You are on page 1of 18

2

CHƯƠNG 6

CHUYỂN GIÁ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ


6.1. Khái niệm chuyển giá
 Quan điểm 1

Chuyển giá là thuật ngữ ám chỉ hành vi đặt giá của các công ty đa quốc
gia khác với giá cả theo nguyên tắc thị trường nhằm thực hiện mục đích nào
đó. Công ty đa quốc gia có thể chuyển giá nhằm tránh thuế, chiếm lĩnh thị
phần, biến liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài…

 Quan điểm 2

Chuyển giá là hoạt động mang tính chủ quan, cố ý của các tập đoàn đa
quốc gia nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp bằng cách ấn định giá mua bán
sản phẩm, nguyên vật liệu… giữa các công ty trong cùng một tập đoàn, không
theo giá thị trường nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.

 Quan điểm 3

Chuyển giá là một hành vi thông đồng giữa các công ty của cùng một
tập đoàn để thực hiện dàn xếp áp đặt về mặt giá cả giữa các công ty không
dựa trên giá thị trường nhằm chuyển lợi nhuận từ nước này sang nước khác,
tránh nộp thuế đầy đủ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của cả tập đoàn.

 Quan điểm 4

Chuyển giá là việc định giá hàng hóa dịch vụ chuyển giao giữa các
công ty liên kết đóng ở các quốc gia khác nhau nhằm tối ưu hóa lợi nhuận của
tập đoàn.

Hiểu theo nghĩa rộng, chuyển giá doanh nghiệp là việc tối đa hóa lợi
nhuận của doanh nghiệp bằng cách tối giản hóa nghĩa vụ đối với Ngân sách
nhà nước. Theo thông lệ quốc tế, chuyển giá được hiểu là “việc thực hiện
chính sách giá, “pricing policy”, đối với hàng hóa, dịch vụ giữa các thành

3
viên trong cùng nhóm (hoặc tập đoàn) qua biên giới không theo giá thị trường
nhằm tối thiểu hóa số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước nhận đầu tư trên
toàn cầu. Để làm được điều này, công ty đa quốc gia phải vận dụng những
khác biệt trong chính sách, ưu đãi thuế, chênh lệch thuế suất giữa các quốc
gia để xây dựng chính sách về giá giao dịch trong nội bộ nhóm (hoặc tập
đoàn).Thực tế, nhóm lợi ích hoặc tập đoàn không nhất thiết phải có tính đa
quốc gia mà có thể là nhóm công ty có nhiều công ty con hoạt động kinh
doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể
kinh tế độc lập, song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ liên kết với
nhau. Như vậy, cần hiểu hành vi chuyển giá theo một nghĩa rộng hơn, đó là
hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao
đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa
tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết.

6.2. Nguyên nhân của hiện tượng chuyển giá trong đầu tư quốc tế

Hành vi chuyển giá thông qua việc các tập đoàn, các công ty mẹ tại
nước ngoài ký kết hợp đồng sản xuất kinh doanh, dịch vụ với các nước với
đơn giá cao, sau đó giao lại cho các công ty con với giá rất thấp và ngược lại
một phần là do các nguyên nhân sau đây:

 Động cơ tối đa hoá lợi nhuận: Doanh nghiệp nói chung, các tập đoàn
đa quốc gia nói riêng, không bao giờ từ bỏ các cơ hội, các biện pháp nhằm tối
đa hoá lợi nhuận, kể cả các hành vi chuyển giá, gian lận giá, gian lận thương
mại,… Chuyển giá thông qua các giao dịch hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư qua
biên giới sẽ khó bị phát hiện hơn so với các gian lận khác và kể cả trong
trường hợp bị phát hiện thì việc xử lý cũng không hề đơn giản bởi chính phủ
của mỗi nước thường có thiên hướng bảo vệ DN của mình vì lợi ích quốc gia.
 Quyền tự do định đoạt trong kinh doanh thương mại và đầu tư: Quyền
này đã tạo cơ hội cho các DN được quyền quyết định giá trong các giao dịch.
Do đó, trong quan hệ với các bên liên kết, các DN được toàn quyền định mua,

4
bán, trao đổi những hàng hoá hoặc dịch vụ theo mức giá họ mong muốn và
được thể hiện trong các văn kiện, hợp đồng được luật pháp quốc tế bảo hộ.
 Mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa các nhóm liên kết: Vừa thuận
lợi trong điều hành ở phạm vi rộng lớn, vừa có được lợi ích kinh tế nhiều hơn.
Sự khác biệt về mức giá giao dịch được thực hiện giữa các bên so với giá
chung của thị trường sẽ đưa đến kết quả là một bên có thể được lợi ít hơn
hoặc thiệt hại, trong khi bên kia được lợi nhiều hơn nhưng xét về tổng thể lợi
ích của toàn cục họ sẽ được nhiều. Chuyển giá mang lại lợi ích toàn cục được
nhiều hơn do “né thuế”. Do đó, các DN có mối quan hệ liên kết không thể bỏ
qua hành vi này.
 Sự khác biệt về môi trường đầu tư, kinh doanh; sự khác biệt về chính
sách, pháp luật, thể chế giữa các quốc gia: Vừa tạo ra động cơ, đồng thời
cũng tạo ra những điều kiện để các tập đoàn đa quốc gia xây dựng và triển
khai thực hiện được chiến lược chuyển giá của họ. Sự khác biệt trong chính
sách thuế, đặc biệt là các ưu đãi thuế là bức tranh phổ biến và rõ nét trong thời
gian vừa qua, có thể nói rất nhiều, gần như đại đa số các nước đang phát triển
đều sử dụng các chính sách ưu đãi thuế là một trong những công cụ thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, các yếu tố về chính trị, về chính
sách đối ngoại của những nơi, những khu vực bị “lép vế” hơn so với các khu
vực khác cũng làm nảy sinh hành vi chuyển giá và nó được triển khai thực
hiện vòng vèo hơn, qua các nước trung gian khác.

6.3. Các hình thức chuyển giá trong đầu tư quốc tế

Trên thực tế, các hình thức chuyển giá quốc tế rất đa dạng, phong phú.
Tuỳ vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các MNCs sử dụng các biện
pháp khác nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm
vi toàn cầu. Bằng cách nhóm các hình thức theo đặc điểm chung, ta có thể
chia thành các dạng hình thức chuyển giá như sau:

6.3.1. Định giá yếu tố đầu vào cao hơn thị trường

5
Các yếu tố đầu vào được định giá cao từ trong giai đoạn đầu của quá
trình đầu tư (như kê khai vốn góp bằng tài sản vô hình cũng như vô hình để
góp vốn kinh doanh) đến khi dự án trong giai đoạn triển khai (như chi phí
nhập nguyên phụ liệu, chi phí tư vấn, làm quảng cáo ở nước ngoài…).

 Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn: là nhà
đầu tư, bất cứ ai cũng muốn phần vốn của mình chiếm giá trị lớn trong tổng
số vốn pháp định, nên dù đầu tư bằng hình thức liên doanh hay 100% vốn đầu
tư nước ngoài, đều tìm mọi cách để nâng cao trị giá phần vốn góp của mình.
Việc làm này mang lại lợi ích to lớn và cụ thể, như đầu tư dưới dạng liên
doanh, sẽ giúp gia tăng quyền chi phối các quyết định liên quan đến hoạt
động của dự án, tăng mức lợi nhuận được chia, tỷ lệ trị giá tài sản được chia
sau khi kết thúc dự án cũng được tăng. Hoặc đối với công ty 1oo% vồn nước
ngoài, việc tăng tài sản góp vốn ảnh hưởng đến việc khấu hao tài sản cố định.
Chủ đầu tư sẽ mau hoàn vốn, giảm rủi ro và giảm mức thuế thu nhập doanh
nghiệp do chi cao.

 Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…:
quản lý, sở hữu và sử dụng tài sản vô hình đã khó, việc định giá các tài sản vô
hình này lại còn phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, mặc dù lợi ích của việc chuyển
giao/ góp vốn bằng tài sản vô hình dễ dàng nhận thấy cho nhà tiếp nhận,
nhưng đây cũng là một kẽ hở mà các nhà đầu tư thường hay lợi dụng, bằng
cách định giá cao phần vốn góp này.

 Nhập khẩu nguyên phụ liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài hoặc từ công ty
đối tác trong liên doanh với giá cao: Hành động này nhằm hai mục đích, một
là thông qua việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu, vô hình chung đã chuyển
một phần lợi nhuận ra nước ngoài. Hai là, khi mua hàng nhập khẩu với giá
đắt, chi phí được hạch toán tăng lên, thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp
giảm xuống, làm cho tổng lợi nhuận sau thuế tăng.

6
 Làm quảng cáo ở nước ngoài với chi phí cao: tương tự, việc thuê các
công ty nước ngoài (hầu hết các trường hợp, công ty này là công ty con trong
cùng một tập đoàn) với chi phí quảng cáo rất cao, thậm chí là cao ở mức bất
thường cũng là một hình thức chuyển lợi nhuận sang cho tập đoàn mẹ. Việc
này đồng thời gây thất thu nguồn thuế đáng kể cho quốc gia tiếp nhận đầu tư,
do chi phí quảng cáo nằm trong khoản mục chi phí kinh doanh, chi phí tăng
cao kéo theo lợi nhuận chịu thuế giảm.

 Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và
quản lý: thông qua các hợp đồng tư vấn, thuê chuyên gia, thuê quản lý từ
công ty mẹ hoặc công ty con khác trong cùng một tập đoàn; hoặc cử chuyên
viên, công nhân sang thực tập, tham gia các khóa huấn luyện tại công ty mẹ
với chi phí cao, các công ty có vốn FDI đã thực hiện hành vi chuyển giá để
chuyển lợi nhuận về nước.

6.3.2. Định giá yếu tố đầu ra thấp hơn thị trường

Một số doanh nghiệp FDI (chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài) khi xuất hàng ra khỏi lãnh thổ nước tiếp nhận đầu tư thường xuất về
công ty mẹ hoặc công ty con khác tại các nước có thuế suất thuế thu nhập
công ty thấp, với hóa đơn xuất bán thấp hơn nhiều so với giá thành; hoặc có
tình trạng một số dịch vụ thu tiền ở nước ngoài không được phản ánh đúng
doanh thu để giảm số thuế phải nộp tại các nước này. Việc này nhằm mục
đích giảm đi lợi tức phải kê khai ở nước tiếp nhận đầu tư, trong khi số lợi tức
này trên sổ sách của đơn vị được hiểu ngầm rằng đã được bù trừ bởi số “lãi
đầu vào” thu được từ việc khai khống các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI được thành lập từ một công ty mẹ
ở chính quốc, hoạt động trên thị trường nội địa cũng có chính sách tương tự
như trên: tiêu thụ hàng hóa với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường.

6.3.3. Chuyển giá thông qua hoạt động tài trợ

7
Hoạt động tài trợ gồm có tài trợ bằng nghiệp vụ vay và tài trợ bằng
cách cung cấp thiết bị, máy móc, dịch vụ tư vấn… cho nước được tài trợ vốn
(ODA). Công ty mẹ tài trợ vốn cho công ty con nhưng không phải với mục
đích tăng vốn góp chủ sở hữu, mà tài trợ cho các tài sản cố định làm cho chi
phí hoạt động tài chính tăng cao như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi
vay… và chuyển một phần lợi nhuận về nước dưới dạng lãi vay và chi phí
bảo lãnh vay vốn để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, tránh lỗ do chênh lệch
tỷ giá về sau. Bên cạnh đó, khi tài trợ cung cấp máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu, dịch vụ tư vấn cho nước được tài trợ vốn, nhiều nhà cung cấp ở nước tài
trợ nâng giá thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ lên cao đẩy giá đầu tư
lên cao có lợi cho nước tài trợ.

6.3.4. Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất

Lợi dụng sự chênh lệch về thuế suất thuế lợi tức và thuế quan giữa hai
quốc gia mà các công ty MNCs thực hiện hành vi chuyển giá. Cụ thể là về
thuế lợi tức, nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế lợi tức hay thuế quan phải nộp,
một MNCs sẽ tối đa hóa chi phí tại một nước có thuế suất cao và tối đa hóa
thu nhập ở nước có thuế suất thấp. Thủ thuật của hành vi chuyển giá của
MNCs tại một nước có thuế suất cao là định giá cao ở các đầu vào nhập khẩu
và định giá thấp ở các đầu ra xuất khẩu. Mặt khác, sự khác biệt về thuế quan
cũng là động cơ của chuyển giá. Nếu thuế suất nhập khẩu ở nước tiếp nhận
đầu tư cao hơn, công ty mẹ ở nước ngoài sẽ định giá thấp hàng nhập khẩu vào
công ty con để giảm thuế phải nộp. Tương tự, nếu thuế suất thuế xuất khẩu ở
nước tiếp nhận đầu tư thấp hơn, các công ty con này sẽ định giá thấp hàng
xuất khẩu cho công ty mẹ.

6.4. Vai trò và hậu quả của chuyển giá

6.4.1. Đối với quốc gia xuất khẩu vốn đầu tư

8
Vai trò: Thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán
cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty mẹ
tốt hơn về hình thức cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng
góp nhiều thuế hơn cho nhà nước, tác động tốt tới tăng trưởng GNP của nước
xuất khẩu vốn đầu tư.

Hậu quả: Thất thu một khoản thuế nhất định: khoản thuế thất thu này
bắt nguồn từ việc chênh lệch thuế suất giữa nước xuất khẩu vốn và nước tiếp
nhận vốn. Khi các khoản thuế này ở nước xuất khẩu vốn cao hơn nước tiếp
nhận thì các khoản lợi nhuận núp bóng dưới nhiều hình thức sẽ chạy từ công
ty mẹ ra nước ngoài sang các công ty con, để công ty mẹ có thể tối thiểu hóa
số thuế phải nộp. Từ đó, quốc gia xuất khẩu vốn thất thu một khoản thuế do
hoạt động chuyển giá của các tập đoàn có trụ sở tại nước mình gây ra.

6.4.2. Đối với quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư


 Vai trò: Quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư thường có mức thuế thu nhập
thấp để thu hút đầu tư, do đó xảy ra hoạt động chuyển giá ngược, tức là thông
qua hình thức trả các chi phí cao, như chi phí mua hàng, chi phí tư vấn…lợi
nhuận sẽ được chuyển từ công ty mẹ sang công ty con. Việc làm này giúp cho
công ty mẹ tránh được các mức thuế thu nhập cao tại nước mình, đồng thời
làm cho quốc gia tiếp nhận đầu tư tăng thu nhập ngoại tệ.
 Hậu quả

 Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay
đổi do việc thực hiện hành vi chuyển giá của các MNCs làm các luồng vốn
chảy vào nhanh mạnh, sau đó lại có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn.
Hậu quả là tạo ra một bức tranh kinh tế bị sai lệch ở các quốc gia này trong
các thời kì khác nhau.

 Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là những
người hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài
hạn, họ phải đương đầu với các khó khăn tài chính khi các MNC thoái vốn do

9
các thu nhập không bền vững trước đây trong ngắn hạn không phản ánh chính
xác sức mạnh của nền kinh tế.

 Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túm thị trường, chính
phủ các nước tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn hơn trong việc hoạch định chính
sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô.

 Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế
hoạch kinh tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm
soát tốt sẽ dẫn tới lệ thuộc vào nền kinh tế của chính quốc, về lâu dài có thể
dẫn tới lệ thuộc về chính trị.

 Tạo ra một sự độc quyền về nhãn hiệu sản phẩm từ chính sách bán hạ
giá sản phẩm đầu ra. Đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh trong nước vào thế bất
lợi, quốc gia tiếp nhận đầu tư khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản
xuất trong nước phát triển.

 Ngoài ra hoạt động chuyển giá, trong ngắn hạn, người tiêu dùng tại
quốc gia này được hưởng lợi khi mua hàng giá rẻ ví các doanh nghiệp FDI
trong giai đoạn đầu có thể hạ giá để giành thị phần và bóp chết các doanh
nghiệp nội địa cạnh tranh với mình. Nhưng về lâu dài, khi họ thành công và
chiếm lĩnh thị trường và thị phần, người tiêu dùng buộc phải tuân theo luật
chơi, mà chính xác hơn là phụ thuộc vào sản phẩm và giá cả mà các doanh
nghiệp này đưa ra.

6.5. Các biện pháp chống chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế

Nguyên tắc cơ bản của việc chống chuyển giá: bản chất của chuyển giá
là việc xác định giá không theo nguyên tắc giá thị trường, nên một trong
những biện pháp chống chuyển giá là quy định các cách thức định giá thị
trường trong giao dịch giữa các bên liên kết.

Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa trên cơ sở so
sánh tính tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập từ đó lựa

10
chọn ra phương pháp xác định giá phù hợp. Theo đó, dù là sử dụng phương
pháp nào thì việc so sánh cũng phải đưa giao dịch độc lập làm cơ sở quy
chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. Do đó các giao dịch
tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn giống giao dịch liên kết
nhưng phải đảm bảo là không có các khác biệt trọng yếu. Trường hợp có khác
biệt trọng yếu, việc so sánh phải dùng biện pháp phân tích và đánh giá các
tiêu thức ảnh hưởng dẫn đến khác biệt nhằm loại trừ sự khác biệt mang lại sự
tương đồng. Có 4 tiêu thức được xem là những yếu tố có thể gây ra sự khác
biệt, đó là đặc tính của sản phẩm, chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh,
điều kiện của hợp đồng giao dịch và điều kiện kinh tế khi diễn ra giao dịch.

6.5.1. Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập

Dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch
độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liên kết. Chẳng hạn như việc
so sánh 2 hợp đồng được ký kết với 2 công ty khác nhau, 1 công ty có quan
hệ liên kết và 1 công ty không có liên hệ gì. Sau khi trừ các khác biệt trọng
yếu để hai hợp đồng trên tương đương về điều kiện giao dịch. Lúc đó sẽ có
thể nhận thấy được sự chênh lệch giữa mức giá thị trường và mức giá khống
được kê cao/ thấp để thực hiện chuyển giá.

Phương pháp so sánh giá giao dịch độc lập thường được áp dụng cho
các trường hợp:

 Các giao dịch riêng lẻ về từng chủng loại hàng hóa lưu thông trên
thị trường.
 Các giao dịch riêng lẻ về từng loại hình dịch vụ, bản quyền, khế
ước vay

Cơ sở kinh doanh thực hiện cả giao dịch độc lập và giao dịch liên kết
về cùng một chủng loại sản phẩm.

6.5.2. Phương pháp giá bán lại

11
Dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra) của sản phẩm do doanh nghiệp bán
cho bên độc lập để xác định giá mua vào của sản phẩm đó từ bên liên kết.
Phương pháp giá bán lại thường được áp dụng cho các trường hợp giao dịch
đối với các sản phẩm thuộc khâu cung cấp dịch vụ đơn giản và thương mại
phân phối có thời gian quay vòng từ khi mua vào đến khi bán ra ngắn, ít chịu
biến động về tính thời vụ. Đồng thời, sản phẩm trước khi được bán ra không
qua khâu gia công, chế biến, lắp ráp, thay đổi tính chất sản phẩm hoặc gắn với
nhãn hiệu thương mại để làm gia tăng đáng kể giá trị sản phẩm.

6.5.3. Phương pháp giá vốn cộng lãi

Được lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất khép kín để
bán cho bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên
kết. Phương pháp này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản
phẩm để xác định giá bán ra của sản phẩm đó cho bên liên kết.

Phương pháp giá vốn cộng lãi thường được áp dụng cho các trường hợp:

 Giao dịch thuộc khâu sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm để
bán cho các bên liên kết;
 Giao dịch giữa các bên liên kết thực hiện hợp đồng liên danh, hợp đồng
hợp tác kinh doanh để sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm, hoặc thực
hiện các thỏa thuận về cung cấp các yếu tố sản xuất đầu vào và bao tiêu sản
phẩm đầu ra;
 Giao dịch về cung cấp dịch vụ cho các bên liên kết.
6.5.4. Phương pháp so sánh lợi nhuận

Để thực hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản
phẩm trong giao dịch độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết
quả về giá mà tính ra được thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế
TNDN.

12
Đây được xem là phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá
vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng đối chiếu trong trường hợp có những điều
kiện tương tự.

6.5.5. Phương pháp tách lợi nhuận

Phương pháp tách lợi nhuận dựa vào lợi nhuận thu được từ một giao
dịch liên kết tổng hợp do nhiều cơ sở kinh doanh (hoặc bên) liên kết thực hiện
để xác định lợi nhuận thích hợp cho từng cơ sở kinh doanh (hoặc bên) liên kết
đó theo cách các bên độc lập thực hiện phân chia lợi nhuận trong các giao
dịch độc lập tương đương.

Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết
cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp, chẳng hạn như cùng tham gia
nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, hoặc sản phẩm là tài sản vô hình độc
quyền, kinh doanh chuyển tiếp từ khâu đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở
hữu trí tuệ.

Trường hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của giao dịch liên kết mà
không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một trong các phương
pháp trên so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở rộng phạm
vi lựa chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường thích hợp
bằng các phương pháp tổng hợp...) hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ (để tính
mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận...).

6.6. Kinh nghiệm của các nước trong vấn đề chống chuyển giá

Hiện nay, trên thế giới có hai hệ thống quan điểm chủ yếu về chuyển
giá là của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và của Mỹ. Hai hệ
thống này tương tự như nhau ở những nội dung chính như khái niệm, phương
pháp xác định giá, yêu cầu về thông tin, chứng từ lưu giữ của đối tượng nộp
thuế… Mỹ có xu hướng sáng tạo ra các phương pháp xác định giá mới, đưa ra
hướng dẫn riêng cho hàng hoá hữu hình và vô hình bởi Mỹ là nước tiên phong

13
trong phát triển sản phẩm sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, hầu hết các nước hiện nay
đều thừa nhận quan điểm của OECD trong xử lý về giá chuyển giao vì nó có
tính trung lập và tương đồng trong khả năng quản lý.

6.6.1. Mỹ

Các quy định về giá chuyển giao đã trở thành một phần trong luật thuế
của Mỹ từ thời điểm chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Khởi đầu là phần 482
của Luật Thu nhập nội bộ (IRC) ban hành năm 1968. Điều khoản 482 này
được xây dựng nhằm cải thiện tình hình thất thu thuế của cơ quan Thuế. Theo
đó, giá chuyển giao tài sản hữu hình và vô hình giữa các chi nhánh của một
doanh nghiệp ở các nước khác nhau phải được xác định tương đương với giá
cung cấp cho bên thứ ba, hoặc tương đương với giá của một doanh nghiệp
khác có sản phẩm tương tự.

Khi giá chuyển nhượng của doanh nghiệp làm thay đổi đáng kể số thuế
thu nhập phải nộp, điều khoản này cho phép cơ quan thuế xác định lại giá
chuyển giao nhằm tính lại lợi nhuận trước thuế để tính thuế thu nhập doanh
nghiệp. Ví dụ trường hợp của Nissan, công ty này chuyển nhượng ô tô và các
phụ tùng với giá cao cho các chi nhánh ở Mỹ, làm cho lợi nhuận chi nhánh ở
Mỹ giảm và lợi nhuận của công ty mẹ ở Nhật tăng lên gần 1 tỷ USD. Điều
này đồng nghĩa với việc một phần số thuế thu nhập doanh nghiệp đúng ra
phải nộp ở Mỹ đã được chuyển về cho Nhật. Năm 1993, Cơ quan Thuế nội
địa của Mỹ (IRS) đã điều tra và phán quyết rằng hãng ô tô Nissan của Nhật
Bản đã tránh thuế bằng cách định giá rất cao các loại xe nhập khẩu vào Mỹ,
cuối cùng Nissan phải nộp một khoản tiền phạt là 170 triệu USD.

Tháng 10/1988, Cơ quan Thuế nội địa Mỹ (IRS) đề nghị hai phương
pháp nhằm thiết lập tiêu chuẩn cân xứng với thu nhập. Một là dựa trên phân
tích các giao dịch có thể so sánh; hai là dựa trên việc tách lợi nhuận giữa các
bên có liên kết.

14
Tháng 1/1992, IRS ban hành quy định giới thiệu ba phương pháp định
giá mới, tất cả dựa trên việc đối chiếu các tài liệu về kết quả giao dịch. Tháng
1/1993, IRS ban hành quy định tạm thời. Ngày 1/7/1994 quy định chính thức
được ban hành, có hiệu lực từ ngày 8/7/1994 cho đến nay.

Quy định yêu cầu giá chuyển giao tài sản vô hình phải được xác định theo
một trong bốn phương pháp sau: Phương pháp giao dịch không liên kết có thể
so sánh (CUT); Phương pháp lợi nhuận có thể so sánh (CPM); Phương pháp
tách lợi nhuận; và các phương pháp khác không định rõ. Về hình thức xử
phạt, số tiền phạt vi phạm về giá chuyển giao dao dộng từ 20-40% số thuế
khai thiếu.

6.6.2. OECD

Ngày 8/7/1994, OECD đưa ra dự thảo “Hướng dẫn giá chuyển giao đối
với các công ty đa quốc gia và các cơ quan quản lý thuế ”. OECD hướng dẫn
cho các công ty đa quốc gia và các cơ quan quản lý thuế dựa trên nguyên tắc
“định giá công bằng”. Trong việc kiểm soát giao dịch giữa hai công ty ở hai
nước khác nhau, hai cơ quan thuế có thể thống nhất cách áp giá giao dịch để
tránh bị đánh thuế hai lần. Khi đó, mỗi bên sẽ được chia một phần lợi nhuận,
chứ không có chuyện một nước gánh toàn bộ chi phí, còn nước kia được
hưởng toàn bộ lợi nhuận.

Hướng dẫn cũng đề ra các phương pháp tính giá chuyển giao, trong đó
phương pháp phân chia lợi nhuận được coi là tốt nhất trong phần lớn các
trường hợp, và là phương pháp tương đối trực tiếp. Phương pháp này xác định
lãi gộp để phân chia giữa các công ty liên kết dựa trên cơ sở giá trị kinh tế để
phân chia phần lợi nhuận dự kiến và được phản ánh trong hợp đồng ký kết
giữa các bên.

15
Tháng 7/1995 OECD bản hướng dẫn chính thức được ban hành. Trong
đó chương 6 của bản hướng dẫn là “Những xem xét đặc biệt đối với quyền sở
hữu tài sản vô hình” được ban hành vào tháng 3/1996.

6.6.3. Anh

Luật về chuyển giá đã ban hành vào tháng 08/98 tại Anh, các văn bản
hướng dẫn và xử phạt cũng được ban hành sau đó 2 tháng. Luật của Anh cũng
thống nhất với các nguyên tắc của OECD, chỉ ra rằng các giao dịch nội bộ
phải theo nguyên tắc tiêu chuẩn thị trường. Phương pháp áp dụng: Không quy
định phương pháp cụ thể để xác định giá chuyển giao phù hợp, mặc dù yêu
cầu nguyên tắc giá giao dịch sòng phẳng được áp dụng phù hợp với hướng
dẫn của OECD. Trong thực tế, Cục Thu nội địa Anh ưu tiên phương pháp nào
hợp lý nhất, nói chung các phương pháp dựa vào giao dịch được ưu tiên hơn
các phương pháp dựa vào lợi tức.

Hình thức phạt: Khoản phạt có thể đến 100% số thuế bị truy thu trong
trường hợp phát hiện chuyển giá nếu đối tượng nộp thuế cố ý không tuân thủ
các quy định pháp lý về chuyển giá.

Tóm lại, hoạt động chống chuyển giá tại Anh chưa đạt được nhiều tiến
bộ, thậm chí Anh quốc còn được mệnh danh là thiên đường cho hoạt động
trốn thuế phát triển. Nói cách khác, chính phủ Anh có lí do để cố tình “làm
ngơ” trước hoạt động chuyển giá của các tập đoàn, mà một trong những lí do
quan trọng đó là dòng chảy của vốn ồ ạt đổ vào trong nước, không cần quan
tâm nguồn gốc của lượng vốn khổng lồ đó là hợp pháp hay không, và mục
đích của chủ nhân số vốn đó là đầu tư nghiêm túc hay rửa tiền.

6.6.4. Trung Quốc

Luật chống chuyển giá của Trung Quốc được tham khảo từ nhiều
chuyên gia, được xây dựng năm 1998 dựa theo hướng dẫn của OECD, sử

16
dụng nguyên tắc giá thị trường và các phương pháp định giá chuyển giao
tương tự của Hoa kỳ và các nước thuộc OECD.

So với luật của Hoa kỳ, Luật chống chuyển giá của Trung Quốc được
tăng cường hơn ở nhiều điểm như: Cơ chế hạch toán thuế đối với các nhà đầu
tư nước ngoài không thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ, điều này cho phép
Trung Quốc sử dụng các công cụ chống chuyển giá để điều tiết việc thu hút
vốn FDI; Trung Quốc thường sử dụng phương pháp chiết tách lợi nhuận để
định giá chuyển giao nhằm phát hiện hoạt động chuyển giá; bên cạnh đó,
nước này cũng sử dụng các biện pháp về thuế để hạn chế hoạt động này;
ngoài ra, Trung Quốc còn thực hiện kiểm toán mang tính bắt buộc và thường
xuyên đối với các đối tượng có khả năng vi phạm; để góp phần vào việc phát
hiện và xử lý hành vi chuyển giá, các cơ quan thuế còn được hỗ trợ bằng các
công cụ công nghệ thông tin.

Hình thức phạt: Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bị phát hiện kê
khai giảm thu nhập thì sẽ bị phạt đến 3 lần số thuế trốn (5 lần trong trường
hợp nghiêm trọng). Thời hiệu truy thu thuế thông thường là 3 năm trở về
trước, và từ 5 đến 10 năm đối với những trường hợp trốn thuế lớn gây hậu quả
nghiêm trọng. Lãi suất tính lãi đối với số thuế nợ: 0,05%/ngày, tương đương
với 20%/năm.

Luật chống chuyển giá của Trung Quốc là một trong những bộ luật
được đầu tư kỹ lưỡng, đáng để các nước tham khảo và học hỏi. Bằng cách
nghiên cứu luật chống chuyển giá của Mỹ và OECD, cùng với sự tư vấn của
nhiều chuyên gia Châu Âu và Mỹ, Cơ quan Thuế của Trung Quốc đã phát
triển luật chống chuyển giá khá chặt chẽ để phát hiện kịp thời các hành vi
chuyển giá của các công ty đa quốc gia, thậm chí là của các tập đoàn kinh tế
nội địa. Tuy nhiên, hoạt động chuyển giá của các MNC rất đa dạng và ngày
càng tinh vi, chính vì vậy, dù luật chống chuyển giá có phát triển như thế nào

17
thì cũng khó lòng ngăn chặn tuyệt đối, mà chỉ có thể hạn chế được một phần
nào đó.

6.6.5. Singapore

Không có luật riêng để quản lí hoạt động chuyển giá. Các quy định liên
quan đến hoạt động chuyển giá nằm trong luật chung về thuế:

IRA S (Inland Revenue Authority of Singapore) phát hành hướng dẫn


về hoạt động chuyển giá ngày 23/2/2006.

Singapore Tranfer Pricing Guidelines: Hướng dẫn về chuyển giá của


Singapore dựa trên và thống nhất với hướng dẫn của OECD.

Những hướng ph ương pháp định giá được đưa ra bởi OECD được chấp
nhận ở Singapore. IRA S hầu như không ưu tiên ch o ph ương pháp nào
trong số 5 phương ph áp được liệt kê trong hướng dẫn của OECD. Phương
pháp xác định giá chuyển giao nào tạo ra kết quả tin cậy nhất sẽ được lựa
chọn và áp dụng tùy từng trường hợp cụ thể. Singapore không quy định mức
phạt cụ thể dành riêng cho hành vi chuyển giá. Mức ph ạt chung cho các vi
phạm về thuế nằm từ khoảng 100% đến 400% khoản thuế phải trả. Một điểm
đáng lưu y trong thực tế là khi một vụ điều tra về chuyển giá được tiến hành,
án phạt gần như sẽ được áp dụng nếu đơn vị đóng thuế không có hoặc không
đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc điều tra chuyển giá. Luật thuế của
Singapore cũng như hướng dẫn về vấn đề chuyển giá không đưa ra một yêu
cầu về việc phải chuẩn bị xuất trình các tài liệu về chuy ển giá . IRAS mong
muốn các đơn vị và cá nhân đóng thuế phải tự đánh giá nguy cơ rủi ro bị kết
tội chuyển giá và tự chuẩn bị những tài liệu phù hợp với rủi ro đó. Các tài
liệu tối thiểu cần có khi kiểm tra về vấn đề chuyển giá bao gồm:

Mô tả về các bên liên quan tron g các chuyển nhượng, bao gồm giá trị
mua bán và các điều khoản kí kết.

18
Một phân tích sâu trong đó mô tả những yếu tố chính liên quan đến
quá trình mua bán như chức năng, sự phát triển của tài sản, việc sử dụng tài
sản và các rủi ro được dự báo

Bảng đánh giá của đơn vị đóng thuế về những rủi ro về thuế của đơn
vị. Ngoài ra, tùy vào mức độ rủi ro bị kết tội chuy ển giá cũng như mức độ
phứctạp và quy mô của các ho ạt động mua bán, chuyển nh ượng mà doanh
nghiệp cóthể cần chuẩn bị những tài liệu chi tiết hơn.

Singapore hầu như không quy định th ời hạn cho việc xuất trình các tài
liệu. Tuy nhiên, khi đơn vị đóng thuế tin rằng mình có khả năng bị kiểm tra
chuyển giá, thì việc chuẩn bị các tài liệu liên quan cần được chuẩn bị một
cách đồng thời. Không có yêu cầu nộp hoặc thời hạn nộp các tài liệu, tuy
nhiên việc xuất trình các tài liệu phải được thực hiện ngay nếu được yêu cầu
từ IRAS. Có th ể nhận th ấy việc ban hành hướng dẫn về chuyển giá của
Singap ore chủyếu nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của doanh nghiệp
về vấn đề chuyển giá. Các thỏa thuận APA đơn phương, song phương hay đa
phương đều được chấp nhận ở Singapore. Tuy nhiên, đối với các thỏa th uận
song phương và đa phương thì phải có thỏa thuận thuế đôi (double tax
agreement) giữa Singapore và quốc gia liên quan.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 6

1. Vũ Chí Lộc (2012), Giáo trình Đầu tư Quốc tế, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia, Hà Nội.


2. Phùng Xuân Nhạ (2007), Các công ty xuyên quốc gia - Lý thuyết và thực

tiễn, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.


3. Võ Thanh Thu, Bài giảng Đầu tư Quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương,

Hà Nội.
4. Thông tư 66/2010/TT-BTC (2010), Hướng dẫn thực hiện việc xác định giá

thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.

19

You might also like