You are on page 1of 16

Những dấu ấn đó, đã tạo nên bước trở mình vĩ đại.

Trên tấm chiếu Thơ Mới, nhiều “thi dân” trẻ


đã ghé ngồi, với vô số những đứa con tinh thần được khoác lên mình “pháp y” tân thời từ thi liệu,
thi pháp, thi cảm và thi hứng. Dưới trời Nam, thành tựu một vẻ đẹp ngoạn mục của thi ca. Nơi
cửa Khổng sân Trình đã có sự lung lay đến đốn tận chân rễ trước sức càn của mưa Âu gió Mỹ, và
tất nhiên Khổng Giáo đã đổ rạt trước tinh thần khoa học và dân chủ của Âu Châu.

Có vô số sự cất lời sinh động trong thơ, những bài thơ mới chào đời, đã khuấy động không khí
học thuật đương thời và thực sự là một “cơn sốt vỡ da” cho nền thi ca nước nhà. Đi từ sinh môi
nhãn giới sang tâm giới, từ khuynh hướng đạo lý sang tâm lý, từ sự vuông thành sắc cạnh sang
muôn sắc ngàn màu, Thơ Mới là sự ý/ nhận thức mới về cái tôi, tính nổi loạn trong phẩm tính của
tạo tác nghệ thuật. Thơ Mới đã xuất hiện vô số giọng điệu trong thơ, không chỉ có những băn
khoăn, rạo rực, âu sầu thương thảm mà ngay cả sự đọa lạc, bổ báng cũng được xướng họa một
cách đầy tự do. Đó chính là đích thực của nghệ thuật khi đã được cởi trói khỏi những khuôn đổ cổ
truyền đã đúc sẵn. Khi cái tôi lên ngôi thì gương mặt nhà thơ được khắc họa rõ nét, cá tính đã làm
nên sự khác biệt trong từng diện mạo và sự nhận thức lại về cái đẹp lần này đã tạo nên một “big
bang” kiến lập và đổi mới tư duy nghệ thuật.

Giữa những cái tên lừng lẫy trong chiếu thơ đương thời, có một giọng thơ đầy si ám, chìm mỵ.
Đôi khi trong đẹp đến vô ngần, nhưng chủ yếu là những ảm đạm, thê lương của một nhà thơ tài
năng bạc mạng. Một hồn thơ đang rỉ máu, giẫy dụa, ngập ngụa trong nỗi đau thể xác và cả cõi
tinh thần cũng như chiều sâu bi kịch. Hàn Mạc Tử, chỉ sống vẻn vẹn hai tám năm trên dương thế
với sự “trừng phạt” của thượng đế, khi thân mệnh đeo mang căn bệnh quái ác. Chàng trở thành
“Con hủi” bị phụ rẫy, đơn độc chống lại những đớn đau. Và trong sự tồn tại oằn oại đó, nỗi đau
đã cự quậy, phập phồng, in máu trên những vần thơ: Một mai kia ở bên khe nước ngọc/ với sương
sao anh nằm chết như trăng/ không nhìn thấy nàng tiên mô đến khóc/ đến hôn anh và rửa vết
thương lòng… (Duyên kỳ ngộ)

Lời tiên tri lúc còn sống đã thành thực, Hàn đã nói lời tạ từ với thế tục tang tóc vào ngày
11/11/1940. Mộ Hàn ở Ghềnh Ráng- Quy Nhơn, được đặt ở một nơi có sương, sao và khe nước
ngọc, đi lên bằng con dốc “Mộng Cầm” (Xuân Diệu gọi là dốc “Mai Đình”). Tâm hồn tinh tế bẩm
sinh của Hàn đã tưởng về hình ảnh nấm mồ của mình y như trong những vần thơ khi còn tại thế.
Trong khuôn khổ bài viết tôi thành tâm nỗ lực giải mã một số ảnh tượng nghệ thuật xuất hiện
trong thơ Hàn, để hiểu được tiếng nói nội cảm ấn tượng và đầy huyền diệu trong thơ của một nhà
thơ bạc mệnh bậc nhất trên sân khấu Văn Học nước nhà.

Trăng đã đi vào văn học rất nên thơ, trăng chứa một kho tình khôn cạn, trăng mộng mơ vuốt ve
mái đầu thiếu nữ và là bạn đồng minh muôn thưở, để tâm hồn mộng du nào đó giải mạch phô bày
những nỗi niềm tâm sự sâu kín. Trăng gắn liền với đêm, càng rực rỡ hơn khi đi vào khuya khoắt,
trăng là “hư linh” dẫn dắt linh hồn vào cõi mộng mỵ man sơ. Đêm xuống, giữa mênh mông trống
trải, khi thân bệnh rĩ máu, để quên đi đớn đau, linh hồn Hàn dường như đã bứt lìa thân xác đi theo
trăng, neo bóng trăng già mà hoan thai những vần thơ: Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm/
Cho trăng ngập dần lên tới ngực (Hồn là ai).

