You are on page 1of 6

Chủ đề: tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp trên biển đông của các

quốc
gia trên thế giới hiện nay là gì ?Việt nam có thể học hỏi những gì ? nhìn
thẳng vào tình hình thực tế của Việt Nam, Việt Nam đã áp dụng những biện
pháp giải quyết vấn đề tranh chấp biển với Trung Quốc như thế nào?

A. MỞ ĐẦU

Chúng ta có thể thấy vấn đề tranh chấp trên biển hiện nay không còn quá xa lạ.
Tranh chấp ở biển đông là vấn đề rất nhậy cảm, được hầu hết các quốc gia quan
tâm, trong đó có Việt nam. Chủ yếu những tranh chấp này đều xuất phát và liên
quan đến lợi ích kinh tế, chủ quyền của các quốc gia. Những biện pháp mà các
nước thường sử dụng để giải quyết vấn đề đó là gì? Việt nam cần làm gì ? vận
dụng như thế nào để giải giải quyết vấn đề thực tiễn của mình? Phương hướng
giải quyết mà Việt Nam luôn ưu tiên là gì? Vì vậy, để trả lời cho những câu hỏi
trên nên nhóm chúng em đã quyết định lựa chọn đề tài “tìm hiểu thực tiễn giải
quyết tranh chấp trên biển của các quốc gia trên thế giới hiện nay là gì ?Việt
nam có thể học hỏi những gì ? Nhìn thẳng vào tình hình thực tế của Việt Nam,
việt nam đã áp dụng những biện pháp giải quyết vấn đề tranh chấp biển với
Trung Quốc như thế nào?”

B. NỘI DUNG

1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên biển đông của các quốc gia trên thế
giới hiện nay.

Theo luật pháp, thông lệ và thực tiễn quốc tế, giải quyết các tranh chấp trên
biển giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình có thể hiểu là:Giải quyết
các tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình (song phương hoặc đa phương)
trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau
nhằm đi tới một giải pháp công bằng cho tất cả các bên; Giải quyết các tranh
chấp thông qua trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế,
như: Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án Quốc tế về Luật Biển và các tòa trọng
tài khác. Một cách cụ thể hơn, Công ước 1982 còn quy định: bất kỳ một
tranh chấp nào giữa các quốc gia thành viên, trước hết, phải được giải quyết
thông qua trao đổi quan điểm và hòa giải. Nếu sau một khoảng thời gian hợp
lý nhất định mà tranh chấp chưa được giải quyết thì các bên có nghĩa vụ bắt
buộc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp tư pháp. Công ước 1982 cho phép
các bên có quyền lựa chọn một trong bốn cơ chế, gồm: Tòa án Công lý quốc
tế, Tòa án quốc tế về Luật biển, Trọng tài theo phụ lục VII và Trọng tài theo
phụ lục VIII. Nếu các bên không lựa chọn một trong số bốn cơ chế nêu trên
thì Trọng tài theo phụ lục VII là cơ chế bắt buộc được sử dụng để giải quyết
tranh chấp. Thực tiễn quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới (thậm chí
cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao hết sức thân thiện với nhau) sau một
thời gian đàm phán không đạt kết quả đã đưa tranh chấp đó ra giải quyết tại
các tòa án quốc tế và nghiêm chỉnh thực hiện, nhưng cũng có trường hợp cá
biệt không thừa nhận và chấp hành các phán quyết của tòa. Các vụ điển hình
đã được giải quyết tại Tòa án Công lý quốc tế là: phân định vùng đặc quyền
kinh tế ở vịnh Mên giữa Mỹ và Ca-na-đa năm 1984; giải quyết tranh chấp
chủ quyền các đảo giữa Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a năm 2003, giữa Xin-ga-
po và Ma-lai-xi-a năm 2008, v.v. Việc Phi-líp-pin đưa tranh chấp trên Biển
Đông với Trung Quốc ra Tòa án Trọng tài quốc tế được thành lập theo phụ
lục VII của Công ước 1982 và được Hội đồng Trọng tài ra phán quyết vào
năm 2016 cũng là một biện pháp giải quyết các tranh chấp trên biển bằng
biện pháp hòa bình, được cộng đồng quốc tế hoan nghênh và ủng hộ.

