗi ngày một số mà một ngày ra tới 5 số. Lượng thông tin nhiều đến nỗi
không có bộ óc thiên tài nào có thể nhớ hết, không có một kho lưu trữ nào có thể
dung nạp đủ, và cũng không có một phương tiện nào, dù hiện đại đến mấy, có thể
truyền đạt hết mọi thông tin. Vì thế, trên thế giới ngày nay đã xuất hiện dịch vụ thông
tin với việc thành lập các “ngân hàng tin”, “xí nghiệp công nghiệp trí thức”,...
Việt Nam cuối thế kỷ XX chưa đạt tới mức “bùng nổ” thông tin, nhưng khối
lượng thông tin hiện có cũng không phải là ít. Lượng thông tin được truyền đi trong
những thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã bằng nhiều thế kỷ trước đây cộng lại. Theo số
liệu thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, “tính đến ngày 1/10/2001, đã có 486 báo,
tạp chí; trong đó báo: 153, tạp chí: 333; so với tổng ấn phẩm báo chí: 606. Có 68 đài
phát thanh truyền hình, trong đó có 1 đài phát thanh quốc gia, 1 đài truyền hình quốc
gia, 4 đài truyền hình khu vực, 61 đài địa phương thuộc các tỉnh, thành phố, 46 nhà
cung cấp thông tin (ICP) và báo điện tử trên mạng Internet, 44 nhà xuất bản”. Bởi
vậy một vấn đề tất yếu được đặt ra đối với cả hai quá trình thông tin và tiếp nhận
thông tin là lựa chọn thông tin. Lựa chọn là hành động có tính quy luật trong hoạt
động của con người.
Lựa chọn thông tin, một mặt, cần phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của
từng phương tiện thông tin; và mặt khác, phải xuất phát từ đối tượng tác động của
thông tin. Mỗi một cơ quan báo chí đều có đối tượng tác động chủ yếu của nó. Việc
lựa chọn thông tin phải hết sức chú trọng, đáp ứng những nhu cầu nhiều mặt của đối
tượng. Nhu cầu này không chỉ là nhu cầu thông tin chính trị, kinh tế, mà còn có các
loại nhu cầu khác theo tâm lý, giới tính, lứa tuổi. Cũng không nên loại trừ những
thông tin làm thoả mãn óc tò mò như thông tin về thiên tai, tai nạn, rủi ro, về chuyện
lạ đó đây,... Nếu báo chí coi nhẹ những vấn đề này thì thông tin sẽ trở nên đơn điệu,
tẻ nhạt, kém hấp dẫn.
Để thông tin được đa dạng, phong phú, hấp dẫn, báo chí phải giữ vững nguyên
tắc tính Đảng, tính quần chúng, tính chân thật. Đây là yêu cầu khách quan mang tính
nguyên tắc đối với báo chí cách mạng.
Việc lựa chọn thông tin không chỉ gắn liền với sở thích mà còn kèm theo lợi
ích cá nhân của người lựa chọn, xử lý. Lợi ích quy định động cơ, mục đích lựa chọn.
Vì thế, việc lựa chọn thông tin phải xuất phát từ lợi ích của đất nước, của dân tộc.
Lợi ích của giai cấp đang nắm quyền lãnh đạo xã hội phải đảm bảo kết hợp hài hoà
với lợi ích quốc gia, lợi ích quốc tế và các giai tầng khác trong xã hội, trong đó có
lợi ích chính đáng của cá nhân. Nếu giai cấp nào xuất phát từ lợi ích đối lập với lợi
ích của giai cấp công nhân, hoặc xuất phát từ lợi ích có tính chất cá nhân vị kỷ, vụ
lợi thì nhất định sẽ sa vào những sai lầm, lệch lạc trong thông tin và xử lý thông tin.