Nếu như trăng thường đi vào thơ ca bằng hình ảnh của hòa bình, của dịu êm, của ánh sáng khát
vọng bình yên hoặc gợi nét buồn u nhã. Thì với Hàn Mạc Tử, trăng dường như lạnh lẽo, xa cách
và đượm vẻ cô tịch, hoang liêu. Trăng trong cảm thức của thi nhân như dòng chảy suối vàng, tưới
tắm cho mộng mỵ tâm tưởng và rỉ ứa nỗi đau, làm cho tê tái điên dại linh hồn:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Say Trăng)

Trăng đã câu thông với tâm hồn Hàn, một tâm hồn đã hứng chịu nỗi đau đến can tràng tấc đoạn.
Trăng đọng thành vũng, làm tổ trong tim, ngâm nhúng linh thể trong hận sầu hôn ám. Dường như
ánh trăng đã trở thành dung dịch chứa đầy sự tẩy rửa, ăn mòn úng hoại những mảng linh hồn.
Cảm tưởng trăng với linh hồn Hàn cũng như phong hủi với thân xác, làm héo quắt thân người,
vữa nát ửng đỏ, tróc trầy rụng thịt trên cơ thể bạo bệnh. Cơn đau đã hóa thân trong thơ thành
những chủng tử ngôn từ, hình tượng quái dại, cuồng điên. Bởi thế, thơ Hàn trở thành bữa tiệc
trăng máu với mảnh hồn cô đơn quạnh quẽ, khiến cho ai đọc thơ chàng cũng như đang đi qua tận
cùng của nỗi đau tận thế. Hàn đã sáng tạo nghệ thuật ở thời điểm nóng nhất như cục than đương
lúc sắp tàn, để giọng thơ độc dị được cất lời sinh động. Lần dở từng trang thơ, ta như thấy triển
hiện hình ảnh hồn phách Hàn đang đằm trong trăng nước, tuy đã hoại hình nhưng vẫn tươi màu.

“Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy

Cho nên muôn dặm ở ngoài kia

Em đang mong mỏi, em đang nhớ

Bứt rứt lòng em muốn trở về”

(Thao thức)
Trăng trong thơ Hàn dùng để nói về sự chia ly, giữa người với người, giữa mộng với thực, giữa
hồn với xác, giữa trần thế và âm phủ. Đôi khi trăng như bóng ma lướt qua bầu trời, mờ ảo, mơ hồ
như phủ màu tang, hay hóa tro tàn. Trăng của Hàn luôn trong trạng thái lững lờ, trôi lãng vô định,
dường như đồng dạng với tâm thức Hàn, tâm thức một kẻ đang lưu đày trong bệnh tật hoang dại,
sự vin níu nơi cõi trần là mong manh yếm thế. Trăng Hàn luôn trong tư thái đợi chờ, đợi chờ một
bóng hình trong nỗi khao khát, mênh mông mà dường như không đến, không xuất lộ. Hàn như
trăng, những hành nhân nẻo vắng cô thân chỉnh ảnh, đơn phương ôm mang một bóng hình.

“Ánh trăng mỏng quá không che nỗi

Những vẻ xanh xao của mặt hồ”

(Huyền ảo)

“Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu

Đội gió đông về để lã lơi”

(Bẽn lẽn)

Hôm nay có một nửa trăng thôi

Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi

Ta nhớ mình xa thương đứt ruột

Gió làm nên tội buổi chia phôi

(Một nửa trăng)

Tôi cho rằng hai câu thơ dưới đây là hay nhất, độc đáo nhất của thơ Hàn nói riêng và biểu tượng
trăng trong văn học nói chung. Trong lòng thuyền thường có khoảng không chứa nước, và là vật
chứa đựng in bóng hình trăng, nhưng càng khuya khoắt thì trăng lặn sao mờ, không còn ánh trăng
cất trong mạn thuyền nếu người không đến. Trăng là ám thị cho thương nhớ khôn nguôi, cho đợi
chờ trường cửu. Và dấu chấm hỏi được đặt cho một kết thúc tứ thơ, cũng đã rõ ràng câu trả lời,
người không đến, và trăng vẫn “sõng soài trên cành liễu đợi chờ” chờ trong thao thức, trong
hoang hoãi, trong “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn vỹ dạ)

Ngoài cảm thức về nỗi đau và sự tuyệt vọng, vong thân. Trăng Hàn Mạc Tử cũng có lúc làm dịu
mát thân thể, tưới nguội lửa sầu mà ve vuốt cho những sợi tơ dục cảm tươi nguyên: Ô kìa bóng
nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe (Bẽn lẽn); Ta thích len vào trong đám
lau/ Núp chờ trăng xuống để quàng nhau (Mơ).

Dường như trăng đã trở thành đối tượng để ham muốn, để cuồng quyến, để giao thức xuất lộ
những ái ân. Trăng trở thành đối tác tình tứ, vén trần những góc khuất rất con người, đó là những
chi tiết nhân sinh xuất hiện trong thơ Hàn Mạc Tử. Nỗi đau của thân xác Hàn cũng từ trăng mang
tới, trăng rọi vào những mảng cùi trên thân thể như lưỡi bén cắt sâu nghiệt ngã. Nhưng giữa mênh
mông, trong đáy thẳm cô độc, kẻ thù cũng hóa tình nhân, trăng trở thành người hò hẹn, cũng
chính là kẻ gợi khổ, gọi đớn đau, gợi miền xác thịt về bên thi nhân.

Song trùng với trăng trong thơ Hàn là gió, nước, hương trời, là cành liễu, nhành hoa. Tất cả
những sự vật đã đã tồn tại lưu niên, lưu cửu với những trầm lặng, xót xa. Những sự vật đó luôn
biến thiên, vô định nhưng qua quy chiếu tâm hồn thi nhân thì dường như kết ngưng, hoặc chuyển
động ì oặp, lênh đênh biển trời: “Trăng bay lả tả trên cành vàng” (Rượt trăng); “Mà sao trăng
khói hửng hờ/ vì trăng ta phải ngồi chờ suốt đêm” (Đêm Trăng). Trăng của Hàn luôn trĩu nặng,
quặn thắt, thổn thức, phập phồng, khắc khoải, khô khát: “Ta căm với tiếng reo khô/ Ta buồn với
liễu bên hồ ngẩn ngơ/ Ngông cuồng đi hái vần thơ/ Yêu đương rót nước để chờ trăng lên/ Bóng
hằng trong chén nằm nghiêng/ Lã lơi tắm mát làm duyên gợi tình.” (Uống trăng). Hàn cố nắm
bắt, cố chứa đựng, cố vớt lên, buộc giữ nhưng dường như trăng cứ tan loãng trong vũng lầy của
miền kí ức: “Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng/ Mỗi ảnh mỗi
hình thêm phiếu diễu/ Nàng xa xôi quá nói nghe chăng” (Huyền ảo). Vượt khỏi quy luật sống
chết, trăng trở thành tín ngưỡng đẹp nhất trong lòng thi nhân, dẫu hư ảo, phiêu tán và đầy hồ
nghi, mất mát. Bởi vì Trăng trở thành đồng minh cho sự phù du, thoáng chốc của một linh hồn đã
siêu thăng, mặc dầu ngọn đèn sự sống vẫn còn hắt hiu.

Những vần thơ trăng của Hàn Mạc Tử dẫu được dựng hệ hình thắt buốt, thư phù, nhưng cách kết
nối ngôn từ lại tạo nên giai điệu bồng bềnh, lỏng lẻo, phiêu diêu theo bất tận, rồi tự hủy, tự phân
rã. Không gian, thời gian trong thơ Hàn Mạc Tử là đêm trăng, bởi vì trạng thái sống của Hàn Mạc
Tử thời điểm bạo bệnh (cũng là thời điểm sáng tạo dữ dội nhất của hồn thơ thi sĩ) là trạng thái
nằm yên bất động trong trại hủi rêu phong, ngắm nhìn diện mạo của trời đất phẳng lặng, mênh
mông, linh hồn phiêu bồng theo trăng nơi đầu sóng ngọn gió. Trăng trong thơ Hàn vì thế cũng
trong tâm thái nằm chờ giờ chót.

Hàn Mạc Tử hiểu trăng hơn ai hết và trăng cũng là kẻ nhẫn nại im nghe những thổn thức dưới đáy
thẳm hồn cốc của thi nhân: “Cả miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan/ Ta nhả ra
đây một nàng/ cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây” (Một miệng trăng). Trăng ngậm vành núi
bạc, nhà thơ ngậm trăng khỏa lấp miệng khát. Ở đây có hình ảnh gái hồng nhan, đó như là một sự
phiếm chỉ cuộc đời của chính nhà thơ “vẫn mệnh bạc mà chẳng má hồng”. Có hai nhà thơ, hai kẻ
mộng du, kẻ nằm từ trên cao nhìn xuống mặt đất, có một linh hồn ảo não đang buông dần hơi thở,
kẻ nằm ngước lên ngắm diện mạo của giải ngân hà và bóng trăng già đơn côi, theo cơn mơ ngàn
năm đợi. Thế nhưng tất cả là không sao với tới, chạm tới, Trăng và Hàn vẫn buộc phải hững hờ,
chỉ được nhìn nhau mà vĩnh ly trùng biệt, bởi vì “hai hòn đá lạnh làm sao sưởi ấm được cho
nhau”. Một kẻ cô độc không muốn nhìn thấy một kẻ cô độc khác, đang sống trong nỗi cô độc.
Cho nên Hàn ngậm trăng, uống trăng rồi cũng nhã trăng ra, mửa máu trăng, chứ không thể nào
uống cạn chén trăng đầy. Còn trăng đã gieo mình xuống dòng giếng cạn tự trầm…: “Ta hoảng
hồn, ta hoảng vía, hoảng điên/ nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên” (Trăng tự tử).

Dẫu hóa thân để trải nghiệm nhiều cảm trạng khác nhau, thì trăng trong thơ Hàn vẫn mang hình
hài thương hoang. Một bóng ma chứa đựng đầy nỗi cam uất, mãi mãi không thoát siêu, vẫn đọng
lại đó những giọt nước mắt hoài mộng. Tuy đã sống tự ngàn đời nhưng vầng trăng đã chết non,
như Hàn Mạc Tử chết non ở ngưỡng cửa ba mươi. Đáng ra, cánh chim nghệ thuật còn bay cao
hơn nữa, chứ không phải đột ngột gãy cánh giữa đà bay như thế. Những bóng hồng qua đời chàng
vẫn còn ở lại, nhưng “kẻ rao trăng” thì đã khăn gói biệt ly, để lại đó những vần thơ ưu uất, lưu
cửu đến muôn đời.
BIỂU TƯỢNG “TRĂNG” TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
BIỂU TƯỢNG “TRĂNG” TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
Bùi Ánh – CH18

1.1 . Mở đầu
Trải qua một thời kỳ khá dài trong lịch sử văn học trung đại, thơ ca không thể thoát ra khỏi những
quy phạm chặt chẽ của thể loại. Và phải đợi đến những năm 1932 – 1945 của nền văn học Việt
Nam hiện đại, thơ ca mới có bước bứt phá làm chuyển động, rạn nứt cả hệ thống nền tảng kiên cố
về thi pháp thể loại. Phải nói rằng, Việt Nam tự hào về một thời đại thơ ca có một không hai trong
lịch sử nước nhà. Một thời đại mà Vũ Ngọc Phan đã hãnh diện khi đưa ra nhận định: mười năm
của ta bằng mấy mươi năm của người. Vì thế, trong rất nhiều công trình nghiên cứu của các tác
giả đều đi đến một kết luận: Phong trào thơ mới là một cuộc cách mạng trong thơ ca, mang một
quan niệm hoàn toàn mới mẻ, quan niệm về cá nhân, cái tôi biểu hiện với một tinh thần duy lý
phương Tây. Thơ mới ra đời đã xóa đi luật lệ xưa cũ cứng nhắc, trên tinh thần đổi mới toàn diện.
Thơ mới đã sáng tạo ra những thể thơ mới và cải tạo, nâng cấp các thể thơ truyền thống. Nói đến
sự thành công rực rỡ của thơ mới là phải nói đến sự nhiệt thành, tâm huyết, say mê lao động sáng
tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ, với mong muốn mang lại diện mạo mới cho nền văn học nước
nhà.
Trong khoảng thời gian ra đời, phát triển và suy thoái của mình, phong trào thơ mới đã tồn
tại nhiều trường phái sáng tác: Lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, … Với những đại biểu xuất sắc
như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, LeiBa, … . Trong số đó nhà thơ
mới Hàn Mặc Tử được xem là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt nhất trong
phong trào thơ mới. Từ Gái quê, Lệ thanh thi tập, Đau thương đến Xuân như ý, Thượng thanh
khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội (kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ văn
xuôi) chỉ trong vòng từ 1935 – 1940 ông đã làm một cuộc hành trình văn học bằng một thế kỷ,
mở đầu là thơ bát cú đường luật và cuối cùng là những bài thơ chứa đựng nhiều yếu tố tượng
trưng, siêu thực. Một điều đặc biệt hơn nữa là mỗi tập thơ của ông để lại gắn liền với từng giai
đoạn, biến cố của cuộc đời. Với Gái quê mọi thứ đều dịu dàng, mơ mộng, chất phác, trẻ trung thì
Đau thương mọi cảm quan trong Gái quê hoàn toàn tan biến bù lại đó là những hồn, máu, trăng,
một tâm hồn bị ám ảnh bởi bệnh tật. Đau thương không còn chứa đựng những yếu tố lãng mạn,
hồn nhiên như trong Gái quê mà chứa đầy những yếu tố siêu thực, tượng trưng. Đến Xuân như ý,
Thượng thanh khí thì hồn thơ của thi sĩ càng ngày càng xa khỏi thế gian và mọi thứ tình tứ của
đời thường với một lối thơ bí hiểm khó mà suy nghiệm cho ra nghĩa. Thơ ông bám chặt với cuộc
sống trần thế đầy đau khổ, bệnh tật nhưng lại có một sức hút kỳ diệu. Qua các tập thơ, người đọc
nhận ra thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới khác thường, đau đớn, quằn quại, khát khao sống với
những Hồn – Máu – Trăng. Vì thế, Hồn – Máu – Trăng cứ trở đi trở lại trong thơ ông với một
cường độ dày đặc, nó như là biểu tượng cho sự sống còn của sự nghiệp sáng tác của chính thi sĩ.
“Hàn Mặc Tử là nhà thơ viết rất nhiều, rất hay và rất say về trăng. Trăng trong thơ ông kỳ ảo,
biến hóa vô cùng và có khi như là ý nguyện tha thiết muốn vươn tới cái đẹp, cái hoàn mỹ mà
không đạt được” [3, Tr 10]. Đọc thơ ông ta mới thấy được hàng loạt những ý niệm qua hình
tượng trăng.
1.2. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới bởi nó là một
khái niệm chứa đựng nhiều bí ẩn và mang trong bản thân nó cả trường ý nghĩa. Trên thực tế, khái
niệm này là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau.
Theo Từ điển tâm lý học (Vũ Dũng – NXB Khoa học xã hội - 2000) thì “Biểu tượng là hình
ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri
giác, biểu tưởng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng
liên quan đến quá khứ và tương lai”
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là
hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn ghi lại trong đầu óc khi
tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt”
Biểu tượng là một khái niệm quen thuộc nhưng đây lại là một khái niệm vào loại phức tạp
và chưa có sự đồng thuận trong cách hiểu cũng như cách sử dụng. Tổng hợp những thành tựu mĩ
học, lý luận văn học Macxit, các soạn giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa Biểu
tượng như sau: Theo nghĩa rộng biểu tượng thể hiện “đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng văn học nghệ thuật”. Theo nghĩa hẹp thì biểu tượng là “một phương thức chuyển mã của
lời nói” đặt bên cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt “có khả năng
truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan
niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về con người và cuộc đời”.
Như vậy, hiểu một cách đơn giản và ngắn gọn thì Biểu tượng là một hình ảnh tượng trưng,
có ý nghĩa rộng lớn hơn chính bản thân nó. Mỗi biểu tượng phải khái quát được một phạm vi bao
quát rộng lớn những hiện tượng, sự vật trong cuộc sống. Nếu biểu tượng không mang lại cho ta
một ý nghĩa rộng hơn “cái biểu đạt” thì nó được coi là những hình ảnh thuần túy mà thôi chứ
không được coi là biểu tượng. Hơn nữa, ý nghĩa của biểu tượng phụ thuộc vào biên độ và khả
năng sáng tạo của nhà thơ.
Bàn về biểu tượng thơ Hegel cho rằng : “Biểu tượng nên thơ là một biểu tượng có hình
tượng, bởi vì biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu tượng của cái
hiện thực cụ thể”. Vì lẽ đó mà trong thơ ca biểu tượng đóng một vai trò hết sức to lớn. Biểu tượng
giúp người nghệ sĩ thể hiện một cái gì đó ngoài bản thân nó, lớn hơn ý nghĩa thông thường của
nó. Đồng thời, nó mang phong cách độc đáo và dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.

1.3. Những biểu tượng nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử
Với quan niệm: Sáng tạo thơ là hành động nhà thơ đi vào trong cõi mơ ước, trong “huyền diệu”,
trong “sáng láng” và vượt hẳn ra ngoài cõi “hư linh”. Đó là một thế giới “siêu thần”, một cõi
“tiềm thức”, những bờ bến xa lạ của “cảm giác”. Đồng thời, đó còn là “một cõi vô hình cao tột
bậc được xây dựng bởi trăng sao”. Và để đến được với cõi thế giới bí ẩn và xa lạ ấy thì không chỉ
được cảm nhận bởi giác quan thông thường mà phải thông qua các biểu tượng và sự tương ứng
với các giác quan. Vì thế, khi tiếp cận với thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta bắt gặp những hình tượng
nổi bật như Hồn – Trăng – Máu. Những biểu tượng này xuất hiện với một cường độ dày đặc và
thường xuyên trong suốt hành trình sáng tác của thi sĩ họ Hàn. Trong số đó, Trăng là biểu tượng
độc đáo và kỳ dị nhất. Nó được phóng chiếu từ nhiều góc độ và mang một “phong cách” trăng rất
riêng, rất khác lạ. Vì thế có người đã từng viết: Trăng, Hồn, Máu không còn là những ý niệm trừu
tượng, chúng là những hình hài đầy nhục cảm, những linh hồn đầy đau thương. Không chỉ dừng
lại ở ý nghĩa là một cách giãi bày “chân thành” như cách nghĩ thông thường về thơ trữ tình,
những hình tượng này là sự “thoát xác”, vượt ra ngoài cái thân thể hạn hẹp, cố định để sống tột
cùng trong những cuộc đời khác, những cảm giác khác. Bản thân hồn cũng là một sinh thể, tách
biệt với thể xác, là một “kẻ lạ” với thể xác và trong hồn không ngừng chia tách những linh hồn
mới. Nếu hồn ứng với tinh thần, thì máu ứng với thể xác con người, với sức nóng và sự sống vượt
trội.
Chúng ta biết rằng, hình ảnh trăng là đối tượng được nhiều thi nhân ở mọi thế hệ, mọi thời đại
lĩnh hứng, miêu tả dưới nhiều bình diện khác nhau. Ở mỗi nhà thơ trăng mang một vẻ đẹp, một
nỗi niềm riêng. Trăng trong thơ Nguyễn Du gợi tình, gợi cảnh. Trăng trong thơ Xuân Diệu đem
lại cảm giác bâng khuâng nhẹ nhàng cho người đọc. Còn với trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là cả
một thế giới đầy bí ẩn, dị thường. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang
một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:
Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi
(Bẽn lẽn)
Bản thân hình ảnh trăng cũng là một biểu tượng đa nghĩa. Xuất phát từ những đặc tính tự nhiên,
là thiên thể ban đêm, trăng thường gợi nên hình ảnh của cái đẹp, của ánh sáng trong khoảng
không mênh mông tăm tối. Và nó cũng chính là biểu tượng của cái gì đó siêu thoát bên ngoài mà
con người không thể vươn tới.
Bên cạnh đó, Hồn cũng là một hình ảnh đầy ấn tượng và kỳ lạ. Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử xuất
hiện với một tần số khá cao (62 lần) và có sức ám ảnh mạnh mẽ. Trong suốt hành trình thơ Hàn
Mặc Tử chúng ta thấy biều tượng Hồn xuất hiện như một nỗi ám ảnh đến rợn người, khó nắm bắt.
Chính nó cũng đã làm cho thi nhân phải thốt lên:
Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết
Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười
Hồn vội mớm cho tôi bao ánh sáng

Hồn là ai? Là ai? Tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay
Hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc”
(Hồn là ai)
Theo quan điểm của tôn giáo, hồn là một thực thể tinh thần thiêng liêng và là phần quý giá nhất
của con người. Khi con người chết đi thì linh hồn sẽ kìa khỏi thân xác và không bao giờ bị phân
hủy như thể xác. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài Hồn lìa khỏi xác:
…Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Hồn mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngã
Và kêu rên thảm thiết khắp bao la

Ôi! Hồn thiêng không hề chết đặng
Làm sao hồn chẳng hiểu nghĩa vô biên
Ngày tận thế là ngày thôi tán loạn
Xác của hồn, hồn của xác y nguyên
Hồn là biểu tượng của sự sống, nó hội tụ đầy đủ đặc điểm của một con người và là phần không
thể thiếu để làm nên con người. Vì thế, nó có mối liên hệ ràng buộc với sinh mệnh. Trong nỗi đau
đớn đến tột cùng khi nhà thơ đang cận kề với cái chết, đang phải đối diện với giờ hấp hối sắp chia
phôi thi sĩ Hàn đang đón đợi, cầu xin một sự tưởng nhớ rất chân thành:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả?
Xin để tang anh đến vạn ngày
(Trút linh hồn)
Xa lìa thể xác, hồn vượt ra ngoài vũ trụ để đi tìm Hương cho thơm ứ đầy hơi khoái lạc, để được
Tắm gội ở trong nguồn ánh sáng và ca những điệu ngọc vàng sang sảng:
Hồn hỡi hồn, lên nữa quá thinh gian
Tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực

Hồn hỡi hồn, bay ra ngoài kia mức
Nơi thiên sầu địa thảm giới Lâm Bô
Say máu ngà, say nữa tới chừng mô
Cả vũ trụ tan theo ngày phán xét
Là khủng khiếp cả đất trời tiêu diệt…
(Ngoài vũ trụ)
Nỗi đau khổ vì bệnh tậ dày vò đã hành hạ thân xác thi sĩ nhưng chính nó
lại cung cấp cho nhà thơ một năng lực sáng tạo vô biên.
Với Hàn Mặc Tử, Tôi làm thơ?
Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều
hết sức giữ bí mật …
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cản được lòng tôi?
Chính quan niệm đó đã khơi nguồn cho một biểu tượng khác vốn được xem là khá thành
công và độc đáo trong thơ ông – đó chính là biểu tượng máu, động lực thúc đẩy sự sáng tạo.
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
Như mê man chết điếng cả làn da
(Rướm máu)
Máu – biểu tượng của sự ám ảnh triền miên, dâng trào tràn ngập cả hồn thơ. Nó cuộn chảy tuôn
trào trong thân xác nhà thơ, trong sự đau đớn đến tột cùng đã ngưng tụ lại, đọng thành vũng rồi
tan chảy trong sự sáng tạo:
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh
(Rướm máu)
Lời thơ ngậm cứng không rền rỉ
Mà máu tim anh vọt lai láng
(Lưu luyến)
Chính sự đau đớn, hoảng loạn, tuyệt vọng này đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng cứng tựa si
(Những giọt lệ)
Máu cũng chính là thứ tinh lực được vắt kiệt để dâng tặng cho thơ, cho đời.
Xinh dâng này máu đang tươi
Này đây nước mắt giọng cười theo nhau
(Bến Hàn Giang)
Thơ Hàn Mặc Tử chính là những bông hoa nở trong màu huyết:
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru
Một khối tình nức nở giữa âm u
Một hồn đau rã lần theo hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi
Một lời run hoi hóp giữa không trung
Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng
Hoá thành vũng máu đào trong ác lặn
(Trường Tương Tư)
Những biểu tượng Trăng, Hồn, Máu là sự tượng hình hoá tình trạng “cả thể xác lẫn linh hồn tan
rã” của Hàn Mặc Tử . Hay nói cách khác, đó chính là sự phân rã của bản thể người trong một
cảnh ngộ bi đát. Bị “cầm tù” trong những dày vò cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần, sự phân rã
này là một tất yếu mang tính bi kịch, nó tô đậm hơn nỗi đau thương của thi sĩ Hàn Mặc Tử,
nhưng đồng thời, đó cũng chính là một hành động giải phóng và tự giải phóng. Từ đây, Hàn Mặc
Tử có thêm bạn đồng hành, cũng là những phương tiện để soi ngắm thế giới trong một cảm quan
và một chiều kích mới.
1.4 Biểu tượng “Trăng” trong thơ Hàn mặc Tử
1.4.1 Trăng – biểu thị nỗi khổ đau cùng tận
Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một “linh vật” rất huyền nhiệm, kỳ lạ. Dưới
mắt ông, Trăng là một thực thể có linh hồn. Chừng như ông nghe được hơi thở, bước đi, sự
chuyển dịch của bóng trăng. Đồng thời, Trăng như là “người” thấu hiểu tất cả nỗi đau đớn trong
lòng thi nhân và cả những tâm tư tình cảm. Trăng như là hình tượng không thể thiếu trong văn
học từ xưa tới nay: Trăng như là nhân vật chứng kiến mọi biến động của xã hội, đồng thời còn là
nơi để cho con người thổ lộ mọi tâm trạng, mọi nỗi niềm.
Từ Trăng trong ca dao:
Vầng Trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Rồi trăng trong thơ Trung đại:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
(Truyện kiều – Nguyễn Du)
Đến thời hiện đại, trăng cũng là một nhân vật không thể thiếu của các nhà văn, nhà thơ.
Trăng như là trung tâm điểm để cho các thi sĩ khai thác, đào bới dưới nhiều góc cạnh khác nhau.
Với Xuân Diệu, trăng như một vật chứng chứng kiến tình yêu của hai người:
“Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi đi với người yêu qua nhè nhẹ…
Im lìm, không dám nói năng chi”
(Trăng)
Còn với Đoàn Thị Lam Luyến, Trăng được hình tượng hóa như là người tình luôn đồng
hành cùng thi nhân.
Đầy vơi con nước vì Trăng đấy
Biển đã duềnh lên, biển bạc đầu
Ai biết mối tình thiên niên kỷ
Ta là Trăng - Biển tự trong nhau
(Trăng và Biển)
Nhưng với Hàn Mặc Tử thì khác, Trăng trong thơ ông chính là Hồn và Máu của ông. Hàn
Mặc Tử đã phải sống trong những cơn đau triền miên khủng khiếp, một nỗi đau rùng rợn đến vô
biên. Vì thế nhà thơ muốn:
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực
(Hồn là ai)
Thơ ông là những dòng đầy máu lệ, đầy tiếng gào thét. Chính “Trăng, ánh trăng đã để lại những
cảm giác vật chất lên thân xác Hàn Mặc Tử” [1; Tr 229]. Điều đó cho chúng ta thây, trăng trong
thơ ông có tính chất hai mặt: vừa vật chất vừa tinh thần, vừa trần tục lại vừa thiêng liêng. “Hàn
Mặc Tử đi trong trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên những
tiếng ghê người…” [1; Tr 206]. Nhà thơ đã không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh ghê gớm của nó,
lúc nó tối tăm, lúc nó chói lòa như hai mặt đối lập của Thiêng đàng và Địa ngục. Trong một
Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. Rồi Ngả nghiêng đồi cao
bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Chính cái sự đau đớn về thể xác, bệnh tật đã khiến cơ thể ông hao gầy, suy nhược nhưng đó
lại là dòng suối khơi nguồn cho mọi cảm hứng sáng tạo vô biên. Ở Hàn Mặc Tử, đau thương
đồng nghĩa với sáng tạo, nó như là phương tiện để đưa nhà thơ lên đến cung bậc cao nhất của
nghệ thuật.
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ
(Đà Lạt trăng mơ)
Trăng như một cái gì đó hữu hình song hành cùng nhà thơ để cho nhà thơ được nuốt, được
uống, được ngậm rồi giao hoan cùng nó, hóa thân vào nó:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngữa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mữa máu ra
(Say trăng)
Sự đau đớn, dày vò về thể xác bởi căn bệnh quái ác đã có lúc khiến cho nhà thơ không còn nhận
thức được sự sáng tạo nghệ thuật của chính mình: Tôi điên tôi viết như người dại/ Vang lạnh
không gian xóa những ngày. Ông quan niệm nhà thơ như một vị “trích tiên” bị đày đọa xuống cõi
bơ vơ lạc lõng và phải chịu một thứ “Định mệnh tàn khốc theo riết bên mình”. Và thơ “là một
tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ”. Đã có lúc nhà thơ như một người hoảng
loạn, vô ý thức:
Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên
Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên
(Trăng tự tử)
Hay:
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian
Tuy nhiên chúng ta cần phải biết rằng “điên” ở đây không phải là một trạng thái bệnh lý mà
là sự thăng hoa cao độ của sự sáng tạo nghệ thuật. Ở trạng thái đó, con người rơi vào trạng thái
xuất thần, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Đã có lúc nhà thơ lại đoạn tuyệt với trăng, lạnh
lùng rao bán như một vật phẩm có trong tay:
Trăng! Trăng! Trăng! Là trăng, Trăng, Trăng!
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
(Trăng vàng Trăng ngọc)
Hình ảnh trăng đã được nhà thơ làm mới đi, mang một phong cách độc đáo và lạ lùng,
trăng như một thứ định mệnh gắn kết với nhà thơ. Trăng nhiều lúc lẫn trong máu huyết, lai láng
gợi cảm giác ớn lạnh. Trăng thực sự trở thành biểu tượng của một sự thác loạn tâm hồn. Nó chính
là biểu tượng của sự đau khổ khi con người uất ức đến tuyệt đỉnh, nó như là vực thẳm đày đọa
tâm hồn thi sĩ. Và Máu – Hồn – Trăng chính là hiện thể của đau thương, của nỗi đau khổ trần gian
và kiếp người mà thi sĩ phải chịu nhận.
1.4.2 Trăng – biểu thị nỗi cô đơn tuyệt đối
Hẳn ai cũng biết rằng, thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử đã phải sống một cuộc sống cuối đời đầy đau
khổ, cô đơn. Với cái tuổi ngoài đôi mươi mà thi sĩ phải sống cách ly với gia đình, xã hội và ngậm
đắng đón chịu những trận dày vò về thể xác của bệnh tật. Đặc biệt là sự tha thiết yêu đương mà
phải cách ly với cả người yêu nhưng vẫn một lòng yêu người chung thủy. Đau khổ hơn nữa là
đang ở độ tuổi xuân xanh, tràn đầy sức sống mà phải mà phải chịu cảnh không biết sống chết
ngày nào, thậm chí giờ phút nào, trong thân hình “tan rữa” vì bệnh tật . Hàn Mặc Tử cảm thấy
ghê sợ nỗi cô đơn của một con người bị tách khỏi đồng loại:
Chao ơi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời!
Trong cảnh cô đơn tuyệt vọng ấy, nhà thơ khao khát đón nhận những tín hiệu yêu thương cứu
giúp của mọi người:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai...
Hay:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương lòng.
(Duyên kỳ ngộ)
Cái xa cách, nỗi cô đơn, tuyệt vọng đó đã khiến cho nhà thơ phải thốt lên:
Ta đang khao khát tình yêu thương
Cất tiếng kêu vang trong im lặng
Tiếng va vào núi, dội quanh vùng
(Tiếng vọng)
Và cũng chính hính sự khao khát đó lại càng tạo nên cảm giác bơ vơ, vắng bặt, càng làm cho nhà
thơ có cảm giác như đang sống trên một ốc đảo giữa biển vắng đại dương mênh mông:
Từ ấy anh ra đi
Bóng trăng vàng dải cát
Cánh cô nhạn bơ vơ
Liệng dưới trời xanh ngát

Từ ấy anh ra đi
Em gầy hơn vóc liễu
Em buồn như đám mây
Những đêm vừng trăng thiếu
(Nhớ nhung)
Sự cô đơn đó đã đẩy lên đến tột đỉnh biến nỗi cô đơn thành sầu vạn cổ:
Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may
(Sầu vạn cổ)
Rồi chính trong nỗi lòng tê lạnh thiếu vắng tình đời đó nhà thơ phải tự đối thoại với chính tâm
hồn mình, xem đó như là một lẻ sống ở đời của bản thân:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Sự cô đơn mà thi sĩ Hàn phải gánh chịu chính là những chuỗi ngày dài đau khổ và thương
khó. Trăng không còn nguyên vẹn tròn trịa, không còn thơ mộng như trong thơ lãng mạn mà
trăng đã bị khuyết, bị cắn vỡ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi
(Một nửa trăng)
Thi sĩ Hàn đã cố gắng đến cùng để diễn tả chân thực những biểu hiện tinh vi trong thế giới tâm
linh của mình nhưng càng đi sâu vào vực thẳm không cùng đó, thi sĩ càng đi xa và tạo nên một sự
khác biệt đối với mọi người. Và chính cái sự khác biệt này lại làm nên một phong cách thơ độc
đáo, một “hồn thơ dị biệt” Hàn Mặc Tử. Vì thế mà Chế lan Viên đã từng nói: "Tôi có thể cam
đoan với các người rằng, tất cả những cái gì tầm thường hiện thời rồi sẽ tan biến hết, và sau này
trong tương lai còn lại một cái gì của thế hệ chúng ta đang sống, đó là thơ Hàn Mạc Tử”
1.4.3 Trăng – người bạn tâm giao và nguồn sáng tạo vô biên
Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một người bạn đồng hành với mọi biến cố
trong cuộc đời ông. Và chưa bao giờ người ta thấy trong một tập thơ tràn ngập cả ánh trăng như
trong thơ Hàn Mặc Tử: Trăng đẹp, Trăng lung linh huyền ảo đi cùng với “Trăng điên”, “Trăng
hủi”. Với Hàn Mặc Tử Trăng tồn tại và xuất hiện ở khắp mọi nơi.
“Không gian tràn ngập toàn trăng cả
Tôi cũng Trăng mà nàng cũng Trăng”
(Huyền ảo)
Hàn Mặc Tử có 5 tập thơ chính thì đã có đến 3 tập nói về Trăng, viết về Trăng. Riêng tập
“Thơ điên” có đến 16 bài viết về Trăng, ngạc nhiên hơn nữa là chỉ có một bài thơ Trăng vàng
Trăng ngọc có tất cả 15 câu mà có đến 28 lần nhắc đến Trăng. Hay như bài Rượt Trăng có đến 17
từ Trăng thay phiên nhau tỏa rọi trong thơ.
“Trăng bay lả tả ngã lên cành vàng
Tới đây là nơi tôi được gặp nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa tôi vào rừng hoang
Tôi lượm lá trăng lâm chiếu trải”
(Rượt trăng)
Trăng như một người bạn tri kỷ theo suốt thi sĩ trong mọi quá trình, mọi biến cố. Đặc biệt
Trăng như một người bạn tâm giao, người bạn tình về đêm của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh
sáng vừa của nội tâm, vừa của ngoại giới. Trăng chính là nơi để nhà thơ trút bầu tâm sự, để được
“điên” cùng Trăng, để được “hạnh phúc” cùng trăng
“Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy
Cho nên muôn dặm ở ngoài kia
Em đang mong mỏi, em đang nhớ
Bứt rứt lòng em muốn trở về”
(Thao thức)
Bên cạnh Trăng là người bạn tâm giao với những vẽ đẹp lung linh thì Trăng còn có những
“hành động” lạ:

“Lá đổ sào sào


Trăng vào xôn xao
Chuỗi cười ha hả
Trên cánh đồi cao”
(Chuỗi cười)
Hay:
“Ánh trăng mỏng quá không che nỗi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ”
(Huyền ảo)
Rồi:
Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đùa trăng đến bên ao
Trăng lại đẫm mình xuống nước
Trăng nước đều lặng nhìn nhau
(Bắt chước)
Bên cạnh đó, Trăng còn được miêu tả như là người bạn tri kỷ, tâm giao, có cảm xúc, biết tâm
tình, chia sẻ, biết “lã lơi”, biết gào thét:
“Ta gặp nàng Trăng ở suối Trăng
Nỗi lòng ta mở lẹ như Trăng
Sáng trưng sáng cả vùng tiên động
Ta ngắm hồn ta sang trẻ măng”
(Chơi trên Trăng)
Trăng còn có sự “Lã lơi”, một hành động gợi tình “rất người”
“Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu
Đội gió đông về để lã lơi”
(Bẽn lẽn)
Rồi Trăng uốn mình như thiếu nữ, quỳ sấp mặt theo dáng liễu như đang gợi tình:
“Bỗng đêm nay trước cửa bóng Trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”
(Hãy nhập hồn em)
Bên cạnh đó, trăng còn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên, là nguồn cội của tuổi thơ. Đối
với Hàn Mặc Tử, ngay từ thủa nhỏ, trăng đã thoát khỏi tất cả những ý nghĩa thông thường mà
chúng ta thường gán cho vầng trăng, ánh nguyệt. Trăng trở thành thơ, trăng trở thành nhạc. Trăng
là thơ và là nhạc ở thi sĩ Hàn đã có ngay từ những suy nghĩ đầu tiên của tuổi thơ. Và khi lớn lên,
trăng sẽ là chia ly, đau khổ, là cõi siêu hình, là sự rung động tận cùng trong mọi tạo tác.
Trong bài thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng có thể coi là bản tuyên ngôn thơ của Hàn Mạc Tử,
thi sĩ coi trăng như một thực thể sáng tạo :“Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh
sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy
có nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả... Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là chỗ ấy, thứ ấy
vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăng rằm trung thu : một đêm siêu
hình vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa,
hiện hình của một nguồn khoái lạc chán chê”
Như vậy chúng ta thấy, Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử như một nhân vật không thể thiếu để tạo
ra câu chuyện, để thổ lộ tâm tình. Trăng hóa người rồi đến người hóa Trăng, tất cả không ngoài
mục đích tạo nền tảng cho thi sĩ trút bỏ nỗi lòng mình. Trăng có đủ ngoại hình, có đủ đặc điểm,
tính cách như một nhân vật. Đồng thời “Trăng cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng trơ
tráo và náo nức dục tình” (1; tr 206). Và trăng còn là người bạn khơi nguồn sáng tạo những vần
thơ vô biên cho chính nhà thơ.
1.5 Kết luận
Với một thời gian ngắn hoạt động trên văn đàn, Hàn Mặc Tử đã chuyển từ cổ điển, lãng mạn
sang tượng trưng, siêu thực, góp một phần quan trọng vào quá trình hiện đại hóa thi ca nước nhà.
Thơ Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng đậm nét của ông tổ trường phái tượng trưng Bauderlaire. Vì thế
khi đọc thơ ông người đọc như bị hòa lẫn vào những trạng thái cảm xúc tột cùng, như bị lạc vào
một thế giới mơ hồ, huyền ảo, nửa hư nửa thực không phân định cùng với một lối thơ Không rên
siết là thơ vô nghĩa lý. Trong thế giới thơ ấy cái tôi thi nhân rã rời thành muôn mảnh Trăng –
Hồn – Máu và chính nó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật thường trực, bất biến trong thơ thi sĩ
Hàn.

You might also like