2. Bài học kinh nghiệm giành cho Việt Nam.

Từ những thực tiễn giải quyết tranh chấp biển trên của các quốc gia,
nhìn vào đó Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học cho Việt Nam trong
việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia
trên biển . Cụ thể là:
Thứ nhất, Việt Nam cần tiếp tục kiên trì thực hiện nghĩa vụ tìm kiếm
phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp kiềm chế quản lý tranh chấp,
để tranh chấp không bùng nổ thành xung đột bạo lực. Không Sử dụng vũ
lực hay đe doạ sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp về vấn đề biển
đông; ưu tiên giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình; dựa
trên cơ sở pháp lý yêu cầu Trung Quốc phải hành động một cách phù
hợp với các tuyên bố chính thức cũng như các nghĩa vụ của quốc gia
mình là tôn trọng pháp luật quốc tế; phải chấm dứt các hành vi sử dụng
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trên biển,chấm dứt các hành vi làm phức
tạp leo thang tranh chấp như quân sự hóa các đảo đang bị tranh chấp và
thay đổi nguyên trạng ở Biển đông.
Thứ hai: giải quyết các tranh chấp thông qua cơ quan tài phán quốc tế
Việt Nam cần chủ động trong việc sử dụng quyền lựa chọn và quyết
định biện pháp giải quyết tranh chấp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và
bản chất của tranh chấp và các quy định của pháp luật quốc tế; chủ động
lựa chọn việc sử dụng các biện pháp tài phán và cơ quan tài phán quốc tế
giải quyết tranh chấp làm cơ sở đề nghị với bên kia khi các biện pháp
đàm phán hay phi tài phán khác không đạt được hiệu quả; chủ động đề
xuất biện pháp giải quyết tranh chấp cho đến khi nhận được sự đồng ý
của bên kia ; công khai bày tỏ sẵn sàng giải quyết tranh chấp tại Biển
thông thông qua một cơ quan tài phán quốc tế. Dù bên kia có đồng ý hay
không thì điều này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện rõ
Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế sẵn sàng
trở thành một bên trước Tòa để phân xử đúng sai.
Thứ ba: để giữ vị thế bình đẳng và chủ động quá trình giải quyết tranh
chấp Việt Nam cần phải có những chuẩn bị chu đáo cho việc giải quyết
tranh chấp và tranh tụng tại cơ quan tài phán quốc tế, ưu tiên đào tạo đội
ngũ chuyên gia về luật quốc tế có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao;
Thứ tư, Việt Nam cần phải luôn tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế trong
công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình; cần vận động các bên
liên quan cùng thực hiện các biện pháp tăng cường vai trò của ASEAN
trong quản lý xung đột ở biển đông,...

3. Từ tình thực tế tranh chấp biển giữa Việt Nam và Trung Quốc; một số
biện giải quyết tranh chấp biển đông giữa Việt Nam với Trung Quốc hiện
nay.
3.1. Tình hình thực tế tranh chấp biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Thực tế tranh chấp tồn tại trên biển giữa Việt Nam với Trung quốc trước
hết là  hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nổi lên từ sau Chiến tranh
Thế giới thứ II và leo thang với mức độ khá nghiêm trọng, nhất là từ cuối
thập niên đầu thế kỷ XXI. Ngoài hai quần đảo trên, tranh chấp biển Đông
còn mở rộng ra cả vùng biển phía Nam đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên
gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei.
Gần đây nhất, ngày 02/5/2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương
981 (HD 981) vào định vị khoan tại vùng biển, nằm hoàn toàn trong vùng
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn (Quảng
Ngãi) của Việt Nam khoảng 120 hải lý, mà tại đó, Việt Nam được hưởng
các quyền của một quốc gia ven biển theo quy định của Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Hơn nữa, chưa đầy hai tháng từ khi
đặt giàn khoan HD 981, Trung Quốc điều thêm bốn giàn khoan nữa vào
biển Đông; Tranh chấp nội vùng đường lưỡi bò của Trung Quốc áp đặt,...
Như vậy, có thể thấy rằng, tranh chấp biển Đông trở nên phức tạp và bị
đẩy lên mức độ ngày càng gay gắt trong những năm gần đây. Tranh chấp
không chỉ bắt nguồn từ mâu thuẫn hay tồn tại tranh chấp về chủ quyền
lãnh hải do lịch sử để lại và quyền tài phán đối với các vùng đặc quyền
kinh tế, mà còn xuất phát từ sự đan xen lợi ích, mưu cầu địa chính trị,
trước hết là quản lý, kiểm soát tuyến hàng hải, hàng không chiến lược và
nguồn tài nguyên giàu có, đặc biệt là dầu mỏ tại khu vực này.
3.2. Một số biện giải quyết tranh chấp biển đông giữa Việt Nam với
Trung Quốc hiện nay.

Trước những tranh chấp biển Đông với Trung Quốc vốn tồn tại nhiều
thập kỷ, Việt Nam đã và đang kiên trì theo đuổi các biện pháp giải quyết
tranh chấp mang tính ngoại giao, cụ thể là đàm phán song phương, đàm
phán đa phương.

Riêng với tranh chấp liên quan đến giàn khoan HD 981, cho đến nay,
Việt Nam đã hai lần gửi thư lên Liên Hợp Quốc vào ngày 28/5/14 và
ngày 06/6/2014, kèm theo Công hàm của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi
Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phản đối việc Trung Quốc tiếp tục duy trì
giàn khoan HD 981 và các tàu hộ tống trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam. Ngày 03/7/2014, Việt Nam tiếp tục gửi thư
lên Liên Hợp Quốc đề nghị lưu hành văn bản phản đối Trung Quốc như
là những tài liệu chính thức của Đại hội đồng LHQ.

Hơn nữa, Việt Nam đang nỗ lực để tối đa hóa vai trò của ASEAN, cân
nhắc đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế và thúc đẩy hợp tác với các cường
quốc khác để tăng cường vị thế và tạo lợi thế trong cân bằng với Trung
Quốc trên biển Đông.

3.3. Một số biện pháp áp dụng có hiệu quả.

Trước tình hình tranh chấp căng thẳng đang leo thang trên biển Đông,
một số chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng, khi các giải pháp
chính trị ngoại giao mà Việt Nam đã, đang và sẽ kiên trì áp dụng nhưng
không hiệu quả thì giải pháp giải quyết bằng các tài phán là cần thiết, vì
đây cũng là một trong những biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp
quốc tế đã được quy định tại Điều 33 của Hiến chương LHQ.
Thứ nhất, với nội dung giải thích và áp dụng Công ước 1982 trong hai
tranh chấp HD 981 và “đường lưỡi bò”, cơ chế giải quyết tranh chấp theo
Công ước sẽ được sử dụng. Theo đó, có 4 cơ quan được liệt kê là (1) Tòa
quốc tế về Luật biển được thành lập theo Phụ lục VI; (2) Tòa án Công lý
quốc tế; (3) Tòa Trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII để
giải quyết một hay nhiều tranh chấp đã được quy định rõ trong đó; (4)
Tòa Trọng tài quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII. trong cả hai tranh
chấp “đường lưỡi bò” và HD 981, Việt Nam có thể bác bỏ được quan
điểm của Trung Quốc và xác lập thẩm quyền của cơ quan tài phán bắt
buộc theo Công ước 1982. Do đó, Việt Nam có thể đưa tranh chấp
“đường lưỡi bò” và HD 981 ra giải quyết tại Tòa Trọng tài quốc tế. Đây
là đề xuất cho việc giải quyết tranh chấp về việc giải thích và áp dụng
Công ước 1982

Thứ hai, đối với tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, cần lưu ý rằng những tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo
này không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước 1982. Như vậy, Việt
Nam có thể cân nhắc đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa án Công lý quốc tế.
Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tại Tòa án Công lý quốc tế thì không đơn
giản. Như đã trình bày ở trên, tòa này chỉ có thể giải quyết tranh chấp nếu
Việt Nam khởi kiện và Trung Quốc cũng chấp nhận giải quyết hoặc, Việt
Nam và Trung Quốc thỏa thuận đồng yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp
thì tòa án mới có thẩm quyền giải quyết. Đây là khả năng rất khó xảy ra
trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, trong rủi ro luôn tiềm ẩn cơ hội, nếu
Việt Nam có động thái khởi kiện và Trung Quốc không chấp nhận giải
quyết vụ kiện này tại Tòa án Công lý quốc tế, thì có thể coi đây là dấu
hiệu Trung Quốc đuối lý để chúng ta tích cực đấu tranh trên các phương
tiện truyền thông, tạo hiệu ứng gián tiếp nhằm cô lập Trung Quốc về
ngoại giao về vấn đề biển Đông.

C. KẾT LUẬN

Tổng kết lại, ta thấy rõ tranh chấp biển đông là vấn đề không còn là xa lạ
với các nước nó dễ dàng xảy ra với các quốc gia có biển, các tranh châp
xảy ra đều rất khó giải quyết. Việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp cũng cần phải được các nước trú trọng quan tâm. Giải quyết phải
đảm bảo ổn định trật tự, hòa bình quốc tế, không được có các hành đồng
gây hấn hay dùng vũ lực để giải quyết. Còn đối với Việt Nam cần nghiên
cứu kỹ lưỡng các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán để đưa
giải pháp hiệu quả nhất, bên cạnh đó, việc phối hợp với biện pháp ngoại
giao nên được ưu tiên áp dụng. Biển Đông nổi sóng hay yên bình đang là
một vấn đề được tất cả các quốc gia trong khu vực và thế giới quan tâm.
Chuỗi những diễn biến trong tranh chấp trên biển Đông đã đưa vấn đề
vượt ra ngoài phạm vi khu vực. Vì vậy, bên cạnh việc áp dụng các biện
pháp pháp lý, Việt Nam cần kết hợp với chính sách ngoại giao cương
quyết nhưng không kém phần mềm dẻo, linh hoạt, phân biệt và tranh thủ
sự ủng hộ của các của chủ thể cũng như dư luận quốc tế để không chỉ
ngăn ngừa căng thẳng leo thang đến “bên miệng hố chiến tranh”, mà còn
nhanh chóng đạt được một kết quả chính đáng, phù hợp với căn cứ lịch sử
và pháp luật quốc tế.

You might also like