Việc lựa chọn thông tin còn đòi hỏi phải coi trọng hiệu quả của thông tin, phải
hết sức chú trọng tới ảnh hưởng, tác động của thông tin đối với đối tượng. Hiệu quả
thông tin chẳng những phụ thuộc một cách quyết định vào sự lựa chọn thông tin
nhằm đảm bảo thông tin đa dạng, nhiều chiều, phong phú, chân thực, khách quan,
mà còn phụ thuộc vào lượng thông tin đáp ứng nhu cầu tinh thần và nhu cầu hành
động của đối tượng. Cần tránh những thông tin vô bổ. Thông tin trước hết là truyền
đi những tin tức mới, những sự kiện, những thông tin mà người ta biết nhưng chưa
đúng, chưa thây đây đủ. Nó còn đem lại cho người tiếp nhận những nhận thức mới,
những phán đoán mới, tức là cái bội đa (multiple) trong thông tin. Cái bội đa thông
tin ấy có thể là kinh nghiệm thực tiễn, là phương pháp luận khiến cho người tiếp
nhận cổng thông tin có thể tự điều chỉnh để có khả năng tự nhận thức, như V.L.
Lênin nói: “tiếp tục đi lên một mình”... Người phê phán lỗi thông tin “dưới hình thức
đơn giản hoá quái gở”, “Và chỉ khiến cho người đọc chỉ đọc tất cả những kết luận
đã có sẵn của một học thuyết nào đấy, đến nỗi người đọc thậm chí cũng không cần
phải nhai mà chỉ việc nuốt món cháo ấy thôi”.
Lượng thông tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Điều trọng là phải
biết tin đó phát vào lúc nào sẽ có hiệu quả nhất và hạn chế được những ảnh hưởng
xấu. Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào
tính kịp thời, đúng lúc, nhanh nhạy. Báo chí làm được những điều trên sẽ làm tăng
giá trị của thông tin, nếu thông tin chậm thì hiệu quả sẽ ngược lại và lượng của nó
sẽ bằng không.
V.I. Lênin đã chỉ rõ: “tính chất đơn điệu và sự chậm trễ đều không hợp với
nghề báo”. Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sức lôi cuốn, hấp dẫn
của báo chí. Lượng thông tin trên báo chí cao hay thấp còn quyết định bởi tính chiến
đấu, tính bút chiến và bình luận sắc sảo. Để tăng tính hấp dẫn, tăng lượng thông tin,
điều quan trọng là thông tin không được “lẩn tránh những vấn đề gay go”. Nếu tờ
báo mà như vậy sẽ có lúc trở thành khô khan, đơn điệu, không hấp dẫn, thiếu tính
chiến đấu. Lênin đòi hỏi “một cơ quan ngôn luận xã hội chủ nghĩa phải tiến hành
bút chiến, và không thể không tiến hành bút chiến một cách linh hoạt bằng cách tấn
công chất vấn độc lập hoặc chỉ tự vệ một cách khô khan, buồn tẻ”.
Tóm lại, hiệu quả báo chí là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều bộ phận
cấu thành có quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Muốn nâng cao hiệu quả báo chí
phải tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận, các yêu tố Mặt khác, hiệu quả báo chí
còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của việc tuyên truyền thông tin, cách thể hiện thông
tin. Do đó, việc lựa chọn những hình thức biểu hiện thông tin một cách sinh động,
gây được những xúc cảm tốt cũng là yêu cầu cần thiết đối với báo chí nhằm làm cho
báo chí phát huy tác dụng thực sự trong việc hướng dẫn dư luận và đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh (chị) hãy trình bày hiệu quả và hiệu quả báo chí. Cho ví dụ chứng
minh.
2. Anh (chị) hãy trình bày các yêu cầu về hiệu quả báo chí trên các khía cạnh
nội dung và hình thức.
3. Anh (chị) hãy phân tích và chứng minh những cơ sở, căn cứ để đánh giá
hiệu quả báo chí. Những tiêu chỉ đó là gì?
4. Phân tích các yếu tố tạo nên hiệu quả báo chí. Cho ví dụ chứng minh.
5. Phân tích vai trò của công chúng trong hoạt động báo chí. Mối quan hệ Nhà
báo — Tác phẩm – Công chúng. 6. Phân tích hiệu quả báo chí và quy luật tiếp cận
thông tin báo chí của công chúng.
7. Phân tích những đổi mới thông tin của báo chí trong nền kinh tế thị trường
cũng như toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay.