You are on page 1of 19

1 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
KHOA: LUẬT QUỐC TẾ
LỚP: 93-QT43
MÔN HỌC: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

BÀI THUYẾT TRÌNH


Giáo viên giảng dạy: Lê Minh Nhựt
MARITIME
DELIMITATION Danh sách nhóm 20:
AND
TERRITORIAL 1. Bùi Thị Thu Nguyệt1853801015147
QUESTIONS 2. Nguyễn Đoan Thục1853801015213
BETWEEN 3. Nguyễn Thị Ý Phụng1853801015165
QATAR AND 4. Lê Thị Như Quỳnh1853801015173
BAHRAIN 5. Phạm Lê Như Sương1853801015177
(QATAR V. 6. Nguyễn Thị Kim Thoa1853801015204
BAHRAIN), ICJ, 7. Đỗ Phương Thảo1853801015195
1991 8. Trần Việt Khả Yến1853801015282
9. Võ Lê Lan Vy1853801015279
I. TÓM TẮT VỤ VIỆC..............................................................................................3

1.1. Tóm tắt sự kiện....................................................................................................3

1.2. Lập luận của các bên...........................................................................................4

1.2.1. Lập luận của nguyên đơn (Qatar).....................................................................4


2 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

1.2.2. Lập luận của bị đơn (Bahrain)..........................................................................6

1.3. Lập luận và phán quyết của tòa án......................................................................7

1.3.1. Lập luận của tòa án...........................................................................................7

1.3.2. Tòa đưa ra phán quyết đối với vụ tranh chấp như sau.....................................9

II. TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM...........................................................9

2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án...................................................................9

2.2. Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự..............................11

2.2.1. Phán quyết của cơ quan tài phán và vụ việc có liên quan..............................11

2.2.2. Lập luận của các bên......................................................................................11

2.2.3. Phán quyết của Tòa........................................................................................11

2.3. Quan điểm của nhóm.........................................................................................12

2.4. Bài học kinh nghiệm.........................................................................................14


3 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

I. TÓM TẮT VỤ VIỆC


1.1. Tóm tắt sự kiện
Bahrain và Qatar là hai nước liền kề, nằm phía Nam vịnh Ba Tư và mỗi nước
đều có một số đảo nhỏ lân cận. Năm 1976, nhằm giúp tìm kiếm giải pháp cho vụ
tranh chấp giữa hai quốc gia này, Quốc vương Saudi Arabia đã đứng ra làm trung
gian hòa giải với mong muốn có thể dàn xếp, giải quyết vụ việc này trong hòa bình.
Tháng 03/1983 một cuộc họp đã diễn ra với sự tham gia của cả ba bên và thông qua
một loạt các “Nguyên tắc khung cho việc giải quyết tranh chấp” (Principles for the
Frame-work for Reaching a Settlement). Trong đó, nguyên tắc đầu tiên quy định
rằng: “Tất cả các vấn đề tranh chấp giữa hai quốc gia liên quan đến chủ quyền đối
với các hòn đảo, đường biên giới biển và lãnh hải sẽ được xem xét như các vấn đề
không thể tách rời và phải được giải quyết cùng nhau một cách toàn diện”.
Năm 1987, Quốc vương Saudi đứng ra làm trung gian hòa giải và thuyết phục
được hai bên đồng ý ký vào thỏa thuận với một số nội dung mới do Quốc vương
Saudi đề xuất:
Thứ nhất, các vấn đề tranh chấp sẽ được chuyển đến cho Tòa án Công lý Quốc
tế (International Court of Justice) ở Hague giải quyết, để tìm kiếm một ràng buộc
cuối cùng đối với cả hai bên tranh chấp trong việc thực thi các điều khoản trong
phán quyết của Tòa.
Thứ hai, thành lập một ủy ban bao gồm đại diện của Qatar, Bahrain và Saudi
Aribia nhằm mục đích đưa vụ việc lên ICJ 1 và thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để
đưa vụ tranh chấp để từ đó ICJ có thể đưa ra được phán quyết cuối cùng có giá trị
ràng buộc đối với cả hai bên tranh chấp và cuối cùng: Khẳng định Quốc vương
Saudi Arabia sẽ tiếp tục vai trò trung gian hòa giải để đảm bảo cho việc thực thi các
điều khoản này.
Năm 1988, Bahrain đã gửi cho Qatar văn bản được gọi tắt là “Công thức
Bahrain” (Bahrain formula) với nội dung: “Các bên sẽ yêu cầu Tòa quyết định các
vấn đề liên quan đến quyền thuộc về lãnh thổ hay các vấn đề về sự tranh chấp nào
do khác biệt về lợi ích giữa các bên và vạch ra một đường phân định đơn nhất giữa
các vùng đáy biển, vùng đất tầng và vùng nước chồng lấn”. Thế nhưng chưa dừng

1
Toà án Công lý Quốc tế.
4 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

lại ở đó vào hai năm sau vấn đề tranh chấp trên lại một lần nữa được đưa ra để thảo
luận trong cuộc họp thường niên Hội đồng hợp tác các quốc gia Arab vùng Vịnh
(Cooperation Council of Arab States of the Gulf) tổ chức tại Doha 2 tháng 12/1990.
Khi đó, Qatar tuyên bố sẽ chấp thuận Công thức Bahrain với ba nội dung. Cụ thể là
khẳng định lại những gì đã được thỏa thuận trước đó giữa hai bên. Tiếp tục vai trò
trung gian hòa giải của Quốc vương Saudi Arabia giữa hai nước cho đến tháng
05/1991. Khi thời hạn này kết thúc, các bên có thể đưa vụ việc lên ICJ theo nội
dung Công thức Bahrain. Vai trò trung gian hòa giải của Quốc vương Saudi Arabia
sẽ tiếp tục trong suốt thời gian đưa vấn đề tranh chấp lên trọng tài và sau cùng là:
Nếu có một giải pháp hợp lý được đưa ra với sự chấp thuận với cả hai bên tranh
chấp thì vụ việc sẽ được rút khỏi trọng tài.
Sau tất cả, Quốc vương Saudi Arabia-với vai trò trung gian hòa giải vẫn không
thể giải quyết tranh chấp của hai nước, từ đó phát sinh vụ kiện giữa Qatar và
Bahrain vào ngày 08/07/1991.
1.2. Lập luận của các bên
1.2.1. Lập luận của nguyên đơn (Qatar)
Trước tiên, Qatar cho rằng việc trao đổi thư với Bahrain vào tháng 12/1987 đã
tạo nên một thỏa thuận quốc tế có hiệu lực ràng buộc quan hệ song phương giữa hai
nước.
Về Biên bản Doha (Doha Minutes), Qatar đã dựa vào 3 lập luận chính để
khẳng định giá trị pháp lý của Biên bản này và cho rằng Biên bản này được xem là
cơ sở để xác định quyền tài phán của Tòa án.
Thứ nhất, Biên bản Doha có tên là “biên bản” nhưng nó không chỉ đơn thuần là
một biên bản hội nghị giới hạn trong việc ghi nhận các sự kiện, các tình huống hay
các tuyên bố bởi vì nó còn liệt kê các quyền và nghĩa vụ nhằm tạo ra sự ràng buộc
về mặt pháp lý giữa các bên và do đó sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc tế theo Điều
2, Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế:
“Điều ước là một thoả thuận quốc tế được kí kết bằng văn bản giữa các quốc gia
và được luật pháp quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó
được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có
quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của các văn kiện

2
Thủ đô của Qatar.
5 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

đó”.
Thứ hai, bác lại lập luận của Bahrain cho rằng Biên bản Doha 1990 chỉ
đơn thuần là một tuyên bố ghi nhận thỏa thuận về chính trị (A statement recording
a political understanding), Qatar khẳng định rằng Biên bản năm 1990 rõ ràng
chứa đựng những điều khoản có giá trị pháp lí. Trong biên bản, hai quốc gia đã tán
thành việc cho đến hết tháng 05/1991 các bên có thể đưa vụ tranh chấp lên ICJ phù
hợp với Công thức Bahrain mà Qatar đã chấp thuận và các vụ kiện phát sinh kể từ
thời điểm đó. Hơn thế nữa, đây là văn bản khẳng định lại những gì đã thỏa thuận
trước đó, cụ thể là trong các bức thư trao đổi vào tháng 12/1987. Như vậy rõ ràng
Biên bản Doha mang bản chất pháp lý chứ không phải chỉ mang tính chính trị đơn
thuần.
Thứ ba, Qatar cho rằng giá trị ràng buộc và tính có hiệu lực của Biên bản
Doha là không thể phủ nhận bởi:
Đầu tiên, biên bản được kí bởi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao 3 nước, những người
có đây đủ thẩm quyền kí các điều ước quốc tế thay mặt quốc gia theo Điều 7.2.a và
Điều 12.1.b Công Ước Viên:
Điều 7.2.a: “Trong phạm vi chức năng và quyền hạn của mình, những người
sau đây được coi là đại diện cho quốc gia không cần xuất trình giấy uỷ quyền:
nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
trong việc thực hiện các hành vi liên quan đến việc kí kết điều ước”.
Điều 12.1.b: “Việc đồng ý của một quốc gia chấp nhận sự ràng buộc của một
điều ước được biểu thị bằng việc đại diện của quốc gia đó ký nếu có sự xác nhận
khác rằng, các quốc gia tham gia đàm phán đã thoả thuận là việc ký sẽ có giá trị
như vậy”.
Tiếp theo, việc Bahrain viện dẫn Khoản 1 Điều 37: “Amir3 sẽ ký kết các hiệp
ước bằng nghị định và sẽ chuyển chúng ngay lập tức tới Quốc hội với tuyên bố
thích hợp. Một hiệp ước sẽ có hiệu lực của pháp luật sau khi nó được ký kết, phê
chuẩn và công bố trên Công báo”. Hiến pháp Bahrain quy định các điều ước liên
quan đến các vấn đề lãnh thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi được
nội luật hóa, không thể được coi như một điều kiện để bác bỏ hiệu lực của Biên bản
Doha theo Điều 46.1 Công ước Viên vì trong Điều này quy định: “Một quốc gia
không được viện dẫn việc quốc gia này đồng ý chấp nhận sự ràng buộc của một

3
Nguyên thủ quốc gia Qatar.
6 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

điều ước là vi phạm quy định của pháp luật trong nước về thẩm quyền ký kết các
điều ước, để từ bỏ sự đồng ý của mình, trừ khi việc vi phạm này quá rõ ràng và
liên quan đến một quy định có tính chất cơ bản của pháp luật trong nước”.
Cuối cùng, để đảm bảo tính hiệu lực và giá trị pháp lí của biên bản, ngày
28/06/1991 Qatar đã gửi bản đăng kí Điều ước quốc tế lên Tổng thư kí Liên Hợp
Quốc phù hợp quy định Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc:
“1. Mọi hiệp ước hay hiệp định quốc tế, do bất cứ Thành viên nào của Liên
Hợp Quốc ký kết, sau khi Hiến chương này có hiệu lực, cần phải được đăng ký
càng sớm càng tốt tại Ban Thư ký và do Ban Thư ký công bố.
2. Không một Bên ký kết nào của bất kì hiệp ước hay hiệp định nào không
đăng ký theo quy định tại Khoản 1 Điều này có thể viện dẫn đến hiệp ước hay
hiệp định đó ra trước một cơ quan của Liên Hợp Quốc”.
Việc gửi bản đăng ký này đã hoàn toàn cho phép Qatar được quyền viện dẫn
đến biên bản này lên trước Toà và có thể khẳng định rằng biên bản này đã có hiệu
lực và giá trị pháp lý.
Với những lý do trên, Qatar khẳng định rằng Biên bản 1990 là những thỏa thuận
quốc tế có tính ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do đó ICJ có thẩm
quyền giải quyết vụ tranh chấp này.
1.2.2. Lập luận của bị đơn (Bahrain)
Bahrain nhận định rằng việc đưa tranh chấp lên Tòa án cần có sự đồng ý, thống
nhất của cả hai bên, việc Qatar đơn phương đưa tranh chấp lên Tòa án là không
đúng, trái với thỏa thuận của Biên bản 1990. Qua đó, việc đâm đơn kiện của Qatar
và quyết định của Tòa án sẽ không có hiệu lực nếu không có sự đồng ý của
Bahrain.
Ngày từ đầu Bahrain cho rằng Biên bản 1990 không phải là một thỏa thuận
quốc tế có tính ràng buộc và ý chí của các bên tham gia mới là yếu tố quan trọng
cấu thành nên tính ràng buộc giữa các bên. Theo Bahrain, Biên bản năm 1990 chỉ là
một văn kiện ngoại giao không có tính ràng buộc. Bộ trưởng Bộ ngoại giao Bahrain
đã không kí vào văn bản đó nếu ông biết được rằng văn bản đó sau này sẽ ràng
buộc Bahrain vào một văn kiện quốc tế hay điều ước quốc tế có tính ràng buộc.
Hơn nữa, về phía Qatar cho đến thời điểm nộp đơn, Qatar cũng chưa bao giờ
xem Biên bản 1990 là thỏa thuận quốc tế mang tính ràng buộc.
7 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

Thứ nhất, trong Hiến pháp Qatar quy định việc một điều ước quốc tế sẽ có hiệu
lực pháp lý sau khi đã được kí kết, thông qua và công khai. Tuy nhiên, phía Qatar
không có bất kì động thái giải thích hợp lí hay bất kì hành động thông qua hay công
khai nào đến Bahrain. Nếu Qatar thực hiện theo đúng những gì Hiến pháp yêu cầu,
thì mới chứng tỏ Qatar xem Biên bản 1990 là thỏa thuận quốc tế.
Thứ hai, Điều 17 Hiệp ước Liên hiệp các quốc gia Ả Rập 4 quy định “The
member States of the League shall file with the General Secretariat copies of all
treaties and agreements which they have concluded or will conclude with any other
State, whether a member of the League or otherwise - Các quốc gia thành viên của
Liên minh phải nộp các bản sao của tất cả các hiệp ước và thỏa thuận mà họ đã ký
kết hoặc sẽ ký kết với bất kỳ quốc gia nào khác cho Tổng thư ký, cho dù là thành
viên của Liên minh hay không”. Nhưng Qatar cũng đã không thực hiện theo quy
định trên.
Thứ ba, rõ ràng Qatar không có ý định xem các biên bản đó là thỏa thuận quốc
tế bởi vì chỉ vài tuần trước khi nộp đơn kiện thì Qatar mới đăng kí Biên bản 1990
như là một Điều ước quốc tế cho Tổng thư kí Liên Hợp Quốc theo Điều 102 Hiến
chương Liên Hợp Quốc.
Hiếp pháp Bahrain quy định rằng: “Các điều ước liên quan đến các vấn đề lãnh
thổ hoặc quyền chủ quyền chỉ có thể có hiệu lực khi được nội luật hóa”. Mặc dù Bộ
trưởng Bộ ngoại giao Bahrain có đủ thẩm quyền kí nhưng Qatar phải chứng minh
được rằng Biên bản 1990 sẽ có hiệu lực ràng buộc ngay sau khi kí. Vì những lí do
trên, Bahrain lập luận rằng Biên bản 1990 không phải là thỏa thuận quốc tế có tính
ràng buộc và được điều chỉnh bởi Luật Quốc tế, do đó ICJ không có thẩm quyền
giải quyết vụ tranh chấp này.
1.3. Lập luận và phán quyết của tòa án
1.3.1. Lập luận của tòa án
Xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong vụ kiện giữa Qatar và Bahrain
dựa vào nội dung năm 1987 do Quốc vương Saudi Arabia đứng ra làm trung gian,
nội dung Công thức Bahrain năm 1988 và những thỏa thuận mà hai bên đã kí kết để

4
Liên hiệp các quốc gia Arab là một tổ chức khu vực của các quốc gia Arab nằm tại và
xung quanh Bắc Phi, Sừng Châu Phi và bán đảo Ả Rập.
8 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

có thể đưa vấn đề tranh chấp của lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Suy ra những
văn bản trên là điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Qatar và Bahrain.
Nhận thấy rằng dựa vào các điều khoản của thỏa thuận trên, các bên đồng ý
trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh chấp của mình, như đã được kiến nghị bởi văn bản
do Bahrain đề xuất với Qatar vào ngày 26/10/1988, được chấp thuận vào tháng
12/1990 và được nhắc tới trong Biên bản Doha 1990 với cái tên “Công thức
Bahrain”. Quyết định trao cơ hội cho các bên để trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh
chấp. Ấn định ngày 30/11/1994 là thời hạn để tòa án đưa ra phán quyết của Qatar
và Bahrain. Bảo lưu các vấn đề khác cho tới các quyết định tiếp sau.
Công thức Bahrain xác định rõ Qatar và Bahrain đều đồng ý Tòa án có thẩm
quyền xét xử và giải quyết tranh chấp của hai bên.
Thứ nhất, Tòa án nhận thấy rằng Doha không đơn giản là biên bản. Trên thực
tế, Biên bản 1990 liệt kê ra các cam kết mà các bên đã chấp thuận thực hiện. Đồng
thời, thỏa thuận trên cho phép một bên đơn phương có thể yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp giữa hai bên.
Thứ hai, để trả lời cho nhận định của Bahrain, Tòa án không cho rằng việc xem
xét ý định của Bộ trưởng Ngoại giao Bahrain hay Qatar là quan trọng.
Thứ ba, đồng thời bác bỏ lý lẽ của Bahrain cho rằng các hành động của hai
nước cho thấy họ không hề coi Biên bản 1990 là một thỏa thuận quốc tế.
Thứ tư, Tòa án đồng thời ghi chú rằng vào thời điểm hiện tại Tòa chỉ có duy
nhất bản đơn kiện của Qatar với những lập luận tuân thủ đúng trong khuôn khổ
Công thức Bahrain (Bahrain formula).
Vì thế Biên bản 1990 tạo ra các quyền và nghĩa vụ trong luật quốc tế đối với
các bên, cấu thành một thỏa thuận quốc tế. Qua đó có thể khẳng định cả hai bên đã
chấp nhận việc Tòa án Công lý quốc tế có thẩm quyền quyết định các vấn đề chủ
quyền trên biển và vấn đề biên giới biển giữa hai bên. Đơn kiện của Qatar đưa ra
vào 08/07/1991 được chấp thuận.
9 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

1.3.2. Tòa đưa ra phán quyết đối với vụ tranh chấp như sau

Thứ nhất, nhận thấy rằng các bức thư trao đổi giữa quốc vương Arab và tiểu
vương Qatar vào ngày 19 và 21/12/1987, giữa quốc vương Arab với tiểu
vương Bahrain vào ngày 19 và 26/12/1987 và văn bản với tựa đề “Biên bản” được
bộ trưởng ngoại giao các nước Arab, Qatar và Bahrain ký kết tại Doha vào
ngày 25/12/1990, là các thỏa thuận quốc tế (điều ước quốc tế) tạo ra quyền và
nghĩa vụ cho các bên.
Thứ hai, nhận thấy rằng dựa vào các điều khoản của thỏa thuận đó, các bên đồng
ý trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh chấp của mình, như đã được kiến nghị bởi văn bản
do Bahrain đề xuất với Qatar vào ngày 26/10/1988 đã được chấp thuận vào tháng
12/1990 và được nhắc tới trong Biên bản Doha 1990 với cái tên “Công thức
Bahrain”.
Thứ ba, quyết định trao cơ hội cho các bên để trình lên Tòa toàn bộ vụ tranh chấp.
Thứ tư, ấn định ngày 30/11/1994 là thời hạn để các bên có hành động, dù chung
hay riêng rẽ, để đạt đến mục tiêu này.
Thứ năm, bảo lưu các vấn đề khác cho tới các quyết định tiếp sau.
II. TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM
2.1. Quan điểm của các học giả về vụ án
Về vấn đề giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain, Tiến sĩ Krista
E. Weigand – Phó Giáo sư khoa Khoa học Chính trị Đại học Georgia nhận xét đây
thực chất là một mô hình về mức độ lợi ích kinh tế và sự dự kiến hợp tác về các vấn
đề nổi bật có thể ảnh hưởng đến các quốc gia tranh chấp, vậy nên cả hai phía cần
thử cố gắng giải quyết tranh chấp trong hoà bình, tiêu biểu là thông qua giải quyết
của ICJ. Bà cũng giải thích lí do Qatar và Bahrain sẵn sàng giải quyết tranh chấp tại
ICJ, chấp nhận phán quyết và quan trọng nhất là thi hành các kết luận của Tòa án.
Bà lập luận rằng ba yếu tố chính thúc đẩy hai bên chấp nhận phương pháp giải
quyết tranh chấp thông qua phán quyết của ICJ là:
Đầu tiên, sự bất lực của các quốc gia theo luật Ả Rập Hồi giáo và GCC làm
trung gian tranh chấp.
Tiếp theo, trữ lượng dầu và khí tự nhiên đáng kể là động lực thúc đẩy hai bên
chấp nhận giải quyết tranh chấp tại ICJ.
10 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

Cuối cùng, động lực khích lệ song phương, hợp tác khu vực về các vấn đề nổi
bật giữa hai quốc gia.
Tranh chấp lãnh thổ không chỉ ngăn chặn sự tiếp cận an toàn cho mọi quốc gia
đối với những gì được dự kiến sẽ đóng vai trò quan trọng: dầu mỏ và khí đốt.
Nhưng cả hai quốc gia đã nhận ra rằng nếu họ không giải quyết tranh chấp lãnh thổ,
họ sẽ không thể hưởng lợi từ sự hợp tác trong rất nhiều lĩnh vực nổi bật khác, về cả
song phương và khu vực. Chính những nguyên nhân này đã thúc đẩy Bahrain và
Qatar chấp nhận đưa tranh chấp của họ ra ICJ để được Toà này giải quyết. Sau rất
nhiều cuộc đàm phán song phương nhưng nỗ lực hòa giải của thất bại của chính 2
phía trong cuộc.
Tranh chấp hàng hải và lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain là một phần của nhiều
tranh chấp kéo dài từ các phần lãnh thổ và ranh giới trên biển ở khu vực Vịnh Ba
Tư. Qatar và Bahrain đang cố gắng giải quyết tranh chấp lâu nay của họ đối với
quần đảo Hawar, bãi cạn Dibai và Qit'at Jaradah. Quốc vương Saudi Aribia - phía
trung gian, người đã cố gắng hòa giải và đã thành công trong việc thuyết phục các
bên đem vụ tranh chấp ra phía trọng tài hoặc giải quyết tranh chấp tư pháp. Năm
1983, hai bên cùng đồng ý tham khảo ý kiến của Saudi Arabia về việc sẽ tìm kiếm
một phán quyết ràng buộc của bên thứ ba nếu các cuộc đàm phán thất bại. Năm
1987, Qatar và Bahrain tiếp tục đồng ý với các đề xuất của Saudi để đưa vụ việc
của họ lên Tòa án Công lý Quốc tế. Điều này và các nghĩa vụ khác đã được xác
nhận lại trong biên bản đã được thống nhất trong cuộc họp năm 1990 giữa các bên.
Đồng thời, họ cũng đồng ý rằng sau một thời gian nhất định, “các bên có thể đệ
trình vấn đề lên Tòa án Công lý Quốc tế”. Vậy nên, những gì Qatar đã làm là đúng
theo quy định. Về phía luật sư/cố vấn/trọng tài độc lập người Mỹ Stephen M.
Schwebel, ngài cho rằng phía Tòa án đã không kiểm tra kỹ lưỡng việc soạn thảo
Biên bản Doha năm 1990, trong đó khả năng rõ ràng cho mỗi bên để chiếm giữ Tòa
án đã được sửa đổi thành một văn bản chỉ có nghĩa là “các bên”. Yếu tố này của
“travaux Prepatoires” đã khiến Thẩm phán Schwebel đưa ra kết luận và loại trừ một
yêu cầu đơn phương.
Ngài Shigeru Oda - luật sư nổi tiếng của Nhật Bản đồng thời giữ chức Thẩm
phán của Toà án Công lý Quốc tế lúc bấy giờ lại cho rằng Biên bản Doha không
cấu thành một thỏa thuận trong Khoản 1 Điểu 36 của Điều lệ của Tòa án. Thẩm
phán Pieter Kooijmans nhận xét, thuật ngữ “al-tarafan” và lịch sử soạn thảo phải
11 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

dẫn đến kết luận rằng đây là một yêu cầu đơn phương không được các bên tham
gia. Vì không có hành động chung nào của Bahrain và Qatar được thực hiện nên họ
cho rằng Tòa án không có thẩm quyền.
2.2. Quan điểm của Tòa án hoặc đương sự về vụ việc tương tự
2.2.1. Phán quyết của cơ quan tài phán và vụ việc có liên quan
Phán quyết của Tòa án Công Lý Quốc tế đối với vụ tranh chấp đảo Pulau
Ligitan và Pulau Sipadan giữa Malaysia và Indonesia năm 2002.
Pulau Ligitan và Pulau Sipadan là hai đảo nhỏ không có dân cư sinh sống, giá
trị kinh tế không lớn, tranh chấp từ năm 1969 do cả hai quốc gia đều viện dẫn
quyền sở hữu từ thời phong kiến (hồi thế kỷ XVI), điều ước quốc tế thời thuộc địa
nhưng không được ICJ công nhận nên hai nước đã viện dẫn nguyên tắc chiếm hữu
thật sự trước năm 1969 để khẳng định chủ quyền.
2.2.2. Lập luận của các bên
Lập luận của Indonesia: Indonesia viện dẫn báo cáo của tàu Hà Lan khẳng định
hai đảo thuộc quyền sở hữu của Hà Lan, các cuộc điều tra thủy văn xung quanh hai
đảo, cuộc viếng thăm của hải quân, ngư dân có truyền thống đánh bắt xung quanh
hai đảo.
Lập luận của Malaysia: Malaysia cho rằng thời thuộc địa Anh đã thu thập, quản
lý, kiểm soát trứng rùa trên đảo từ năm 1914, có pháp lệnh bảo tồn rùa, giải quyết
tranh chấp liên quan đến thu thập trứng rùa, cấp phép cho tàu đánh cá xung quanh
đảo, xây hải đăng và trợ giúp đường biển cho hai đảo mà Indonesia không phản
đối. Sau thời thuộc địa, Malaysia đã luôn khẳng định chủ quyền trong quá trình
đàm phán với Indonesia về thềm lục địa trong khi Indonesia không quan tâm đòi
chủ quyền hai đảo. Malaysia cũng đã khai thác du lịch, giữ an ninh, bảo vệ môi
trường cho Sipadan đến thời điểm 1997, hai đảo là khu bảo tồn của Malaysia.
2.2.3. Phán quyết của Tòa
Indonesia không có hoạt động lập pháp đối với đảo, đạo luật năm 1960 và bản
đồ kèm theo không đề cập đến hai đảo, chuyến đi của tàu Hà Lan được xác định là
hoạt động chung của Hà Lan và Anh để chống cướp biển, việc đánh bắt cá chỉ là
hoạt động tư nhân vì không có quy định của Chính phủ, Indonesia đã không thể
hiện có ý định thiết lập chủ quyền. Malaysia đã điều tiết, kiểm soát trứng rùa, thực
12 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

hiện kế hoạch dự trữ gia cầm cho quốc gia là hoạt động thẩm quyền hành chính nhà
nước trên các đảo. Việc xây hải đăng chỉ dẫn giao thông thường không liên quan
đến quyền lực nhà nước, nhưng tiền lệ vụ tranh chấp giữa Qatar và Bahrain cho
phép Tòa xác định hoạt động này là phù hợp với các đảo nhỏ. Bên cạnh đó là sự im
lặng của Indonesia. Tòa cho rằng với hoạt động của Anh, Malaysia kế thừa đã bao
gồm cả hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, nó diễn ra trong thời gian dài,
thể hiện ý định thực thi quyền lực nhà nước đối với hai đảo. Malaysia thắng kiện.
2.3. Quan điểm của nhóm
Theo nhóm, việc Qatar trình sự việc lên Tòa án Công lý Quốc tế về tranh chấp
biển đảo giữa Qatar và Bahrain vô cùng hợp lí, có thể giải quyết được vụ việc công
bằng cho cả hai bên. Việc Bahrain cho rằng Tòa Án Công Lý Quốc Tế không có
thẩm quyền để xử lí vụ án vì chỉ xem Biên bản 1990 là văn kiện ngoại giao là hoàn
toàn không đúng. Hơn nữa nhóm khẳng định rằng Tòa án Công lý Quốc tế hoàn
toàn có thẩm quyền để giải quyết vụ tranh chấp của Qatar và Bahrain, bởi:
Đầu tiên, nói về “Bức thư 1987” và “Biên bản 1990”: Bức thư 1987 được Qatar
và Bahrain chấp thuận có đề xuất với nội dụng như sau: “Các vấn đề tranh chấp sẽ
được chuyển đến cho Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), để tìm kiếm một phán quyết
ràng buộc cuối cùng đối với cả hai bên tranh chấp trong việc thực thi các điều
khoản trong phán quyết của Tòa”. Điều này chứng tỏ các bên đã chấp nhận trình
lên ICJ để giải quyết tranh chấp. Thêm vào đó, trong Biên bản 1990 có nêu rõ:
“Khi thời hạn này kết thúc, các bên có thể đưa vụ việc lên ICJ phù hợp với Công
thức Bahrain mà Qatar đã chấp thuận”. (Cụ thể ở đây là sau thời hạn 05/1991).
Như vậy, có thể nói Bức thư 1987 và Biên bản 1990 đã tạo ra các quyền và nghĩa
vụ quốc tế đối với các bên.

Thứ hai, việc Bahrain cho rằng Toà án Công lý Quốc tế không có thẩm quyền
để giải quyết vụ án và xem các Biên bản 1990 là văn kiện ngoại giao là hoàn toàn
không đúng (Bahrain cho rằng các bên đã ký kết vào Biên bản 1990 nhưng cả hai
bên đều không có ý định tạo ra thỏa thuận ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa hai
bên). Nhưng căn cứ theo Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1969 “Thuật ngữ
“điều ước” dùng để chỉ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn
kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể
13 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

tên gọi riêng của nó là gì” thì Biên bản 1990 thỏa mãn đầy đủ điều kiện trở thành
điều ước quốc tế. Đồng thời việc Bahrain đã đồng ý ký kết vào văn bản cũng có
nghĩa đã chấp nhận bị ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ theo Khoản 1 Điều 12
Công ước Viên 1969 “Sự đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước biểu thị bằng
việc đại diện của quốc gia đó ký kết”.

Như vậy có thể rút ra kết luận Biên bản 1990 được xem là điều ước quốc tế vì
đã đáp ứng đầy đủ điều kiện theo Điểm a Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên quốc tế:

Là văn bản

Được ký kết giữa các quốc gia

Quy định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan theo luật quốc tế và được
điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế

Không phụ thuộc vào tên gọi

Thứ 3, ICJ có thẩm quyền xem xét và giải quyết các “tranh chấp về thẩm quyền
của Toà”. Việc chấp thuận thẩm quyền xét xử của ICJ có thể được thực hiện theo
những cách thức sau đây:

Chấp thuận thẩm quyền xét xử của ICJ theo thoả thuận của các bên tranh chấp
đối với từng vụ tranh chấp cụ thể. Trong trường hợp này, các quốc gia tranh chấp
thường kí “thoả thuận đặc biệt” hay còn được gọi là “thoả thuận thỉnh cầu” đề nghị
ICJ giải quyết vụ tranh chấp cụ thể.

Chấp thuận thẩm quyền xét xử của ICJ theo tuyên bố đơn phương của các quốc
gia. Hành vi này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia. Theo Quy chế
của ICJ, quốc gia có thể đơn phương tuyên bố chấp thuận thẩm quyền xét xử của
ICJ hoặc rút lại tuyên bố này hoặc tuyên bố không chấp nhận thẩm quyền xét xử
của ICJ vào bất kì lúc nào.

Từ đó có thể thấy trong vụ tranh chấp của Bahrain với Qatar ICJ hoàn toàn có
thẩm quyền giải quyết. (Cụ thể Bức thư 1987 và Biên bản 1990 có thể xem là “thoả
thuận đặc biệt” hay còn được gọi là “thoả thuận thỉnh cầu” thêm vào đó ngày
08/07/1991, Qatar tiến hành các thủ tục để đưa vụ kiện lên ICJ điều này chứng tỏ
rằng Qatar đơn phương chấp nhận thẩm quyền xét xử của ICJ đối với vụ việc).
14 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

2.4. Bài học kinh nghiệm

Có hai loại lợi ích hay quyền lợi quốc gia của Việt Nam tại Biển Đông hiện nay
đó là chủ quyền đất đai trên nhiều đảo và đá tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, hai là lợi ích hay quyền đối với những vùng nước và đáy biển dưới mặt nước tại
Biển Đông gồm có chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và
trong thềm lục địa. Trong đó, tranh chấp về chủ quyền trên lãnh thổ ngoài biển, như
tranh chấp chủ quyền một hòn đảo thì không nằm trong phạm vi giải quyết tranh
chấp của Công ước Luật biển năm 1982. Vì vậy, trong tranh chấp về chủ quyền các
đảo, quần đảo tại Biển Đông chỉ có thiết chế tài phán ICJ mới có thể xét xử vấn đề
này. Tuy nhiên, việc chấp nhận thẩm quyền của ICJ đòi hỏi thiện chí của các bên
tranh chấp. Trong tình hình hiện nay, với khả năng lớn là Trung Quốc sẽ không
chấp nhận việc đưa tranh chấp giữa các bên ra ICJ, Việt Nam có thể xin ý kiến tư
vấn của Tòa án cho vấn đề này. Theo Điều 65 Chương IV Quy chế ICJ thì “Tòa có
thể cho ý kiến tư vấn về bất cứ vấn đề pháp lý nào của bất cứ ai có quyền xin, theo
Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Vì vậy, Việt Nam có thể xin ý kiến tư vấn của ICJ
về tranh chấp chủ quyền trên đảo với Trung Quốc.
Ngoài ra cần có sự nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực về chính trị, địa lý, địa chất,
kinh tế, quốc phòng, ngoại giao để có hệ thống giải pháp đồng bộ, hiệu quả trong
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Đồng thời,
cần có những hành động thực thi chủ quyền một cách thường xuyên, liên tục trong
thời điểm hiện tại.

Đối với yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc: Việt Nam có thể kiện
Trung Quốc về việc cố tình giải thích và áp dụng sai Công ước luật biển năm
1982. Bởi theo quy định của Liên hợp quốc, việc có thành viên giải thích và áp
dụng sai Công ước luật biển mà các bên liên quan không thể đi đến thống nhất sau
khi đàm phán thì có quyền đơn phương kiện lên cơ quan tài phán quốc tế. Việc
giải thích và áp dụng sai này được thể hiện ở đường biên giới “lưỡi bò” chiếm
85% diện tích Biển Đông mà Trung Quốc đơn phương vô lý đưa ra. Bắc Kinh liên
tục có những động thái để hợp thức hóa đường biên giới vô căn cứ này.
Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện các hành động về mặt hành chính như
đưa các tàu thuyền Hải giám, Ngư chính hay Hải quân tuần tiễu cà thực hiện các
hoạt động trong phạm vi của đường “lưỡi bò”. Gần đây nhất là việc tỉnh Hải Nam
15 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

đưa ra quy định bắt buộc các tàu thuyền đánh cá nước ngoài khi đi vào vùng biển
này phải xin phép, chịu các quy định của họ nếu không sẽ bị bắt, bị phạt, tịch thu
phương tiện, sản phẩm. Qua đó có thể thấy được nỗ lực hợp thức hóa đường biên
giới vô căn cứ của Trung Quốc. Trong khi đó, các nhà phân tích, các chính khách
quốc tế đều lên tiếng phê phán quan điểm này. Vì vậy Việt Nam hoàn toàn có căn
cứ để kiện Trung Quốc về việc giải thích và áp dụng sai Công ước về luật biển năm
1982 của Liên Hợp Quốc.
Đối với vụ giàn khoan HD 981, Việt Nam có thể thưa kiện Trung Quốc ra Tòa
với các vấn đề sau:
Tuyên bố việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 cùng tàu hộ tống vào khai
thác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Tuyên bố việc Trung Quốc dùng tàu của mình ngăn cản các tàu chấp pháp của
Việt Nam thực hiện quyền kiểm tra, khá xét giàn khoan HD 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam là hành vi vi phạm quyền tài phán của Việt Nam.
Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng an toàn 3 hải lý và cấm các loại tàu
bè đi vào vùng biển có bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan HD 981 và đâm
vào các tàu chấp pháp của Việt Nam, dùng vòi rồng tấn công... là vi phạm quyền tự
do hàng hải, đe dọa an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực của Việt
Nam và các nước trên thế giới, theo đó vùng an toàn tối đa cho một thiết bị và công
trình trên biển chỉ là 500m.
Tuyên bố việc Trung Quốc thiết lập vùng nước quần đảo hoặc vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa cho các đảo ở quần đảo Hoàng Sa không phù hợp.
Tóm lại, Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng các biện pháp giải quyết tranh
chấp bằng tài phán để đưa giải pháp hiệu quả bên cạnh đó, việc phối hợp với biện
pháp ngoại giao nên được ưu tiên áp dụng. Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang
là một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm. Chuỗi
những diễn biến trong tranh chấp trên biển Đông đã đưa vấn vượt ra ngoài phạm vi
khu vực. Vì vậy, bên cạnh việc áp dụng các biện pháp pháp lý, Việt Nam cần kết
hợp với chính sách ngoại giao cương quyết nhưng không kém phần mềm dẻo, linh
hoạt, phân biệt và tranh thủ sự ủng hộ của các chủ thể cũng như dư luận quốc tế để
không chỉ ngăn ngừa căng thẳng leo thang đến “bên miệng hó chiến tranh”, mà còn
16 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

nhanh chóng đạt được một kết quả chính đáng, phù hợp với căn cứ lịch sử và pháp
luật quốc tế.
17 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

Danh sách tài liệu tham khảo


1) Sách và Giáo trình:
 Trần Thị Thùy Dương, Nguyễn Thị Yên, giáo trình Công pháp Quốc tế
(Quyển 1), NXB Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam,2015.
 Luận văn thạc sĩ Luật học “Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp biên giới
lãnh thổ trên biển thông qua tài phán Quốc tế” của Mai Hạnh Trang.
 The Qatar v. Bahrain Marritime Delimination and Territorial Questions
Case by Barbara Kwiatkowska, 2003.
2) Văn bản và Luật Quốc tế.
 Vũ Duy Khang, Hệ thống văn bản Pháp luật Quốc tế và Việt Nam, NXB
Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam,2017.
 Hiến pháp của Qatar:

http://almeezan.qa/LawView.aspx?opt&LawID=4360&language=en

 Hiến pháp Bahrain:


http://www.servat.unibe.ch/verfassungsvergleich/ba01000_.html

 Hiến chương Liên Hợp Quốc

 Hiệp Ước Liên Hiệp các quốc gia Arab.

 Quy chế Tòa án Quốc tế.

 Công Ước luật biển 1982.

3) Báo và tạp chí:


 Chấm và vạch trong biển Đông: nhìn nhận từ Luật chứng cứ bản đồ.
 Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and
Bahrain (Qatar v. Bahrain).
 Bahrain, Qatar and the Hawar Islands: Resolution of a Gult Territorial
Dispute of Krista Weigand - University of Tennessee.
 Tiểu luận: Vụ việc liên quan đến phân định biển và các vấn đề lãnh thổ
giữa Qatar and Bahrain.
 Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc họ đặt dàn
khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam.
18 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.
19 TP. Hồ Chí Minh, 09/05/2019.

You might also like